Lệnh Ý Hoàng quý phi
Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu 孝儀純皇后 | |||||
---|---|---|---|---|---|
Gia Khánh Đế sinh mẫu | |||||
Hoàng quý phi Đại Thanh | |||||
Tại vị | 9 tháng 5 năm 1765 - 29 tháng 1 năm 1775 | ||||
Đăng quang | 11 tháng 6 năm 1765 | ||||
Tiền nhiệm | Hoàng quý phi Tô thị | ||||
Kế nhiệm | Hoàng quý phi Nữu Hỗ Lộc thị | ||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | 23 tháng 10, 1727 | ||||
Mất | 28 tháng 2, 1775 Bắc Kinh | (47 tuổi)||||
An táng | 23 tháng 10 năm 1775 Địa cung của Thanh Dụ lăng | ||||
Phối ngẫu | Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế | ||||
Hậu duệ |
| ||||
| |||||
Tước hiệu | [Quý nhân; 貴人] [Lệnh tần; 令嫔] [Lệnh phi; 令妃] [Lệnh Quý phi; 令貴妃] [Hoàng quý phi; 皇貴妃] [Hoàng hậu; 皇后] (truy tặng) | ||||
Thân phụ | Ngụy Thanh Thái | ||||
Thân mẫu | Dương Giai thị |
Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu (chữ Hán: 孝儀純皇后, tiếng Mãn: ᡥᡳᠶᠣᠣᡧᡠᠩᡤᠠ
ᠶᠣᠩᠰᠣᠩᡤᠣ
ᠶᠣᠩᡴᡳᠶᠠᡥᠠ
ᡥᡡᠸᠠᠩᡥᡝᠣ, Möllendorff: hiyoošungga yongsonggo yongkiyaha hūwangheo, Abkai: hiyouxungga yongsonggo yongkiyaha hvwangheu; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu Lệnh Ý Hoàng quý phi (令懿皇貴妃), là phi tần của Thanh Cao Tông, mẹ đẻ của Thanh Nhân Tông.
Trong lịch sử hậu cung, Lệnh Ý Hoàng quý phi là phi tần sinh nhiều con nhất cho Càn Long Đế và con số này cũng thuộc hàng nhiều nhất nếu so với một số hậu phi khác của nhà Thanh. Bà chưa từng được lập làm Hoàng hậu khi còn sống, danh phận cao nhất của bà là Hoàng quý phi, do là sinh mẫu của Thái tử nên được truy tặng làm Hoàng hậu, thụy hiệu cũng đổi thành Hiếu Nghi (孝儀).
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu, sinh ngày 9 tháng 9 (âm lịch) vào năm Ung Chính thứ 5 (tức ngày 23 tháng 10 năm 1727), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ Ngụy Giai thị, nguyên họ Ngụy thị, xuất thân từ Chính Hoàng kỳ thuộc tầng lớp Bao y[a]. Dòng họ bà sau đó được sửa gọi thành Ngụy Giai thị cho giống với Mãn tộc[1].
Cứ theo Thanh sử cảo, Ngụy Giai thị là người Hán thuộc Hán Quân kỳ. Còn theo Bát Kỳ Mãn Châu thị tộc thông phổ (八旗滿洲氏族通譜), Ngụy Giai thị vốn xuất thân từ dòng họ Thẩm Dương Ngụy thị (瀋陽魏氏), nhưng thiếu cứ liệu chi tiết. Có một ít tư liệu chứng minh, tổ tiên Ngụy thị vốn là bộ hạ của Tam Phiên Cảnh thị (三藩耿氏).[b] Tam Phiên Cảnh thị có 7 chức Tá lĩnh, gồm 2 cũ 5 mới, trong đó có Tân Tá lĩnh tên Ngụy Quốc Hiền (魏國賢), là tổ 4 đời của Ngụy thị, mà chi họ của Ngụy Quốc Hiền ở thời kỳ Thanh sơ đã cải thành Chính Hoàng kỳ Bao y. Đến thời trung kì Ung Chính, gia tộc Ngụy Giai thị đã đạt đến hàng giai cấp tầm trung đẳng trong nhóm quan lại Bao y thuộc Nội vụ phủ.
Tằng tổ phụ của bà là tặng Hộ trường quân đội Ngụy Tự Hưng (魏嗣兴), tằng tổ mẫu Trần thị; nội tổ phụ Tổng quản Nội vụ phủ đại thần Ngụy Võ Sĩ Nghi (魏武士宜), sơ nhậm Nội Quản lĩnh, có hai vợ là Niên thị và Triều thị. Tuy Võ Sĩ Nghi làm chức Nội vụ phủ Tổng quản khá ngắn, nhưng có thể đảm đương tới vị trí như vậy, chứng minh khi đó vị thế của gia tộc Ngụy thị cũng thuộc hàng có căn cơ và danh vọng lớn trong nhóm quan viên Nội vụ phủ. Cha bà là Ngụy Thanh Thái, người Giang Tô, từng giữ chức Nội Quản lĩnh. Mẹ bà là Dương Giai thị, từng cùng tổ mẫu của Ngụy thị là Niên thị đảm nhiệm vị trí nữ quan tuyên sách bảo văn trong hậu cung.[c] Bên cạnh đó, chú bác trong họ nhà bà, thời kì Ung-Càn đều là quan viên trung cấp của Nội vụ phủ, bà còn có hai người anh em trai, một tên Cát Khánh, một tên Đức Hinh.
Như vậy tổng quan mà nói, Nguỵ thị xuất thân Chính Hoàng kỳ Bao y, thuộc Thượng tam kỳ Bao y là tầng lớp phục vụ hoàng thất Mãn Châu. Khi đến tuổi trưởng thành, nhờ lệ thuộc Nội vụ phủ, Ngụy thị theo lẽ thường mà được chọn vào cung trong đợt Nội vụ phủ tuyển tú hằng năm. Với thân phận là Nội vụ phủ Bao y nữ tử, Ngụy thị theo sự sắp đặt của Nội vụ phủ vào cung làm Cung nữ tử, tức cung nữ hầu hạ cho Hậu phi trong nội đình.
Nhập cung làm phi
[sửa | sửa mã nguồn]Theo những ngự chế thơ của Càn Long Đế đề cập, Ngụy thị chịu sự giáo dục của Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu Phú Sát thị - vợ cả của Càn Long, và việc bà trở thành tần phi cũng là do Hoàng hậu tiến cử lên. Không rõ thời gian bà trở thành tần phi chính thức của Càn Long Đế, chỉ biết tư liệu về bà ghi sớm nhất vào thời Càn Long đã là Quý nhân.
Năm Càn Long thứ 10 (1745), ngày 23 tháng 1 (âm lịch), Càn Long Đế ra chỉ dụ tấn phong Quý phi Cao thị làm Hoàng quý phi, đồng thời đại phong hậu cung, Nhàn phi Na Lạp thị cùng Thuần phi Tô thị thăng Quý phi, Du tần lên Phi, còn Quý nhân Ngụy thị được phong Tần.[2] Từ tước Tần thì các hậu phi sẽ có phong hiệu, và phong hiệu của Ngụy thị được chọn là Lệnh (令). Căn cứ Hồng xưng thông dụng (鴻稱通用) của Nội vụ phủ soạn thảo, "Lệnh" theo Mãn ngữ có âm rằng 「Mergen」, nghĩa là "Thông tuệ", "Sáng suốt". Ngày 17 tháng 11 (âm lịch) cùng năm ấy, lấy Công bộ Thượng thư Đạt Ha (達哈) làm Chính sứ, Nội các Học sĩ Ngũ Linh An (伍齡安) làm Phó sứ, hành lễ sách phong Lệnh tần.[3] Năm Càn Long thứ 13 (1748), Càn Long Đế quyết định đại phong hậu cung, Lệnh tần được phong lên làm Lệnh phi.[4] Sang năm sau (1749), vào ngày 5 tháng 4 (âm lịch), chính thức cử hành lễ sắc phong, lấy Lại bộ thượng thư Trần Đại Thụ (陳大受) làm Chính sứ, Lễ bộ Thị lang Mộc Hòa Lâm (木和林) làm Phó sứ, hành lễ sách phong Lệnh phi (令妃).[5]
Năm Càn Long thứ 21 (1756), ngày 21 tháng 4 (âm lịch), Lệnh phi Ngụy thị được chẩn đoán mang thai, ngày 15 tháng 7 sinh hạ Thất công chúa, tức Cố Luân Hòa Tĩnh Công chúa. Không lâu sau, năm thứ 22 (1757), ngày 26 tháng 5, Lệnh phi mang thai lần 2, ngày 17 tháng 7 hạ sinh Hoàng thập tứ tử Vĩnh Lộ, là Hoàng tử đầu tiên trong số những người con của bà. Sang năm thứ 23 (1758), ngày 14 tháng 7, giờ Tuất, Lệnh phi lại tiếp tục sinh Hoàng cửu nữ, tức Hòa Thạc Hòa Khác Công chúa. Có thể thấy đây là giai đoạn mà Ngụy thị sinh nở liên tục nhất. Ngày 21 tháng 11 cùng năm, ra chỉ dụ Lệnh phi Ngụy thị được thăng làm Lệnh Quý phi (令貴妃). Ngày 17 tháng 12 (âm lịch) cùng năm, lấy Đại học sĩ Phó Hằng làm Chính sứ, Hiệp bạn Đại học sĩ Lưu Thống Huân làm Phó sứ, hành Quý phi sách phong lễ.[6]
Trong thời gian làm Quý phi, Ngụy thị xuất hiện trong bức tranh "Tắc yến tứ sự đồ" (塞宴四事图) của Lang Thế Ninh, một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Lúc này, Ngụy thị đang mang bầu Hoàng thập ngũ tử Vĩnh Diễm hơn 7 tháng và chỉ chưa đầy 1 tháng sau là sinh con. Trong bức tranh không khó để nhận ra hình ảnh của Lệnh Quý phi trong nhóm phi tần bồi giá. Bảy vị đứng trước doanh trại, Lệnh Quý phi Ngụy thị đang mang thai ở những tháng cuối nên được sáu người còn lại dìu đỡ. Vị đang đỡ tay Quý phi là Khánh phi, vị mặc đồ Mông Cổ là Dự tần. Vị đứng phía sau là Thư phi, từ trái qua phải tiếp đó là Hãn tần, Dĩnh phi và Dung tần.
Năm Càn Long thứ 25 (1760), ngày 18 tháng 3 (âm lịch), con trai đầu của Lệnh Quý phi là Hoàng thập tứ tử Vĩnh Lộ, trong quá trình chủng đậu thì mất, khi năm 3 tuổi. Cùng năm ấy, vào ngày 6 tháng 10 (âm lịch), giờ Sửu, Lệnh Quý phi Ngụy thị sinh được Hoàng thập ngũ tử Vĩnh Diễm tại Thiên Địa Nhất Gia Xuân (天地一家春), một cư thất ở hành cung Viên Minh Viên, đây chính là vua Gia Khánh tương lai. Năm thứ 27 (1762), ngày 30 tháng 11 (âm lịch), Ngụy thị lại hạ sinh Hoàng thập lục tử, nhưng hoàng tử chết yểu do bệnh đậu mùa khi mới 2 tuổi. Năm Càn Long thứ 30 (1765), tháng 1, Lệnh Quý phi Ngụy thị được theo hầu Càn Long Đế và Kế Hoàng hậu Na Lạp thị đi tuần du phía nam sông Dương Tử, Thái Sơn, và Nhiệt Hà, xuyên qua các vùng Dương Châu, Tô Châu, Giang Ninh và Hàng Châu, đi theo còn có Khánh phi Lục thị, Dung tần Hòa Trác thị, Vĩnh Thường tại Uông thị và Ninh Thường tại. Tháng 2 năm đó, cả đoàn Nam tuần đi đến Hàng Châu, sang ngày 18 tháng 2 thì Hoàng hậu Na Lạp thị xảy ra bất hòa với nhà vua, từ đó bị giam cầm trong cung đến khi mất.
Ngày 9 tháng 5 (âm lịch) cùng năm, sau khi Nam tuần trở về, Càn Long Đế theo ý chỉ của Sùng Khánh Hoàng thái hậu, tấn phong Lệnh Quý phi làm Hoàng quý phi.[7] Sang ngày 11 tháng 6 (âm lịch) cùng năm, mệnh Đại học sĩ Phó Hằng làm Chính sứ, lấy Hiệp bạn Đại học sĩ Lễ bộ Thượng thư Trần Hoành Mưu (陳宏謀) làm Phó sứ, tuyên phong lễ cho Ngụy thị làm Hoàng quý phi. Năm Càn Long thứ 31 (1766), ngày 11 tháng 5, Ngụy thị hạ sinh Hoàng thập thất tử Vĩnh Lân. Trong thời gian làm Hoàng quý phi, Ngụy thị thường ở tại Trữ Tú cung.
Từ sau khi Kế hoàng hậu bị giam cầm, Ngụy thị là ở vị thế Hoàng quý phi mà trở thành phi tần có tước vị cao nhất, ở vị trí Hoàng quý phi được 10 năm, đồng thời là Hoàng quý phi tại vị cuối cùng dưới thời Càn Long. Năm Càn Long thứ 38 (1773), con trai của Hoàng quý phi Ngụy thị là Thập ngũ a ca Vĩnh Diễm, khi ấy 13 tuổi, được Càn Long chọn làm Thái tử một cách bí mật.
Qua đời
[sửa | sửa mã nguồn]Sức khỏe của Hoàng quý phi Ngụy thị suy kém đi từ sau lần tham quan Nhiệt Hà cùng nhà vua cuối năm Càn Long thứ 39 (1774), sang đầu năm (1775), bệnh tình của bà ngày càng nặng. Hai ngày 11[8] và ngày 27[9] của tháng giêng năm đó, vua Càn Long đã từng đi thăm bệnh bà. Vào giờ mão (5-7 giờ) ngày 29 tháng 1 (âm lịch), Hoàng quý phi Ngụy thị qua đời khi 49 tuổi. Càn Long đã 2 lần đến tế rượu quan tài bà ở Cát An sở (吉安所).[d][10]
Theo chế độ định sẵn, Càn Long Đế ngừng triều 5 ngày, phái Hoàng lục tử Vĩnh Dung, Hoàng bát tử Vĩnh Tuyền, Hoàng thập nhị tử Vĩnh Cơ, Hoàng thập ngũ tử Vĩnh Diễm, Hoàng tôn Miên Đức, Miên Ức, Miên Huệ, Hoàng cửu nữ Hòa Thạc Hòa Khác Công chúa, các Ngạch phò Lạp Vượng Đa Nhĩ Tế, Trát Lan Thái và Đan Ba Đa Nhĩ Tế mặc tang phục, còn phái Vĩnh Dung cùng Thượng thư Vĩnh Quý, Tổng quản Nội vụ Phủ đại thần Kim Giản cùng quản lý tang nghi theo quy cách[11]. Lễ tang của Hoàng quý phi Ngụy thị được án theo lễ tang Tuệ Hiền Hoàng quý phi.[12]
Ngày 5 tháng 2, Càn Long đích thân đến đưa kim quan của Hoàng quý phi Ngụy thị về tạm an ở Tĩnh An trang[13]. Ngày 11 tháng 2, lấy Giản Thân vương Phong Nột Hanh làm Chính sứ, Hiệp bạn Đại học sĩ Lại bộ Thượng thư Quan Bảo (官保) làm Phó sứ, sách văn ban thụy hiệu là Lệnh Ý Hoàng quý phi (令懿皇貴妃)[14]. Thụy hiệu "Ý", Mãn văn là 「Fujurungga」, nghĩa là "Đoan trang", "Có phong độ" là do đích thân vua Càn Long đặt cho bà. Những ngày Hành sơ nghi thức tế lễ, Hành đại nghi thức tế lễ, Hành trăm ngày nghi thức tế lễ, đều do con trai bà Vĩnh Diễm cử hành.[15]
Ngày 23 tháng 10, giờ Thìn, Càn Long Đế làm lễ phụng an kim quan của Lệnh Ý Hoàng quý phi đến địa cung của Dụ lăng.[16] Theo trình tự thời gian, Lệnh Ý Hoàng quý phi Ngụy thị là người thứ 5 và cũng là người cuối cùng được phụ táng cùng với Càn Long Đế tại địa cung, nằm ở phía bên phải Đế quan của Hoàng đế.
Sau khi qua đời
[sửa | sửa mã nguồn]Truy tặng làm Hoàng hậu
[sửa | sửa mã nguồn]Năm Càn Long thứ 60 (1795), ngày 3 tháng 9 (âm lịch), Càn Long Đế tuyên bố Hoàng thập ngũ tử Vĩnh Diễm là Hoàng thái tử. Lệnh Ý Hoàng quý phi, do là sinh mẫu của Thái tử nên được truy tặng làm Hoàng hậu, thụy hiệu cũng đổi thành "Hiếu Nghi" (孝儀). Theo Mãn văn, "Nghi" là「Yongsunggo」, nghĩa là "Có lễ độ".
Ngày 13 tháng 10 cùng năm, Thái tử Vĩnh Diễm kế vị, Càn Long Đế trở thành Thái thượng hoàng. Ngày 27 tháng 10, lấy Duệ Thân vương Thuần Dĩnh làm Chính sứ, Trịnh Thân vương Ô Nhĩ Cung A làm Phó sứ, tuyên cáo sách tặng Lệnh Ý Hoàng quý phi làm Hiếu Nghi Hoàng hậu (孝儀皇后).
Khi bài vị của bà được ban ân thăng phụng Phụng Tiên điện, trước đó nên tế cáo Thái Miếu và cử hành nghi lễ tế cáo Thiên địa, nhưng cuối cùng không cử hành tế cáo. Sự việc này ghi lại trong Thanh Cao Tông thực lục, vào tháng 10 năm thứ 60, nội dung rằng: "Thái thường tự tấu vào ngày 17 tháng 12 này, bài vị của Hiếu Nghi Hoàng hậu nên theo lệ thăng phụ Phụng Tiên điện, sau đó nên tế cáo Trời đất và Thái miếu. Trước một ngày cần bẩm báo Tông Nhân phủ để chọn Thân vương tế cáo. Nhưng Hoàng thượng hạ chỉ không cần cử hành"[17].
Lý do cho việc này được Càn Long ghi lại trong một chỉ dụ rất dài, đại khái thì:"Ngày Kỷ Hợi, chỉ dụ Hoàng thái tử, Hoàng tử, Quân cơ đại thần rằng: Điển lễ của quốc triều coi trọng nhất là tế thần cúng thần..(lược)... Quốc triều ta văn phong thuần phác, không chuộng cầu kỳ. Ngày hôm nay, Thái thường tự tâu lên rằng quan bộ Lễ suy nghĩ kỹ lưỡng, bài vị của Hiếu Nghi Hoàng hậu khi đưa lên Phụng Tiên điện, trước đó nên tế cáo Trời đất và Thái miếu mới thỏa. Trẫm lại nghĩ chuyện này không thích hợp. Hiếu Nghi Hoàng hậu, do sinh được Tự Hoàng đế đã được ân điển sách tặng. Trước đó đã cho tế cáo Phụng Tiên điện, nếu tế Thái Miếu, Thiên địa nữa thì rất phiền hà. Vậy nên không cần cử hành. Con cháu của trẫm về sau, nếu sách tặng mẫu hậu, tất nên làm theo ý của trẫm, lấy đức hiền cung phụng, chớ nên bày vẽ xa hoa".[18]
Năm Gia Khánh thứ 4 (1799), ngày 19 tháng 9 (âm lịch), sau khi Càn Long Đế qua đời, Gia Khánh Đế đưa bài vị của đích mẫu Hiếu Hiền hoàng hậu và sinh mẫu Hiếu Nghi hoàng hậu vào Thái Miếu.[19] Đồng thời ông gia tôn thêm thụy hiệu cho mẹ mình, từ Hiếu Nghi Hoàng hậu thành Hiếu Nghi Cung Thuận Khang Dụ Từ Nhân Dực Thiên Dục Thánh Thuần Hoàng hậu (孝儀恭順康裕慈仁翼天毓聖純皇后).[20] Lúc này, bà được gọi thành "Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu".
Qua các đời Gia Khánh và Đạo Quang liên tục dâng thụy hiệu, thì thụy hiệu đầy đủ của Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu là: Hiếu Nghi Cung Thuận Khang Dụ Từ Nhân Đoan Khác Mẫn Triết Dực Thiên Dục Thánh Thuần Hoàng hậu (孝儀恭順康裕慈仁端恪敏哲翼天毓聖純皇后).
Đối đãi với gia tộc
[sửa | sửa mã nguồn]Theo truyền thống nhà Thanh, gia tộc của Ngụy thị được nâng kỳ thành Mãn Châu Tương Hoàng kỳ. Sau sửa gọi Ngụy Giai thị.
Vào năm Càn Long thứ 16, khi bà đã là Lệnh phi, nhà họ Ngụy được sửa thiện đãi, nâng toàn gia làm Tương Hoàng kỳ Bao y Tá lĩnh.[21] Đến năm Càn Long thứ 40, ngày 25 tháng 1 (âm lịch), trước khi bà qua đời 4 ngày, Càn Long Đế quyết định đem nhà Ngụy Giai thị ra khỏi Nội vụ phủ, đưa vào Mãn Châu Tương Hoàng kỳ.[22] Có thể thấy rõ, vào thời điểm trước cả khi Ngụy Giai thị qua đời, cả nhà bà đã chính thức trở thành Mãn tộc. Khâm định Bát kỳ thông chí, quyển 2 dẫn nguyên văn chủ dụ:
“ | Năm Càn Long thứ 40, phụng chỉ đem ngoại thích của Lệnh Ý Hoàng quý phi ra khỏi Nội vụ phủ, biên lập bản kỳ. Vì nhân khẩu không đủ nên thiết lập ra bán phân thế quản tá lĩnh. Lấy Viên ngoại lang bao y tá lĩnh Đức Hinh quản lý. | ” |
Càn Long năm thứ 60, từ khi Ngụy Giai thị trở thành Hiếu Nghi Hoàng hậu, Càn Long Đế lấy lý do Hiếu Nghi hậu "’’kém hơn Hiếu Hiền hậu (Hiếu Hiền chi thứ)", nên tạm cho gia tộc họ Ngụy tước truyền đời hạ xuống "Nhất đẳng Hầu" (一等侯).[23] Cha của Hiếu Nghi hậu là Ngụy Thanh Thái được Càn Long truy tặng làm "Tam đẳng Thừa Ân công" (三等承恩公), còn Dương Giai thị tặng làm "Công thê Nhất phẩm phu nhân" (公妻一品夫人).[24]
Sách của Quất Huyền Nhã có đề cập, huyền tôn nữ của Đức Hinh (em trai Lệnh Ý hoàng quý phi) gả cho Nhất đẳng Đôn Huệ bá Thịnh Kinh tướng quân Thừa Trung, thế là gia phả của nhà này lưu truyền một sự tích rằng Hiếu Nghi hậu từng từ chối vua Càn Long phong chức tước cho gia đình, lấy lý do "Bọn trong nhà không được dạy dỗ đàng hoàng, không nên được dùng làm quan" (彼等无教,不能尽为官).[25]
Đánh giá
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 30 tháng Giêng năm Càn Long thứ 40 (1775), sau khi đến tế rượu trước kim quan của Lệnh Ý hoàng quý phi, vua Càn Long có viết 1 bài thơ có tên "Khế Thừa Quang điện tác" (Nghỉ ở điện Thừa Quang), trong đó có nhắc đến người vợ quá cố và gọi bà là "Hiền phi".[26]
Lăng mộ
[sửa | sửa mã nguồn]Khoảng 16 năm sau khi Thanh triều diệt vong (tháng 7 năm 1928), quân phiệt Tôn Điện Anh tổ chức khai quật mộ Càn Long Đế và Từ Hi Thái hậu để vơ vét châu báu. Biết được việc này, cựu hoàng là Phổ Nghi lệnh cho bọn Tái Trạch, Kỳ Linh, Bảo Hy đến quần thể Thanh Đông lăng xem xét. Trong quá trình đó, người ta phát hiện ở góc phía tây của địa cung Dụ lăng có di thể của một phụ nữ còn đầy đủ da thịt, không bị thối rữa.[27][28]
Căn cứ theo sử sách thì trong địa cung ngoài Càn Long Đế thì có 2 vị Hoàng hậu là Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu và Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu cùng 3 vị Hoàng quý phi là Triết Mẫn Hoàng quý phi, Tuệ Hiền Hoàng quý phi và Thục Gia Hoàng quý phi là được hợp táng. Dựa vào nhân dạng và độ tuổi của xác chết, người ta suy đoán đó là ngọc thể của Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu. Nhưng cũng không loại trừ khả năng đó là của bọn trộm mộ đem vào. Sau này, khi chính phủ Trung Quốc tiến hành tu sửa Dụ Lăng, xác nữ trên đã hóa thành xương trắng, không thể xác minh được nữa.[27]
Hậu duệ
[sửa | sửa mã nguồn]Bà đã sinh cho Càn Long Đế tổng cộng 6 người con, 4 Hoàng tử và 2 Hoàng nữ. Đó là:
- Hoàng thất nữ Cố Luân Hòa Tĩnh Công chúa (固伦和静公主, 10 tháng 8 1756 – 9 tháng 2 1775), Hoàng nữ thứ 7 của Càn Long, tháng 7 năm 1770 hạ giá lấy Mông Cổ Siêu Dũng Thân vương Lạp Vượng Đa Nhĩ Tể (拉旺多尔济), cháu của Sách Lăng (策棱).
- Hoàng thập tứ tử Vĩnh Lộ (永璐, 31 tháng 8 năm 1757 – 3 tháng 5 năm 1760), Hoàng tử thứ 14 của Càn Long Đế, không có truy phong. Táng cùng một nơi với Thập tam A ca Vĩnh Cảnh - con trai út của Kế Hoàng hậu, trong lăng mộ của Đoan Tuệ Hoàng thái tử Vĩnh Liễn [29].
- Hoàng cửu nữ Hòa Thạc Hòa Khác Công chúa (和硕和恪公主; 17 tháng 8 1758 – 14 tháng 12 1780), Hoàng nữ thứ 9 của Càn Long Đế, tháng 9 năm 1772 hạ giá lấy Ô Nhã Trát Lan Thái (烏雅札蘭泰)
- Hoàng thập ngũ tử Vĩnh Diễm (永琰), tức Thanh Nhân Tông Gia Khánh Hoàng đế. Từ nhỏ đã được giao cho Khánh Cung Hoàng quý phi Lục thị nuôi dưỡng.
- Hoàng thập lục tử (皇十六子; 13 tháng 1, năm 1763 – 6 tháng 5, năm 1765), Hoàng tử thứ 16 của Càn Long Đế, không có truy phong. Táng vào cùng mộ với Vĩnh Cảnh và Vĩnh Lộ.
- Hoàng thập thất tử Vĩnh Lân (永璘, 17 tháng 6 1766 – 25 tháng 4 1820), Hoàng tử thứ 17 và là con trai út của Càn Long Đế, do Dĩnh Quý phi nuôi dưỡng. Sơ phong tước (Khánh Quận vương; 慶郡王), rồi (Khánh Thân vương; 慶親王; 1820) nhưng mất cùng vào năm đó. Thụy là Hi (僖).
Trong văn hóa đại chúng
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Phim điện ảnh và truyền hình | Diễn viên | Nhân vật |
1989 | 《Mãn Thanh thập tam Hoàng triều》 (滿清十三皇朝) |
Trần Địch Hoa 陳迪華 |
Lệnh phi |
1997 | 《Hoàn Châu cách cách 1》 (还珠格格第一部) |
Triệu Lệ Quyên 赵丽娟 | |
1998 | 《Hoàn Châu cách cách 2》 (还珠格格第二部) | ||
2003 | 《Hoàn Châu cách cách 3: thiên thượng nhân gian》 (还珠格格第三部:天上人間) |
Trần Lị 陳莉 | |
2006 | 《Thiếu niên Gia Khánh》 (少年嘉庆) |
Trang Khánh Ninh 莊庆宁 |
Ngụy Giai thị |
2007 | 《Nữ trạng tài danh》 (鐵咀銀牙) |
Trần Mẫn Chi 陈敏之 |
Hoàng hậu Ngụy thị |
2009 | 《Gia Khánh quân du Đài Loan》 (嘉庆君游台湾) |
Hà Âm 何音 |
Ngụy Giai Nhậm Nghi (魏佳仟仪) |
2011 | 《Tân Hoàn Châu cách cách》 (新还珠格格) |
Lưu Hiểu Diệp 刘晓晔 |
Lệnh phi |
2018 | 《Như Ý truyện》 (如懿傳) |
Lý Thuần 李純 |
Vệ Yến Uyển (卫嬿婉) |
2018 | 《Diên Hi công lược》 (延禧攻略) |
Ngô Cẩn Ngôn 吴谨言 |
Ngụy Anh Lạc (魏璎珞) |
2019 | 《Diên Hi công lược: Lá ngọc cành vàng》 (金枝玉叶) |
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Nguyên chữ Hán là Chính Hoàng kỳ Bao y Quản lĩnh hạ nhân (正黃旗包衣管領下人).
- ^ Là gia tộc họ Cảnh ở Phúc Kiến, tham dự Loạn Tam phiên.
- ^ Đây là một dạng tạm chức, vì nhà Thanh vốn không có nữ quan. Tuy nhiên để cho long trọng, triều đình hay lấy mệnh phụ từ Bát kỳ hoặc Nội vụ phủ kiêm chức này tạm thời trong khi cử hành lễ sách phong cho các tần phi.
- ^ Cát An sở là một phủ sở ở ngoài Tử Cấm Thành, phi tần hoặc hoàng tử, hoàng nữ khi hấp hối đều đưa ra đây, bởi vì chỉ có vua và thái hậu, hoàng hậu mới được mất trong nội cung[cần dẫn nguồn].
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Triệu Nhĩ Tốn (1928), Quyển 215 - Liệt truyện 1: Hậu phi: 孝仪纯皇后,魏佳氏,内管领清泰女。事高宗为贵人。封令嫔,累进令贵妃。乾隆二十五年十月丁丑,仁宗生。三十年,进令皇贵妃。四十年正月丁丑,薨,年四十九。谥曰令懿皇贵妃,葬胜水峪。六十年,仁宗立为皇太子,命册赠孝仪皇后。嘉庆、道光累加谥,曰孝仪恭顺康裕慈仁端恰敏哲翼天毓圣纯皇后。后家魏佳氏,本汉军,抬入满洲旗。子四:永璐,殇;仁宗;永璘;其一殇,未命名。女二,下嫁拉旺多尔济、札兰泰。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799), Quyển 233: 乾隆十年。...乙未。谕、朕奉皇太后懿旨。贵妃诞生望族。佐治后宫。孝敬性成。温恭素著。著晋封皇贵妃。以彰淑德。娴妃、纯妃、愉嫔、魏贵人。奉侍宫闱。慎勤婉顺。娴妃、纯妃、俱著晋封贵妃。愉嫔、著晋封为妃。魏贵人、著晋封为嫔。以昭恩眷。钦此。特行传谕。该部将应行典礼。察例具奏。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799), Quyển 253 - 乾隆十年十一月册封为令嫔。命工部尚书哈达哈为正使、内阁学士伍龄安为副使。持节、册封贵人魏氏、为令嫔。册文曰。朕惟仰事璇闱。必选柔嘉之质。佐徽、椒掖。久推淑慎之姿。载考彝章。特加锡命。咨尔贵人魏氏、久娴姆教。长奉女箴。礼法是宗。凛小心而严翼。敬勤弗怠。遵内则以温恭兹仰承皇太后慈谕。册封尔为令嫔。尔其只膺巽命。迓景福以咸绥。益懋壸仪。荷鸿庥于方永。钦哉。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799), Quyển 318: 乾隆十三年。戊辰。秋。七月。癸未朔......皇帝春秋鼎盛。内治需人。娴贵妃那拉氏系皇考向日所赐侧室妃......○又谕、朕奉皇太后懿旨。嘉妃、令嫔、舒嫔、陈贵人侍奉宫庭。恪勤淑顺。嘉妃著晋封为贵妃。令嫔、舒嫔著晋封为妃。陈贵人著晋封为嫔。钦此。传谕该部、将应行典礼。察例具奏......
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799), Quyển 338 - 乾隆十四年四月初五册封为令妃。命协办大学士吏部尚书陈大受为正使。礼部侍郎木和林为副使。持节、册封令嫔魏氏为令妃。册文曰。朕惟赞化宫闱。必赖柔嘉之质。服勤内殿宜邀锡命之荣。爰沛纶音。式加象服。尔令嫔魏氏、夙娴内则。早侍深宫。淑慎居心。雅协珩璜之度恪勤效职。克襄苹藻之荣。兹仰承皇太后慈谕。以册印封尔为令妃。尔其钦承休命。永流翟舀之芳。只荷鸿禧。勉奉掖庭之职。钦哉。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799), Quyển 603 - 乾隆二十四年十二月十七日册封为令贵妃。命大学士傅恒为正使。协办大学士刘统勋为副使。持节册封令妃魏氏为贵妃。册文曰。朕为化起二南。赞理必资乎淑德。官分九御。褒荣递进夫崇阶。爰沛纶音。式加象服。尔令妃魏氏。素娴女诫。早侍掖庭。勤慎居心。柔嘉著范。钦承圣母。供内职以无违。敬佐中宫。禀徽音而有恪。前晋封乎妃秩。已越十年。今称庆于宫闱。恭逢万寿。奉皇太后慈谕。册封尔为贵妃。尚其克承荣锡。永流翟舀之光。益懋芳徽。式协珩璜之度。钦哉。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799), Quyển 736: 谕、奉皇太后懿旨。令贵妃敬慎柔嘉。温恭端淑。自膺册礼。内治克勷。应晋册为皇贵妃。以昭壸范。钦此。所有应行典礼。各该衙门照例举行
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799), quyển 975: 乾隆四十年。乙未。正月。甲子。还宫。视皇贵妃疾。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799), quyển 975: 乙亥。上诣畅春园、问皇太后安。还宫。视皇贵妃疾。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799), quyển 975: 上至吉安所、令懿皇贵妃前奠酒。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799), quyển 975: 皇贵妃薨。谕、本月二十九日。皇贵妃薨逝。着称令懿皇贵妃。依例辍朝五日。派皇六子、皇八子、皇十二子、皇十五子、皇孙绵德、绵亿、绵惠、九公主、额驸拉旺多尔济、扎兰泰、及丹巴多尔济、丰绅济伦、穿孝。并派皇六子、尚书永贵、总管内务府大臣金简、经理丧仪。所有应行典礼。着各该衙门察例具奏。
- ^ Thông điển: 㫖皇貴妃薨逝著稱令懿皇貴妃又諭皇貴妃薨逝例應素服十日今已擇于二月初五日移殯靜安莊所有初六日經筵典禮仍照常舉行至初七八等日適屆社稷壇齋戒其應行陪祀執事大臣官員著於初七日起即穿用常服朝珠餘仍穿足素服十日二月奉移金棺於靜安莊一應典禮俱與慧賢皇貴妃同儀
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799): 二月○癸未。上至吉安所、临送令懿皇贵妃金棺、移殡静安庄。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799): 己丑。○命简亲王丰讷亨为正使。协办大学士尚书官保为副使。赍册宝。诣静安庄。赠谥皇贵妃为令懿皇贵妃。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799): ○癸巳。令懿皇贵妃行初祭礼。上命皇十五子永琰奠酒。○癸卯。令懿皇贵妃行大祭礼。上命皇十五子颙琰奠酒。五月○癸丑。令懿皇贵妃行百日祭礼。上命皇十五子颙琰奠酒。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799): 十月○壬辰。上至静安庄。视令懿皇贵妃金棺、奉移胜水峪启行。上命皇十五子颙琰恭送。于是月二十六日。奉安孝贤皇后陵寝。上还宫。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799), quyển 1489: 太常寺奏。本月二十七日。孝仪皇后神牌。升祔奉先殿。例应前一日遣官告祭天、地、太庙后殿。谨将宗人府送到亲王等职名。缮请钦点。得旨、著不必举行。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799), quyển 1489: 己亥。上谕皇太子、皇子、军机大臣曰、国朝旧典。最重祭神。。。我国家素敦醇朴。不尚繁文。即如本日太常寺具奏、准礼部咨称。孝仪皇后神牌。升祔奉先殿。前期告祭天、地、太庙一事。亦未免失当。孝仪皇后、乃朕因系嗣皇帝生母。恩旨册赠。止应于奉先殿祭告。若因此而举行天地庙祀大典。转邻于渎。已著不必举行。后世子孙。遇有册赠母后。即遵朕此旨办理。以昭虔敬而省烦渎。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1824), Quyển 52: 以升祔太庙礼成。颁诏天下。诏曰。朕惟诗颂思成。受命笃溥将之庆。易称殷荐。系爻稽萃涣之占。世德作求。虔奉上仪而登祔。思皇多祜。允敷大泽以颁纶。载考徽章。丕昭懿榘。钦惟皇考高宗纯皇帝乾符广运。鼎祚炽昌。乎帝载以钦崇。笃皇穹之眷佑。继述炳馨香之治。敷贲訏谟。经纶兼创守之勋。宣昭茂绪。日孜月矻。绎政典以求宁。堂儆廉箴。勖官常而赞治。议道自己。庶绩其凝。用中于民。彝伦攸叙。思周禹服。农题递进于枫墀。屏揭幽图。时纪遥谙于蔀屋。惠心勿问。其益元方。简孚有稽。维良折狱。抚辰观化。绚景庆于天文。迪道敷言。阐典谟于圣诲。鸿成耆定。逾三万以开疆。骏烈布昭。蒇十全而赢绩。道洽政治。允升于大猷。纲举目张。以庥于前政。惇大成裕。至诚徵行健之原。悠久无疆。醲化际纯熙之会。绥万邦而怙冒。莫不尊亲。崇九庙之烝尝。是用孝享。皇妣孝贤纯皇后仪天立极。炳月垂光。穆雍章彤史之型。宫廷佐养。祗敬翊丹宸之治。壸掖宣慈。皇妣孝仪纯皇后厚载同符。思齐俪德。扬庥内政。殚诚敬以承襄。毓庆中闱。笃恩勤于顾复。本仁祖义。肇禋允叶夫同尊。假庙飨亲。举典聿隆夫合祔。谨率诸王贝勒。文武群臣。于嘉庆四年九月十九日。恭奉高宗法天隆运至诚先觉体元立极敷文奋武孝慈神圣纯皇帝神位。孝贤诚正敦穆仁惠辅天昌圣纯皇后神位。孝仪恭顺康裕慈仁翼天毓圣纯皇后神位。合祔于太庙。延禧姬箓。卜年世而弥增。景范尧门。升几筵而有恪。既襄盛典。宜沛鸿施。所有事宜。开列于后。一、内外大小各官。于从前恩诏后。升职加衔补官者。悉照现在职衔。给与封典。一、试职各官。俱准实授。一。贡生监生。仍派大臣官员。考定职衔。照旧例送吏部注册。一、各省儒学。以正贡作恩贡。次贡作岁贡。一、贡生监生在监肄业者。免坐监一月。一、军民年七十以上者。许一丁侍养。免其杂派差使。一、穷民无力营葬。并无亲族收瘗者。该地方官择隙地多设义冢。随时掩埋。无使抛露。于戏。缵昌图而右序。燕及皇天。跻太室以升香。昭兹来许。追养继孝。敬维光训以钦承。锡类推恩。仰溯馨闻而普被。布告天下。咸使闻知。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1824), Quyển 51: 辛酉。命成亲王永瑆、恭代行朝奠礼。上御素服。冠缀缨纬。先诣东陵恭谒昭西陵。孝陵。孝东陵。景陵。行礼毕。至裕陵更衣幄次。御礼服。诣隆恩殿。孝贤纯皇后孝仪纯皇后神位前。行礼。恭奉册、宝、上孝仪纯皇后尊谥。册文曰。光昭玉策。抒积慕以胪诚。瞻仰琼霄。缅深慈而涣号。溯崇徽于椒殿。莫罄名言。垂懿则于琅函。倍严对越。钦惟皇妣孝仪皇后型齐沩汭。圣俪庆都。佐上理于内宫。布中为阴教。庆钟大德。福逮藐躬。极顾复之深恩。劬劳莫报备尊崇于厚载。攀恋奚从。廿五年追忆春晖。夙夜恒垂涕泪。亿万世常承坤吉。子孙戴徽音曩以位正前星。礼成元日。推纯禧于在母。隆施祉于自天。已奉鸿称。今稽祔典。欲稍申夫孺慕。惟更益夫大名。念温凊之莫修。心伤曲礼。拟形容而鲜当。谥考周书。纪众善而靡穷。询群言而佥协。谨奉册。宝恭上尊谥。曰孝仪恭顺康裕慈仁翼天毓圣纯皇后。于戏。肇电枢星渚之符。孝养之深衷莫及。昭刻玉镂金之盛。闳崇之宝典恒垂。并尊重于因山。加媺情深于陟庄。敢祈昭格。用俶繁昌。谨言。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1991): 乾隆十六年九月二十二日,奉旨:令妃娘家包衣管领人,著从本旗包衣牛录拨出。钦此。
- ^ 《乾隆四十年二月初七日多罗质郡王永瑢等奏为将皇贵妃娘家入镶黄旗编为佐领事折》:乾隆四十年正月二十五日,奉旨:著将皇贵妃娘家抬入镶黄满州旗,如何办理编牛录后抬旗之处,命内务府大臣会同该旗大臣等查例后定议具奏。钦此。钦遵。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799), 乾隆六十年。乙卯。十一月。 ○谕曰、皇太子生母。已追封孝仪皇后。其家例宜晋封公爵。但孝仪皇后居孝贤皇后之次。著加恩暂赏一等侯爵。世袭罔替。交该旗照例拣选带领引见。寻予世管佐领花沙布一等侯爵如例。
- ^ Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799), 乾隆六十年。乙卯。十二月。○吏部疏请、孝仪皇后之父原任内管领清泰、追封为三等公。孝仪皇后之母杨佳氏、封为公妻一品夫人。得旨允行。
- ^ Quất Huyền Nhã (2022), tr. 378
- ^ Nguyên văn: 返蹕圎明園,憩駕承光殿。為娛聖母情,宜割賢妃綣
- ^ a b Từ Hâm (2016), tr. 166 - 167
- ^ “Ngược dòng lịch sử, 153 năm sau cái chết của Lệnh phi”. Nhật báo Đô thị (bằng tiếng Trung). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2018.
- ^ Tống Đại Xuyên & Hạ Liên Bảo (2007):五、令皇贵妃魏佳氏即孝仪纯皇后所生的乾隆第十四子永璐,乾隆二十二年(1757)七月十七日生,乾隆二十五年(1760)三月十八日卒。年四岁,与永璨同券而葬。
Nguồn
[sửa | sửa mã nguồn]- Kê Hoàng, Lưu Dung (1787). Khâm định Hoàng triều thông điển.
- Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1747). Khâm định Hoàng triều văn hiến thông khảo.
- Triệu Nhĩ Tốn (1928). “Hậu phi liệt truyện”. Thanh sử cảo.
- Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1799). Khánh Quế, 慶桂; Đổng Cáo, 董誥 (biên tập). 高宗純皇帝實錄 [Cao Tông Thuần Hoàng đế Thực lục] (bằng tiếng Trung). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2020.
- Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1824). Tào Chấn Dong, 曹振鏞; Đới Quân Nguyên, 戴均元 (biên tập). 仁宗睿皇帝實錄 [Nhân Tông Duệ Hoàng đế Thực lục] (bằng tiếng Trung). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2020.
- Hoằng Trú (2002). 八旗满洲氏族通谱 [Bát kỳ Mãn Châu thị tộc Thông phổ]. Nhà xuất bản Liêu Hải. ISBN 9787806691892.
- Hội đồng biên soạn nhà Thanh (1991). Trung Quốc đệ nhất Lịch sử đương án quán (biên tập). Càn Long triều Thượng Dụ đương. Nhà xuất bản Đương án Trung Quốc. ISBN 9787800190636.
- Từ Hâm, 徐鑫 (2016). 乾隆帝陵历史之谜 (图文珍藏版) [Bí ẩn về lịch sử lăng tẩm Càn Long Đế] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Nhân dân Liêu Ninh. ISBN 9787205086336.
- Tống Đại Xuyên, 宋大川; Hạ Liên Bảo, 夏连保 (2007). 清代园寝制度研究 [Nghiên cứu chế độ viên tẩm thời Thanh] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Văn vật. ISBN 9787501023271.
- Quất Huyền Nhã (2022). Thanh đại hậu phi tạp thức. Nhà xuất bản Thượng Hải. ISBN 9787552038200.