Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Psammuthes”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
4
 
Dòng 40: Dòng 40:
Theo một giả thuyết của nhà [[Ai Cập học]] [[John D. Ray]], vào thời điểm [[Nepherites I]] qua đời trong năm 393 TCN, ngai vàng được truyền lại cho con trai và người kế vị của ông ta mà có thể là [[Hakor]]. Tuy nhiên, dường như vào năm trị vì thứ 2 của vị vua này, một kẻ tiếm vị, Psammuthes (tên gọi theo [[tiếng Hy Lạp]] của '''Pasherienmut'''),<ref name=Clayton203>Peter Clayton, ''Chronicle of the Pharaohs'', Thames and Hudson Ltd. 1994 p.203</ref> đã giành được quyền lực và lật đổ Hakor, đồng thời tự tuyên bố mình là pharaon.
Theo một giả thuyết của nhà [[Ai Cập học]] [[John D. Ray]], vào thời điểm [[Nepherites I]] qua đời trong năm 393 TCN, ngai vàng được truyền lại cho con trai và người kế vị của ông ta mà có thể là [[Hakor]]. Tuy nhiên, dường như vào năm trị vì thứ 2 của vị vua này, một kẻ tiếm vị, Psammuthes (tên gọi theo [[tiếng Hy Lạp]] của '''Pasherienmut'''),<ref name=Clayton203>Peter Clayton, ''Chronicle of the Pharaohs'', Thames and Hudson Ltd. 1994 p.203</ref> đã giành được quyền lực và lật đổ Hakor, đồng thời tự tuyên bố mình là pharaon.


[[File:Psammuthis-ReliefFragmentBearingNames MetropolitanMuseum.jpg|thumb|left|150px|Phù điêu có khắc một phần tước hiệu hoàng gia của Psammuthes, [[Bảo tàng nghệ thuậ Metropolitan]].]]
[[File:Psammuthis-ReliefFragmentBearingNames MetropolitanMuseum.jpg|thumb|left|150px|Phù điêu có khắc một phần tước hiệu hoàng gia của Psammuthes, [[Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan]].]]

Cả Manetho và ''[[Biên niên sử thông dụng]]'' đều ghi lại thời gian cai trị của Psammuthes là một năm, đồng thuận với niên đại cao nhất được lưu giữ bởi các di tích khảo cổ học, một tấm bia Mẹ của Apis ghi lại "Năm 1, tháng thứ tư của [[Peret]]".

==Xem thêm==
==Xem thêm==
*[[Muthis]]
*[[Muthis]]

Phiên bản lúc 15:13, ngày 24 tháng 2 năm 2018

Psammuthes là một pharaon thuộc vương triều thứ Hai mươi chín của Ai Cập, ông ta cai trị trong năm 392/1 TCN.

Tiểu sử

Vị trí của vị vua này trong vương triều thứ 29 là một vấn đề gây tranh luận. Mặc dù ông được nhắc đến trong cả ba Bản Tóm tắt của Manetho (Africanus, Eusebius và phiên bản tiếng Armenia sau này) và trong Biên niên Sử thông dụng, trình tự các vị vua lại khác nhau giữa những nguồn này và không rõ liệu rằng Psammuthes đã kế vị Hakor hay ngược lại.

Theo một giả thuyết của nhà Ai Cập học John D. Ray, vào thời điểm Nepherites I qua đời trong năm 393 TCN, ngai vàng được truyền lại cho con trai và người kế vị của ông ta mà có thể là Hakor. Tuy nhiên, dường như vào năm trị vì thứ 2 của vị vua này, một kẻ tiếm vị, Psammuthes (tên gọi theo tiếng Hy Lạp của Pasherienmut),[1] đã giành được quyền lực và lật đổ Hakor, đồng thời tự tuyên bố mình là pharaon.

Phù điêu có khắc một phần tước hiệu hoàng gia của Psammuthes, Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan.

Cả Manetho và Biên niên sử thông dụng đều ghi lại thời gian cai trị của Psammuthes là một năm, đồng thuận với niên đại cao nhất được lưu giữ bởi các di tích khảo cổ học, một tấm bia Mẹ của Apis ghi lại "Năm 1, tháng thứ tư của Peret".

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ Peter Clayton, Chronicle of the Pharaohs, Thames and Hudson Ltd. 1994 p.203

Thư mục

Ray, J. D., 1986: "Psammuthis and Hakoris", The Journal of Egyptian Archaeology, 72: 149-158.

Tiền nhiệm
Hakor
Pharaon của Ai Cập
Vương triều thứ 29
Kế nhiệm
Hakor