Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Clarence Seedorf”
n Robot: Sửa đổi hướng |
|||
Dòng 13: | Dòng 13: | ||
| youthclubs = |
| youthclubs = |
||
| years = 1992–1995<br />1995–1996<br />1996–2000<br />2000–2002<br />2002– |
| years = 1992–1995<br />1995–1996<br />1996–2000<br />2000–2002<br />2002– |
||
| clubs = [[Ajax Amsterdam|Ajax]]<br />[[Sampdoria]]<br />[[Real Madrid]]<br />[[Internazionale Milano |
| clubs = [[Ajax Amsterdam|Ajax]]<br />[[Sampdoria]]<br />[[Real Madrid C.F.|Real Madrid]]<br />[[F.C. Internazionale Milano S.p.A.|Internazionale]]<br />[[A.C. Milan]] |
||
| caps(goals) = {{0}}64 (11)<br />{{0}}32 {{0}}(3)<br />121 (15)<br />{{0}}64 {{0}}(8)<br />189 (30) |
| caps(goals) = {{0}}64 (11)<br />{{0}}32 {{0}}(3)<br />121 (15)<br />{{0}}64 {{0}}(8)<br />189 (30) |
||
| nationalyears = 1994– |
| nationalyears = 1994– |
||
Dòng 21: | Dòng 21: | ||
| ntupdate = 18 tháng 11 năm 2007 |
| ntupdate = 18 tháng 11 năm 2007 |
||
}} |
}} |
||
'''Clarence Seedorf''' (sinh ngày [[1 tháng 4]], [[1976]] tại [[Paramaribo]], [[Suriname]]) là một tiền vệ bóng đá người [[Hà Lan]], hiện anh đang chơi cho câu lạc bộ [[A.C. Milan|AC Milan]] tại [[Serie A]]. Anh là người đầu tiên và duy nhất cho đến nay, từng đoạt chức vô địch [[UEFA Champions League]] dưới 3 màu áo khác nhau: [[Ajax Amsterdam|Ajax]] (1995), [[Real Madrid]] (1998), và [[AC Milan]] (2003, 2007). Ngoài ra, Seedorf là cầu thủ châu Âu đầu tiên đoạt được [[Intercontinental Cup]] (nay gọi là [[FIFA Club World Cup]]) 2 lần với 2 câu lạc bộ khác nhau (Madrid 1998 và Milan 2007). Anh từng chơi cho [[U.C. Sampdoria|Sampdoria]] và [[Internazionale Milano |
'''Clarence Seedorf''' (sinh ngày [[1 tháng 4]], [[1976]] tại [[Paramaribo]], [[Suriname]]) là một tiền vệ bóng đá người [[Hà Lan]], hiện anh đang chơi cho câu lạc bộ [[A.C. Milan|AC Milan]] tại [[Giải vô địch bóng đá Ý|Serie A]]. Anh là người đầu tiên và duy nhất cho đến nay, từng đoạt chức vô địch [[Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu|UEFA Champions League]] dưới 3 màu áo khác nhau: [[Ajax Amsterdam|Ajax]] (1995), [[Real Madrid C.F.|Real Madrid]] (1998), và [[A.C. Milan|AC Milan]] (2003, 2007). Ngoài ra, Seedorf là cầu thủ châu Âu đầu tiên đoạt được [[Intercontinental Cup]] (nay gọi là [[Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ|FIFA Club World Cup]]) 2 lần với 2 câu lạc bộ khác nhau (Madrid 1998 và Milan 2007). Anh từng chơi cho [[U.C. Sampdoria|Sampdoria]] và [[F.C. Internazionale Milano S.p.A.|Internazionale]]. Hiện nay Seedorf vẫn là thành viên của [[đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan|tuyển bóng đá Hà Lan]], nhưng anh không tham dự [[Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008|Euro 2008]]. |
||
Tại Milan, Seedorf thường chơi ở vị trí cánh trái như một tiền vệ trung tâm thứ ba hay là hỗ trợ phía sau tiền đạo trong sơ đồ chiến thuật 4-3-2-1 của ông [[Carlo Ancelotti]]. |
Tại Milan, Seedorf thường chơi ở vị trí cánh trái như một tiền vệ trung tâm thứ ba hay là hỗ trợ phía sau tiền đạo trong sơ đồ chiến thuật 4-3-2-1 của ông [[Carlo Ancelotti]]. |
||
Dòng 28: | Dòng 28: | ||
===Thiếu niên=== |
===Thiếu niên=== |
||
Seedorf bắt đầu sự nghiệp trong vai trò một tiền vệ cánh phải tại [[Ajax Amsterdam]] vào đầu [[thập niên 1990]]. Anh đá trận bóng chuyên nghiệp đầu tiên vào ngày [[29 tháng 11]] năm [[1992]], trong trận đấu với [[FC Groningen]] khi mới 16 tuổi 242 ngày, và là cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử của Ajax từ trước đến nay.<ref>{{chú thích web |url= http://www.nos.nl/nosstudiosport/artikelen/2007/4/8/08041716wijnaldumjongstefeyenoorddebutant.html|title= Wijnaldum jongste Feyenoord-debutant|accessdate= 2007-08-13|publisher = NOS.nl|language=Dutch}}</ref> Trong giai đoạn đầu, anh đã dẫn dắt Ajax chiến thắng giải [[Eredivisie]] năm 1994 và 1995. Anh cũng là cầu thủ chủ chốt làm nên chức vô địch [[UEFA Champions League]] năm 1995 của Ajax. Mùa hè năm 1995, với những thể hiện của mình, anh được mời đến Samprodia và chơi ở đó 1 mùa giải, ghi được 3 bàn thắng. |
Seedorf bắt đầu sự nghiệp trong vai trò một tiền vệ cánh phải tại [[Ajax Amsterdam]] vào đầu [[thập niên 1990]]. Anh đá trận bóng chuyên nghiệp đầu tiên vào ngày [[29 tháng 11]] năm [[1992]], trong trận đấu với [[FC Groningen]] khi mới 16 tuổi 242 ngày, và là cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử của Ajax từ trước đến nay.<ref>{{chú thích web |url= http://www.nos.nl/nosstudiosport/artikelen/2007/4/8/08041716wijnaldumjongstefeyenoorddebutant.html|title= Wijnaldum jongste Feyenoord-debutant|accessdate= 2007-08-13|publisher = NOS.nl|language=Dutch}}</ref> Trong giai đoạn đầu, anh đã dẫn dắt Ajax chiến thắng giải [[Giải vô địch bóng đá Hà Lan|Eredivisie]] năm 1994 và 1995. Anh cũng là cầu thủ chủ chốt làm nên chức vô địch [[Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu|UEFA Champions League]] năm 1995 của Ajax. Mùa hè năm 1995, với những thể hiện của mình, anh được mời đến Samprodia và chơi ở đó 1 mùa giải, ghi được 3 bàn thắng. |
||
===Real Madrid=== |
===Real Madrid=== |
||
Seedorf chuyển sang [[Real Madrid]] vào năm 1996, giúp đội này đoạt [[La Liga]] ngay trong mùa bóng đầu tiên của anh. Mùa bóng thứ 2, 1997-1998, anh giữ vai trò dẫn dắt và đã giúp Real vô địch Champions League sau trận chung kết thắng 1-0 trước [[Juventus]], đây cũng là danh hiệu vô địch châu Âu thứ 2 của Seedorf. Trong thời gian chơi cho Real Madrid, Seedorf ghi một bàn thắng nổi tiếng vào lưới [[Atlético de Madrid]]: một cú sút cực mạnh từ khoảng cách 45 yards. Seedorf chấm dứt thời gian tại Real Madrid và trở lại Ý vào mùa bóng 1999-2000, để gia nhập cho [[Internazionale Milano |
Seedorf chuyển sang [[Real Madrid C.F.|Real Madrid]] vào năm 1996, giúp đội này đoạt [[Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha|La Liga]] ngay trong mùa bóng đầu tiên của anh. Mùa bóng thứ 2, 1997-1998, anh giữ vai trò dẫn dắt và đã giúp Real vô địch Champions League sau trận chung kết thắng 1-0 trước [[Juventus F.C.|Juventus]], đây cũng là danh hiệu vô địch châu Âu thứ 2 của Seedorf. Trong thời gian chơi cho Real Madrid, Seedorf ghi một bàn thắng nổi tiếng vào lưới [[Atlético de Madrid]]: một cú sút cực mạnh từ khoảng cách 45 yards. Seedorf chấm dứt thời gian tại Real Madrid và trở lại Ý vào mùa bóng 1999-2000, để gia nhập cho [[F.C. Internazionale Milano S.p.A.|Inter Milan]]. |
||
===Inter Milan=== |
===Inter Milan=== |
||
Ngoại trừ việc giúp Inter đi đến trận chung kết [[Coppa Italia]] năm 2000, một trận mà họ đã thua, thì Seedorf không có những cống hiến đặc biệt cho đội. Nhưng, cái tên anh sẽ được nhớ tới bởi nhiều người hâm mộ Inter vì hai bàn thắng trong trận hòa [[Juve]] 2-2 hôm [[9 tháng 3]] năm [[2002]], cả hai bàn đều từ những pha nỗ lực cá nhân. |
Ngoại trừ việc giúp Inter đi đến trận chung kết [[Coppa Italia]] năm 2000, một trận mà họ đã thua, thì Seedorf không có những cống hiến đặc biệt cho đội. Nhưng, cái tên anh sẽ được nhớ tới bởi nhiều người hâm mộ Inter vì hai bàn thắng trong trận hòa [[Juventus F.C.|Juve]] 2-2 hôm [[9 tháng 3]] năm [[2002]], cả hai bàn đều từ những pha nỗ lực cá nhân. |
||
===A.C. Milan=== |
===A.C. Milan=== |
||
Sau 2 năm với Inter Milan, Seedorf chuyển đến câu lạc bộ cùng thành phố [[A.C. Milan]] vào năm 2002. Anh đoạt chiếc Coppa Italia với Milan vào năm 2003, đây là lần đầu tiên đội bóng đoạt cúp này sau 26 năm chờ đợi. Mùa bóng tiếp theo, Seedorf lần thứ 3 trở thành nhà vô địch châu Âu trong màu áo thứ 3, sau một trận chung kết toàn Ý tại [[Champions League]] mà Milan đã hòa Juve 0-0 rồi đả bại họ trong loạt sút luân lưu 11m. Sau sự kiện này, Seedorf trở thành người đầu tiên (và duy nhất cho đến nay) đoạt 3 chức vô địch châu Âu trong 3 màu áo. Mùa giải sau (2003-2004), Seedorf cùng AC Milan vô địch [[Serie A]]. Đây cũng là lần thứ 4 Seedorf đoạt chức vô địch quốc gia trong sự nghiệp, sau hai lần tại Hà Lan với Ajax và một lần tại Tây Ban Nha với Real Madrid. |
Sau 2 năm với Inter Milan, Seedorf chuyển đến câu lạc bộ cùng thành phố [[A.C. Milan]] vào năm 2002. Anh đoạt chiếc Coppa Italia với Milan vào năm 2003, đây là lần đầu tiên đội bóng đoạt cúp này sau 26 năm chờ đợi. Mùa bóng tiếp theo, Seedorf lần thứ 3 trở thành nhà vô địch châu Âu trong màu áo thứ 3, sau một trận chung kết toàn Ý tại [[Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu|Champions League]] mà Milan đã hòa Juve 0-0 rồi đả bại họ trong loạt sút luân lưu 11m. Sau sự kiện này, Seedorf trở thành người đầu tiên (và duy nhất cho đến nay) đoạt 3 chức vô địch châu Âu trong 3 màu áo. Mùa giải sau (2003-2004), Seedorf cùng AC Milan vô địch [[Giải vô địch bóng đá Ý|Serie A]]. Đây cũng là lần thứ 4 Seedorf đoạt chức vô địch quốc gia trong sự nghiệp, sau hai lần tại Hà Lan với Ajax và một lần tại Tây Ban Nha với Real Madrid. |
||
Seedorf trở thành một trong những nhân tố chính giúp Milan đi đến trận chung kết [[UEFA Champions League 2005-06]]. Trận đấu tại Istanbul là một trận đáng nhớ sau khi Milan dẫn trước [[Liverpool F.C.|Liverpool]] 3-0 trong hiệp 1 và bị gỡ lại 3-3 trong hiệp 2, sau đó thua trong loạt đá luân lưu. Tại giải vô địch quốc gia năm đó, Milan về thứ 2 sau Juventus. |
Seedorf trở thành một trong những nhân tố chính giúp Milan đi đến trận chung kết [[UEFA Champions League 2005-06]]. Trận đấu tại Istanbul là một trận đáng nhớ sau khi Milan dẫn trước [[Liverpool F.C.|Liverpool]] 3-0 trong hiệp 1 và bị gỡ lại 3-3 trong hiệp 2, sau đó thua trong loạt đá luân lưu. Tại giải vô địch quốc gia năm đó, Milan về thứ 2 sau Juventus. |
||
Năm 2006, AC Milan với những nhân tố chính là Seedorf, [[Andrea Pirlo]], [[Kaká]] và [[Gennaro Gattuso]] đã một lần nữa thất bại tại vòng chung kết [[UEFA Champions League 2005-06|Champions League]] khi đã để thua [[ |
Năm 2006, AC Milan với những nhân tố chính là Seedorf, [[Andrea Pirlo]], [[Kaká]] và [[Gennaro Gattuso]] đã một lần nữa thất bại tại vòng chung kết [[UEFA Champions League 2005-06|Champions League]] khi đã để thua [[F.C. Barcelona|Barcelona]] - đội mà sau đó đã lên ngôi vô địch - tại trận bán kết. |
||
Trong năm này, một vụ điều tra về gian lận tại [[Serie A]] đã diễn ra và Milan là đội bóng bị dính líu nhiều, nhưng họ vẫn được đồng ý cho đá tiếp tại giải vô địch châu Âu mùa bóng sau. Điều này làm cho các cầu thủ chủ chốt vẫn ở lại đội bóng. Tại [[UEFA Champions League 2006-07]], Seedorf đã thể hiện một phong độ tốt. Anh cùng với [[Kaká]] trên hàng công đã tạo nên sức mạnh cho Milan. Seedorf đã có công lớn giúp đội bóng vượt qua [[Bayern Munchen]] và [[Manchester United F.C.|Manchester United]] để tiến tới trận chung kết tại [[Athens]], nơi mà họ đã đánh bại [[Liverpool F.C.|Liverpool]] với tỉ số 2-1 để đoạt chức vô địch. Đây là lần thứ 4 vô địch châu Âu trong sự nghiệp của Seedorf. Tại lễ trao thưởng của Champions League, anh được trao giải tiền vệ xuất sắc nhất. Milan tiếp tục giành chiến thắng tại [[2007 FIFA Club World Cup|FIFA Club World Cup]] mà Seedorf là người góp công lớn. |
Trong năm này, một vụ điều tra về gian lận tại [[Giải vô địch bóng đá Ý|Serie A]] đã diễn ra và Milan là đội bóng bị dính líu nhiều, nhưng họ vẫn được đồng ý cho đá tiếp tại giải vô địch châu Âu mùa bóng sau. Điều này làm cho các cầu thủ chủ chốt vẫn ở lại đội bóng. Tại [[UEFA Champions League 2006-07]], Seedorf đã thể hiện một phong độ tốt. Anh cùng với [[Kaká]] trên hàng công đã tạo nên sức mạnh cho Milan. Seedorf đã có công lớn giúp đội bóng vượt qua [[FC Bayern München|Bayern Munchen]] và [[Manchester United F.C.|Manchester United]] để tiến tới trận chung kết tại [[Athena|Athens]], nơi mà họ đã đánh bại [[Liverpool F.C.|Liverpool]] với tỉ số 2-1 để đoạt chức vô địch. Đây là lần thứ 4 vô địch châu Âu trong sự nghiệp của Seedorf. Tại lễ trao thưởng của Champions League, anh được trao giải tiền vệ xuất sắc nhất. Milan tiếp tục giành chiến thắng tại [[2007 FIFA Club World Cup|FIFA Club World Cup]] mà Seedorf là người góp công lớn. |
||
Anh chơi trận đấu thứ 100 của mình tại Champions League vào ngày 4 tháng 11 khi Milan đối đầu với [[Celtic F.C.]] tại [[Champions League]] 2007-2008. |
Anh chơi trận đấu thứ 100 của mình tại Champions League vào ngày 4 tháng 11 khi Milan đối đầu với [[Celtic F.C.]] tại [[Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu|Champions League]] 2007-2008. |
||
===Quốc tế=== |
===Quốc tế=== |
||
Seedorf từng chơi tại [[Euro 96]], [[World Cup 1998]], [[Euro 2000]] và [[Euro 2004]]. Tuy nhiên, phần lớn ý kiến cho rằng sự nghiệp quốc tế của anh còn có thể kéo dài hơn nếu như không có quá nhiều những phen chống đối và bất bình với ban lãnh đạo. Một trong số đó có thể tính là bất bình với [[Marco van Basten]], đã khiến ông gạch tên Seedorf khi ông lên nhậm chức huấn luyện viên của [[đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan]] sau [[Euro 2004]]. Vì vậy anh không chơi trận nào tại vòng loại [[World Cup 2006]], và Hà Lan cũng không vượt qua vòng này. |
Seedorf từng chơi tại [[Euro 96]], [[Giải vô địch bóng đá thế giới 1998|World Cup 1998]], [[Giải vô địch bóng đá châu Âu 2000|Euro 2000]] và [[Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004|Euro 2004]]. Tuy nhiên, phần lớn ý kiến cho rằng sự nghiệp quốc tế của anh còn có thể kéo dài hơn nếu như không có quá nhiều những phen chống đối và bất bình với ban lãnh đạo. Một trong số đó có thể tính là bất bình với [[Marco van Basten]], đã khiến ông gạch tên Seedorf khi ông lên nhậm chức huấn luyện viên của [[đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan]] sau [[Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004|Euro 2004]]. Vì vậy anh không chơi trận nào tại vòng loại [[Giải vô địch bóng đá thế giới 2006|World Cup 2006]], và Hà Lan cũng không vượt qua vòng này. |
||
Vào ngày [[12 tháng 11]] năm [[2006]], Seedorf lại được gọi vào đội, lần đầu tiên kể từ tháng 6 năm 2004, để thay thế [[Wesley Sneijder]] bị chấn thương. Anh thi đấu đủ 90 phút trong trận giao hữu hoà 1-1 với [[đội tuyển bóng đá quốc gia Anh|Anh]]. Anh trở lại đội hình và thi đấu thêm vài trận nữa. Tuy nhiên, trong 2 trận đấu với Romania (hòa 0-0 trên sân nhà) và Slovenia (thắng 1-0 sân khách), van Basten chỉ cho anh đá 4 đến 6 phút mỗi trận. Seedorf phát biểu với giới truyền thông vào tháng 12 năm 2007: "anh cống hiến, và cống hiến, nhưng khi trở lại anh không nhận được gì". Tại tuyển quốc gia, có nhiều người mà Van Basten thích sử dụng để thay thế cho Seedorf đó là [[Rafael van der Vaart]], [[Wesley Sneijder]] và [[Robin van Persie]]. |
Vào ngày [[12 tháng 11]] năm [[2006]], Seedorf lại được gọi vào đội, lần đầu tiên kể từ tháng 6 năm 2004, để thay thế [[Wesley Sneijder]] bị chấn thương. Anh thi đấu đủ 90 phút trong trận giao hữu hoà 1-1 với [[đội tuyển bóng đá quốc gia Anh|Anh]]. Anh trở lại đội hình và thi đấu thêm vài trận nữa. Tuy nhiên, trong 2 trận đấu với Romania (hòa 0-0 trên sân nhà) và Slovenia (thắng 1-0 sân khách), van Basten chỉ cho anh đá 4 đến 6 phút mỗi trận. Seedorf phát biểu với giới truyền thông vào tháng 12 năm 2007: "anh cống hiến, và cống hiến, nhưng khi trở lại anh không nhận được gì". Tại tuyển quốc gia, có nhiều người mà Van Basten thích sử dụng để thay thế cho Seedorf đó là [[Rafael van der Vaart]], [[Wesley Sneijder]] và [[Robin van Persie]]. |
||
Vào [[13 tháng 5]] năm [[2008]], Seedorf tuyên bố từ chối lời kêu gọi vào đội tuyển Hà Lan tham dự Euro 2008, bởi vì anh không thể hợp tác với [[Marco Van Basten]] thêm nữa.<ref>{{chú thích web |url= http://fourfourtwo.com/news/restofeurope/9043/default.aspx|title= Seedorf pulls out of Dutch Euro 2008 squad|accessdate= 2008-05-13|publisher = FourFourTwo}}</ref> |
Vào [[13 tháng 5]] năm [[2008]], Seedorf tuyên bố từ chối lời kêu gọi vào đội tuyển Hà Lan tham dự Euro 2008, bởi vì anh không thể hợp tác với [[Marco van Basten|Marco Van Basten]] thêm nữa.<ref>{{chú thích web |url= http://fourfourtwo.com/news/restofeurope/9043/default.aspx|title= Seedorf pulls out of Dutch Euro 2008 squad|accessdate= 2008-05-13|publisher = FourFourTwo}}</ref> |
||
===Thống kê sự nghiệp=== |
===Thống kê sự nghiệp=== |
||
Dòng 58: | Dòng 58: | ||
{{Football player statistics 2|NED|NY}} |
{{Football player statistics 2|NED|NY}} |
||
|- |
|- |
||
|[[Eredivisie 1992-93|1992-93]]||rowspan="3"|[[ |
|[[Eredivisie 1992-93|1992-93]]||rowspan="3"|[[Ajax Amsterdam|Ajax]]||rowspan="3"|[[Giải vô địch bóng đá Hà Lan|Eredivisie]]||12||1||colspan="2"|-||3||0||15||1 |
||
|- |
|- |
||
|[[Eredivisie 1993-94|1993-94]]||19||4||colspan="2"|-||2||0||21||4 |
|[[Eredivisie 1993-94|1993-94]]||19||4||colspan="2"|-||2||0||21||4 |
||
Dòng 65: | Dòng 65: | ||
{{Football player statistics 2|ITA|NY}} |
{{Football player statistics 2|ITA|NY}} |
||
|- |
|- |
||
|[[Serie A 1995-96|1995-96]]||[[U.C. Sampdoria|Sampdoria]]||[[Serie A]]||32||3||2||1||colspan="2"|-||34||4 |
|[[Serie A 1995-96|1995-96]]||[[U.C. Sampdoria|Sampdoria]]||[[Giải vô địch bóng đá Ý|Serie A]]||32||3||2||1||colspan="2"|-||34||4 |
||
{{Football player statistics 2|ESP|NY}} |
{{Football player statistics 2|ESP|NY}} |
||
|- |
|- |
||
|[[La Liga 1996-97|1996-97]]||rowspan="4"|[[Real Madrid C.F.|Real Madrid]]||rowspan="4"|[[La Liga]]||38||6||colspan="2"|-||colspan="2"|-||38||6 |
|[[La Liga 1996-97|1996-97]]||rowspan="4"|[[Real Madrid C.F.|Real Madrid]]||rowspan="4"|[[Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha|La Liga]]||38||6||colspan="2"|-||colspan="2"|-||38||6 |
||
|- |
|- |
||
|[[La Liga 1997-98|1997-98]]||36||6||colspan="2"|-||11||0||47||6 |
|[[La Liga 1997-98|1997-98]]||36||6||colspan="2"|-||11||0||47||6 |
||
Dòng 77: | Dòng 77: | ||
{{Football player statistics 2|ITA|NY}} |
{{Football player statistics 2|ITA|NY}} |
||
|- |
|- |
||
|[[Serie A 1999-00|1999-00]]||rowspan="3"|[[F.C. Internazionale Milano|Internazionale Milano]]||rowspan="3"|[[Serie A]]||20||3||5||2||colspan="2"|-||25||5 |
|[[Serie A 1999-00|1999-00]]||rowspan="3"|[[F.C. Internazionale Milano S.p.A.|Internazionale Milano]]||rowspan="3"|[[Giải vô địch bóng đá Ý|Serie A]]||20||3||5||2||colspan="2"|-||25||5 |
||
|- |
|- |
||
|[[Serie A 2000-01|2000-01]]||24||2||4||0||7||3||35||5 |
|[[Serie A 2000-01|2000-01]]||24||2||4||0||7||3||35||5 |
||
Dòng 83: | Dòng 83: | ||
|[[Serie A 2001-02|2001-02]]||20||3||2||1||10||0||32||4 |
|[[Serie A 2001-02|2001-02]]||20||3||2||1||10||0||32||4 |
||
|- |
|- |
||
|[[Serie A 2002-03|2002-03]]||rowspan="6"|[[A.C. Milan|Milan]]||rowspan="6"|[[Serie A]]||29||4||3||2||16||1||48||7 |
|[[Serie A 2002-03|2002-03]]||rowspan="6"|[[A.C. Milan|Milan]]||rowspan="6"|[[Giải vô địch bóng đá Ý|Serie A]]||29||4||3||2||16||1||48||7 |
||
|- |
|- |
||
|[[Serie A 2003-04|2003-04]]||29||3||5||0||8||0||42||3 |
|[[Serie A 2003-04|2003-04]]||29||3||5||0||8||0||42||3 |
||
Dòng 102: | Dòng 102: | ||
==Thành tựu== |
==Thành tựu== |
||
*'''[[ |
*'''[[Cúp bóng đá liên lục địa|Intercontinental Cup]]: 1''' |
||
**1998, Real Madrid |
**1998, Real Madrid |
||
*'''[[FIFA Club World Cup]]: 1''' |
*'''[[Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ|FIFA Club World Cup]]: 1''' |
||
**2007, AC Milan |
**2007, AC Milan |
||
*'''[[UEFA Super Cup]]:2''' |
*'''[[Siêu cúp bóng đá châu Âu|UEFA Super Cup]]:2''' |
||
**2003, AC Milan |
**2003, AC Milan |
||
**2007, AC Milan |
**2007, AC Milan |
||
*'''[[UEFA Champions League]]: 4''' |
*'''[[Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu|UEFA Champions League]]: 4''' |
||
**1994/95, Ajax |
**1994/95, Ajax |
||
**1997/98, Real Madrid |
**1997/98, Real Madrid |
||
Dòng 122: | Dòng 122: | ||
**1994, Ajax |
**1994, Ajax |
||
*'''[[ |
*'''[[Siêu cúp bóng đá Tây Ban Nha|Spanish Super Cup]]: 1 |
||
**1997, Real Madrid |
**1997, Real Madrid |
||
Dòng 129: | Dòng 129: | ||
**2011 AC Milan |
**2011 AC Milan |
||
*'''[[ |
*'''[[Giải vô địch bóng đá Hà Lan|Dutch championship]]: 2''' |
||
**1993/94, Ajax |
**1993/94, Ajax |
||
**1994/95, Ajax |
**1994/95, Ajax |
||
*'''[[ |
*'''[[Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha|Spanish Championship]]: 1''' |
||
**1996/97, Real Madrid |
**1996/97, Real Madrid |
||
*''' [[ |
*''' [[Giải vô địch bóng đá Ý|Italian Championship]]: 1''' |
||
**2003/04, AC Milan |
**2003/04, AC Milan |
||
*'''[[ |
*'''[[Cúp bóng đá Hà Lan|Dutch Cup]]: 1''' |
||
**1992/93, Ajax |
**1992/93, Ajax |
||
Phiên bản lúc 06:36, ngày 30 tháng 3 năm 2013
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Clarence Clyde Seedorf | ||
Chiều cao | 1,76 m (5 ft 9+1⁄2 in)[chuyển đổi: số không hợp lệ] | ||
Vị trí | Tiền vệ cánh trái/phải/trung tâm | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | A.C. Milan | ||
Số áo | 10 | ||
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 18 tháng 11 năm 2007 |
Clarence Seedorf (sinh ngày 1 tháng 4, 1976 tại Paramaribo, Suriname) là một tiền vệ bóng đá người Hà Lan, hiện anh đang chơi cho câu lạc bộ AC Milan tại Serie A. Anh là người đầu tiên và duy nhất cho đến nay, từng đoạt chức vô địch UEFA Champions League dưới 3 màu áo khác nhau: Ajax (1995), Real Madrid (1998), và AC Milan (2003, 2007). Ngoài ra, Seedorf là cầu thủ châu Âu đầu tiên đoạt được Intercontinental Cup (nay gọi là FIFA Club World Cup) 2 lần với 2 câu lạc bộ khác nhau (Madrid 1998 và Milan 2007). Anh từng chơi cho Sampdoria và Internazionale. Hiện nay Seedorf vẫn là thành viên của tuyển bóng đá Hà Lan, nhưng anh không tham dự Euro 2008.
Tại Milan, Seedorf thường chơi ở vị trí cánh trái như một tiền vệ trung tâm thứ ba hay là hỗ trợ phía sau tiền đạo trong sơ đồ chiến thuật 4-3-2-1 của ông Carlo Ancelotti.
Sự nghiệp
Thiếu niên
Seedorf bắt đầu sự nghiệp trong vai trò một tiền vệ cánh phải tại Ajax Amsterdam vào đầu thập niên 1990. Anh đá trận bóng chuyên nghiệp đầu tiên vào ngày 29 tháng 11 năm 1992, trong trận đấu với FC Groningen khi mới 16 tuổi 242 ngày, và là cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử của Ajax từ trước đến nay.[1] Trong giai đoạn đầu, anh đã dẫn dắt Ajax chiến thắng giải Eredivisie năm 1994 và 1995. Anh cũng là cầu thủ chủ chốt làm nên chức vô địch UEFA Champions League năm 1995 của Ajax. Mùa hè năm 1995, với những thể hiện của mình, anh được mời đến Samprodia và chơi ở đó 1 mùa giải, ghi được 3 bàn thắng.
Real Madrid
Seedorf chuyển sang Real Madrid vào năm 1996, giúp đội này đoạt La Liga ngay trong mùa bóng đầu tiên của anh. Mùa bóng thứ 2, 1997-1998, anh giữ vai trò dẫn dắt và đã giúp Real vô địch Champions League sau trận chung kết thắng 1-0 trước Juventus, đây cũng là danh hiệu vô địch châu Âu thứ 2 của Seedorf. Trong thời gian chơi cho Real Madrid, Seedorf ghi một bàn thắng nổi tiếng vào lưới Atlético de Madrid: một cú sút cực mạnh từ khoảng cách 45 yards. Seedorf chấm dứt thời gian tại Real Madrid và trở lại Ý vào mùa bóng 1999-2000, để gia nhập cho Inter Milan.
Inter Milan
Ngoại trừ việc giúp Inter đi đến trận chung kết Coppa Italia năm 2000, một trận mà họ đã thua, thì Seedorf không có những cống hiến đặc biệt cho đội. Nhưng, cái tên anh sẽ được nhớ tới bởi nhiều người hâm mộ Inter vì hai bàn thắng trong trận hòa Juve 2-2 hôm 9 tháng 3 năm 2002, cả hai bàn đều từ những pha nỗ lực cá nhân.
A.C. Milan
Sau 2 năm với Inter Milan, Seedorf chuyển đến câu lạc bộ cùng thành phố A.C. Milan vào năm 2002. Anh đoạt chiếc Coppa Italia với Milan vào năm 2003, đây là lần đầu tiên đội bóng đoạt cúp này sau 26 năm chờ đợi. Mùa bóng tiếp theo, Seedorf lần thứ 3 trở thành nhà vô địch châu Âu trong màu áo thứ 3, sau một trận chung kết toàn Ý tại Champions League mà Milan đã hòa Juve 0-0 rồi đả bại họ trong loạt sút luân lưu 11m. Sau sự kiện này, Seedorf trở thành người đầu tiên (và duy nhất cho đến nay) đoạt 3 chức vô địch châu Âu trong 3 màu áo. Mùa giải sau (2003-2004), Seedorf cùng AC Milan vô địch Serie A. Đây cũng là lần thứ 4 Seedorf đoạt chức vô địch quốc gia trong sự nghiệp, sau hai lần tại Hà Lan với Ajax và một lần tại Tây Ban Nha với Real Madrid.
Seedorf trở thành một trong những nhân tố chính giúp Milan đi đến trận chung kết UEFA Champions League 2005-06. Trận đấu tại Istanbul là một trận đáng nhớ sau khi Milan dẫn trước Liverpool 3-0 trong hiệp 1 và bị gỡ lại 3-3 trong hiệp 2, sau đó thua trong loạt đá luân lưu. Tại giải vô địch quốc gia năm đó, Milan về thứ 2 sau Juventus.
Năm 2006, AC Milan với những nhân tố chính là Seedorf, Andrea Pirlo, Kaká và Gennaro Gattuso đã một lần nữa thất bại tại vòng chung kết Champions League khi đã để thua Barcelona - đội mà sau đó đã lên ngôi vô địch - tại trận bán kết.
Trong năm này, một vụ điều tra về gian lận tại Serie A đã diễn ra và Milan là đội bóng bị dính líu nhiều, nhưng họ vẫn được đồng ý cho đá tiếp tại giải vô địch châu Âu mùa bóng sau. Điều này làm cho các cầu thủ chủ chốt vẫn ở lại đội bóng. Tại UEFA Champions League 2006-07, Seedorf đã thể hiện một phong độ tốt. Anh cùng với Kaká trên hàng công đã tạo nên sức mạnh cho Milan. Seedorf đã có công lớn giúp đội bóng vượt qua Bayern Munchen và Manchester United để tiến tới trận chung kết tại Athens, nơi mà họ đã đánh bại Liverpool với tỉ số 2-1 để đoạt chức vô địch. Đây là lần thứ 4 vô địch châu Âu trong sự nghiệp của Seedorf. Tại lễ trao thưởng của Champions League, anh được trao giải tiền vệ xuất sắc nhất. Milan tiếp tục giành chiến thắng tại FIFA Club World Cup mà Seedorf là người góp công lớn.
Anh chơi trận đấu thứ 100 của mình tại Champions League vào ngày 4 tháng 11 khi Milan đối đầu với Celtic F.C. tại Champions League 2007-2008.
Quốc tế
Seedorf từng chơi tại Euro 96, World Cup 1998, Euro 2000 và Euro 2004. Tuy nhiên, phần lớn ý kiến cho rằng sự nghiệp quốc tế của anh còn có thể kéo dài hơn nếu như không có quá nhiều những phen chống đối và bất bình với ban lãnh đạo. Một trong số đó có thể tính là bất bình với Marco van Basten, đã khiến ông gạch tên Seedorf khi ông lên nhậm chức huấn luyện viên của đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan sau Euro 2004. Vì vậy anh không chơi trận nào tại vòng loại World Cup 2006, và Hà Lan cũng không vượt qua vòng này.
Vào ngày 12 tháng 11 năm 2006, Seedorf lại được gọi vào đội, lần đầu tiên kể từ tháng 6 năm 2004, để thay thế Wesley Sneijder bị chấn thương. Anh thi đấu đủ 90 phút trong trận giao hữu hoà 1-1 với Anh. Anh trở lại đội hình và thi đấu thêm vài trận nữa. Tuy nhiên, trong 2 trận đấu với Romania (hòa 0-0 trên sân nhà) và Slovenia (thắng 1-0 sân khách), van Basten chỉ cho anh đá 4 đến 6 phút mỗi trận. Seedorf phát biểu với giới truyền thông vào tháng 12 năm 2007: "anh cống hiến, và cống hiến, nhưng khi trở lại anh không nhận được gì". Tại tuyển quốc gia, có nhiều người mà Van Basten thích sử dụng để thay thế cho Seedorf đó là Rafael van der Vaart, Wesley Sneijder và Robin van Persie.
Vào 13 tháng 5 năm 2008, Seedorf tuyên bố từ chối lời kêu gọi vào đội tuyển Hà Lan tham dự Euro 2008, bởi vì anh không thể hợp tác với Marco Van Basten thêm nữa.[2]
Thống kê sự nghiệp
Thành tích cấp CLB | Giải vô địch | Cúp quốc gia | Cúp châu lục | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Mùa giải | CLB | Giải vô địch | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn |
Hà Lan | Giải vô địch | KNVB Cup | Châu Âu | Tổng cộng | ||||||
1992-93 | Ajax | Eredivisie | 12 | 1 | - | 3 | 0 | 15 | 1 | |
1993-94 | 19 | 4 | - | 2 | 0 | 21 | 4 | |||
1994-95 | 34 | 6 | - | 11 | 0 | 45 | 6 | |||
Ý | Giải vô địch | Coppa Italia | Châu Âu | Tổng cộng | ||||||
1995-96 | Sampdoria | Serie A | 32 | 3 | 2 | 1 | - | 34 | 4 | |
Tây Ban Nha | Giải vô địch | Copa del Rey | Châu Âu | Tổng cộng | ||||||
1996-97 | Real Madrid | La Liga | 38 | 6 | - | - | 38 | 6 | ||
1997-98 | 36 | 6 | - | 11 | 0 | 47 | 6 | |||
1998-99 | 37 | 3 | - | 8 | 3 | 45 | 6 | |||
1999-00 | 10 | 0 | - | 6 | 0 | 16 | 0 | |||
Ý | Giải vô địch | Coppa Italia | Châu Âu | Tổng cộng | ||||||
1999-00 | Internazionale Milano | Serie A | 20 | 3 | 5 | 2 | - | 25 | 5 | |
2000-01 | 24 | 2 | 4 | 0 | 7 | 3 | 35 | 5 | ||
2001-02 | 20 | 3 | 2 | 1 | 10 | 0 | 32 | 4 | ||
2002-03 | Milan | Serie A | 29 | 4 | 3 | 2 | 16 | 1 | 48 | 7 |
2003-04 | 29 | 3 | 5 | 0 | 8 | 0 | 42 | 3 | ||
2004-05 | 32 | 5 | 4 | 1 | 13 | 1 | 49 | 7 | ||
2005-06 | 36 | 4 | 2 | 1 | 11 | 1 | 49 | 6 | ||
2006-07 | 32 | 7 | 5 | 0 | 14 | 3 | 51 | 10 | ||
2007-08 | 32 | 7 | - | 7 | 2 | 39 | 9 | |||
Tổng cộng | Hà Lan | 65 | 11 | - | 16 | 0 | 81 | 11 | ||
Ý | 286 | 41 | 32 | 8 | 86 | 11 | 404 | 60 | ||
Tây Ban Nha | 121 | 15 | - | 25 | 3 | 146 | 18 | |||
Tổng cộng sự nghiệp | 472 | 67 | 32 | 8 | 127 | 14 | 631 | 89 |
Thành tựu
- Intercontinental Cup: 1
- 1998, Real Madrid
- FIFA Club World Cup: 1
- 2007, AC Milan
- UEFA Super Cup:2
- 2003, AC Milan
- 2007, AC Milan
- UEFA Champions League: 4
- 1994/95, Ajax
- 1997/98, Real Madrid
- 2002/03, AC Milan
- 2006/07, AC Milan
- Dutch Super Cup: 2
- 1993, Ajax
- 1994, Ajax
- Spanish Super Cup: 1
- 1997, Real Madrid
- Italian Super Cup: 1
- 2004 AC Milan
- 2011 AC Milan
- Dutch championship: 2
- 1993/94, Ajax
- 1994/95, Ajax
- Spanish Championship: 1
- 1996/97, Real Madrid
- Italian Championship: 1
- 2003/04, AC Milan
- Dutch Cup: 1
- 1992/93, Ajax
- Italian Cup: 1
- 2002/03, AC Milan
Seedorf có tên trong danh sách FIFA 100 của Pelé.
Chú thích
- ^ “Wijnaldum jongste Feyenoord-debutant” (bằng tiếng Dutch). NOS.nl. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2007.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ “Seedorf pulls out of Dutch Euro 2008 squad”. FourFourTwo. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2008.