Clarence Seedorf
Seedorf với Milan năm 2007 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Clarence Clyde Seedorf | ||
Ngày sinh | 1 tháng 4, 1976 | ||
Nơi sinh | Paramaribo, Suriname[1] | ||
Chiều cao | 1,77 m (5 ft 9+1⁄2 in) | ||
Vị trí | Tiền vệ | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
1982–1983 | VV AS '80 | ||
1983–1986 | Real Almere | ||
1986–1992 | Ajax | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1992–1995 | Ajax | 65 | (11) |
1995–1996 | Sampdoria | 32 | (3) |
1996–1999 | Real Madrid | 121 | (15) |
1999–2002 | Internazionale | 92 | (14) |
2002–2012 | Milan | 300 | (47) |
2012–2014 | Botafogo | 72 | (23) |
Tổng cộng | 682 | (113) | |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1994–2008 | Hà Lan | 87 | (11) |
Sự nghiệp quản lý | |||
Năm | Đội | ||
2014 | Milan | ||
2016 | Thâm Quyến | ||
2018 | Deportivo | ||
2018–2019 | Cameroon | ||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia |
Clarence Seedorf (sinh ngày 1 tháng 4 năm 1976 tại Paramaribo, Suriname) là cựu cầu thủ bóng đá người Hà Lan và cựu huấn luyện viên của câu lạc bộ AC Milan. Anh là người đầu tiên và duy nhất cho đến nay, từng đoạt 4 chức vô địch UEFA Champions League với 3 câu lạc bộ khác nhau: Ajax (1994–95), Real Madrid (1997–98), và AC Milan (2002–03, 2006–07).[2][3] Ngoài ra, Seedorf là cầu thủ châu Âu đầu tiên đoạt được Intercontinental Cup (nay gọi là FIFA Club World Cup) 2 lần với 2 câu lạc bộ khác nhau (Madrid 1998 và Milan 2007). Ngoài ra, anh từng chơi cho Sampdoria và Internazionale.
Sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Thiếu niên
[sửa | sửa mã nguồn]Seedorf bắt đầu sự nghiệp trong vai trò một tiền vệ cánh phải tại Ajax Amsterdam vào đầu thập niên 1990. Anh đá trận bóng chuyên nghiệp đầu tiên vào ngày 29 tháng 11 năm 1992, trong trận đấu với FC Groningen khi mới 16 tuổi 242 ngày, và là cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử của Ajax từ trước đến nay.[4] Trong giai đoạn đầu, anh đã dẫn dắt Ajax chiến thắng giải Eredivisie năm 1994 và 1995. Anh cũng là cầu thủ chủ chốt làm nên chức vô địch UEFA Champions League năm 1995 của Ajax. Mùa hè năm 1995, với những thể hiện của mình, anh được mời đến Sampdoria và chơi ở đó 1 mùa giải, ghi được 3 bàn thắng.
Real Madrid
[sửa | sửa mã nguồn]Seedorf chuyển sang Real Madrid vào năm 1996, giúp đội này đoạt La Liga ngay trong mùa bóng đầu tiên của anh. Mùa bóng thứ 2, 1997-1998, anh giữ vai trò dẫn dắt và đã giúp Real vô địch Champions League sau trận chung kết thắng 1-0 trước Juventus, đây cũng là danh hiệu vô địch châu Âu thứ hai của Seedorf. Trong thời gian chơi cho Real Madrid, Seedorf ghi một bàn thắng nổi tiếng vào lưới Atlético de Madrid: một cú sút cực mạnh từ khoảng cách 45 yards. Seedorf chấm dứt thời gian tại Real Madrid và trở lại Ý vào mùa bóng 1999-2000, để gia nhập cho Inter Milan.
Inter Milan
[sửa | sửa mã nguồn]Ngoại trừ việc giúp Inter đi đến trận chung kết Coppa Italia năm 2000, một trận mà họ đã thua, thì Seedorf không có những cống hiến đặc biệt cho đội. Nhưng, cái tên anh sẽ được nhớ tới bởi nhiều người hâm mộ Inter vì hai bàn thắng trong trận hòa Juve 2-2 hôm 9 tháng 3 năm 2002, cả hai bàn đều từ những pha nỗ lực cá nhân.
A.C. Milan
[sửa | sửa mã nguồn]Sau 2 năm với Inter Milan, Seedorf chuyển đến câu lạc bộ cùng thành phố A.C. Milan vào năm 2002. Anh đoạt chiếc Coppa Italia với Milan vào năm 2003, đây là lần đầu tiên đội bóng đoạt cúp này sau 26 năm chờ đợi. Mùa bóng tiếp theo, Seedorf lần thứ 3 trở thành nhà vô địch châu Âu trong màu áo thứ 3, sau một trận chung kết toàn Ý tại Champions League mà Milan đã hòa Juve 0-0 rồi đả bại họ trong loạt sút luân lưu 11m. Sau sự kiện này, Seedorf trở thành người đầu tiên (và duy nhất cho đến nay) đoạt 3 chức vô địch châu Âu trong 3 màu áo. Mùa giải sau (2003-2004), Seedorf cùng AC Milan vô địch Serie A. Đây cũng là lần thứ 4 Seedorf đoạt chức vô địch quốc gia trong sự nghiệp, sau hai lần tại Hà Lan với Ajax và một lần tại Tây Ban Nha với Real Madrid.
Seedorf trở thành một trong những nhân tố chính giúp Milan đi đến trận chung kết UEFA Champions League 2005-06. Trận đấu tại Istanbul là một trận đáng nhớ sau khi Milan dẫn trước Liverpool 3-0 trong hiệp 1 và bị gỡ lại 3-3 trong hiệp 2, sau đó thua trong loạt đá luân lưu. Tại giải vô địch quốc gia năm đó, Milan về thứ 2 sau Juventus.
Năm 2006, AC Milan với những nhân tố chính là Seedorf, Andrea Pirlo, Kaká và Gennaro Gattuso đã một lần nữa thất bại tại vòng chung kết Champions League khi đã để thua Barcelona - đội mà sau đó đã lên ngôi vô địch - tại trận bán kết.
Trong năm này, một vụ điều tra về gian lận tại Serie A đã diễn ra và Milan là đội bóng bị dính líu nhiều, nhưng họ vẫn được đồng ý cho đá tiếp tại giải vô địch châu Âu mùa bóng sau. Điều này làm cho các cầu thủ chủ chốt vẫn ở lại đội bóng. Tại UEFA Champions League 2006-07, Seedorf đã thể hiện một phong độ tốt. Anh cùng với Kaká trên hàng công đã tạo nên sức mạnh cho Milan. Seedorf đã có công lớn giúp đội bóng vượt qua Bayern Munchen và Manchester United để tiến tới trận chung kết tại Athens, nơi mà họ đã đánh bại Liverpool với tỉ số 2-1 để đoạt chức vô địch. Đây là lần thứ 4 vô địch châu Âu trong sự nghiệp của Seedorf. Tại lễ trao thưởng của Champions League, anh được trao giải tiền vệ xuất sắc nhất. Milan tiếp tục giành chiến thắng tại FIFA Club World Cup mà Seedorf là người góp công lớn.
Anh chơi trận đấu thứ 100 của mình tại Champions League vào ngày 4 tháng 11 khi Milan đối đầu với Celtic F.C. tại Champions League 2007-2008.
Tại Milan, Seedorf thường chơi ở vị trí cánh trái như một tiền vệ trung tâm thứ ba hay là hỗ trợ phía sau tiền đạo trong sơ đồ chiến thuật 4-3-2-1 của ông Carlo Ancelotti.
Quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]Seedorf từng chơi tại Euro 1996, World Cup 1998, Euro 2000 và Euro 2004. Tuy nhiên, phần lớn ý kiến cho rằng sự nghiệp quốc tế của anh còn có thể kéo dài hơn nếu như không có quá nhiều những phen chống đối và bất bình với ban lãnh đạo. Một trong số đó có thể tính là bất bình với Marco van Basten, đã khiến ông gạch tên Seedorf khi ông lên nhậm chức huấn luyện viên của Hà Lan sau Euro 2004. Vì vậy anh không chơi trận nào tại vòng loại World Cup 2006, và Hà Lan cũng không vượt qua vòng này.
Vào ngày 12 tháng 11 năm 2006, Seedorf lại được gọi vào đội, lần đầu tiên kể từ tháng 6 năm 2004, để thay thế Wesley Sneijder bị chấn thương. Anh thi đấu đủ 90 phút trong trận giao hữu hoà 1-1 với Anh. Anh trở lại đội hình và thi đấu thêm vài trận nữa. Tuy nhiên, trong 2 trận đấu với Romania (hòa 0-0 trên sân nhà) và Slovenia (thắng 1-0 sân khách), van Basten chỉ cho anh đá 4 đến 6 phút mỗi trận. Seedorf phát biểu với giới truyền thông vào tháng 12 năm 2007: "anh cống hiến, và cống hiến, nhưng khi trở lại anh không nhận được gì". Tại tuyển quốc gia, có nhiều người mà Van Basten thích sử dụng để thay thế cho Seedorf đó là Rafael van der Vaart, Wesley Sneijder và Robin van Persie.
Vào 13 tháng 5 năm 2008, Seedorf tuyên bố từ chối lời kêu gọi vào đội tuyển Hà Lan tham dự Euro 2008, bởi vì anh không thể hợp tác với Marco Van Basten thêm nữa.[5]
Sự nghiệp huấn luyện
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi sa thải Allegri, Seedorf đã tuyên bố giải nghệ và tuyên bố sẽ trở thành huấn luyện viên trưởng của AC Milan. Ngay trận đầu tiên anh cầm quân, Milan đã giành chiến thắng trước Hellas Verona nhờ bàn thắng của Balottelli.
Thống kê sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Thành tích cấp CLB | Giải vô địch | Cúp quốc gia | Cúp châu lục | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Mùa giải | CLB | Giải vô địch | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn |
Hà Lan | Giải vô địch | KNVB Cup | Châu Âu | Tổng cộng | ||||||
1992-93 | Ajax | Eredivisie | 12 | 1 | - | 3 | 0 | 15 | 1 | |
1993-94 | 19 | 4 | - | 2 | 0 | 21 | 4 | |||
1994-95 | 34 | 6 | - | 11 | 0 | 45 | 6 | |||
Ý | Giải vô địch | Coppa Italia | Châu Âu | Tổng cộng | ||||||
1995-96 | Sampdoria | Serie A | 32 | 3 | 2 | 1 | - | 34 | 4 | |
Tây Ban Nha | Giải vô địch | Copa del Rey | Châu Âu | Tổng cộng | ||||||
1996-97 | Real Madrid | La Liga | 38 | 6 | - | - | 38 | 6 | ||
1997-98 | 36 | 6 | - | 11 | 0 | 47 | 6 | |||
1998-99 | 37 | 3 | - | 8 | 3 | 45 | 6 | |||
1999-00 | 10 | 0 | - | 6 | 0 | 16 | 0 | |||
Ý | Giải vô địch | Coppa Italia | Châu Âu | Tổng cộng | ||||||
1999-00 | Internazionale Milano | Serie A | 20 | 3 | 5 | 2 | - | 25 | 5 | |
2000-01 | 24 | 2 | 4 | 0 | 7 | 3 | 35 | 5 | ||
2001-02 | 20 | 3 | 2 | 1 | 10 | 0 | 32 | 4 | ||
2002-03 | Milan | Serie A | 29 | 4 | 3 | 2 | 16 | 1 | 48 | 7 |
2003-04 | 29 | 3 | 5 | 0 | 8 | 0 | 42 | 3 | ||
2004-05 | 32 | 5 | 4 | 1 | 13 | 1 | 49 | 7 | ||
2005-06 | 36 | 4 | 2 | 1 | 11 | 1 | 49 | 6 | ||
2006-07 | 32 | 7 | 5 | 0 | 14 | 3 | 51 | 10 | ||
2007-08 | 32 | 7 | 0 | 0 | 10 | 3 | 42 | 10 | ||
2008–09 | 33 | 6 | 1 | 0 | 7 | 0 | 41 | 6 | ||
2009–10 | 29 | 5 | 0 | 0 | 8 | 1 | 37 | 6 | ||
2010–11 | 30 | 4 | 2 | 0 | 8 | 0 | 40 | 4 | ||
2011–12 | 18 | 2 | 3 | 1 | 8 | 0 | 29 | 3 | ||
2012 | Botafogo | Série A | 24 | 8 | 0 | 0 | 0 | 0 | 24 | 8 |
2013 | 34 | 7 | 0 | 0 | 1 | 1 | 35 | 8 | ||
Tổng cộng | Hà Lan | 65 | 11 | - | 16 | 0 | 81 | 11 | ||
Ý | 300 | 48 | 26 | 5 | 105 | 10 | 431 | 63 | ||
Tây Ban Nha | 121 | 15 | - | 25 | 3 | 146 | 18 | |||
Brazil | 58 | 15 | 0 | 0 | 1 | 1 | 59 | 16 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 640 | 99 | 69 | 11 | 166 | 17 | 875 | 127 |
Danh hiệu
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Ajax
[sửa | sửa mã nguồn]- Eredivisie: 1993–94, 1994–95
- Cúp KNVB: 1992–93
- Johan Cruijff Shield: 1993
- UEFA Champions League: 1994–95
Real Madrid
- La Liga: 1996–97
- Supercopa de España: 1997
- UEFA Champions League: 1997–98
- Intercontinental Cup: 1998
AC Milan
- Serie A: 2003–04, 2010–11
- Coppa Italia: 2002–03
- Supercoppa Italiana: 2004, 2011
- UEFA Champions League: 2003, 2007
- UEFA Super Cup: 2003, 2007
- FIFA Club World Cup: 2007
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Clarence Seedorf – A.C. Milan squad 2011/2012”. A.C. Milan. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2012.
- ^ UEFA Champions League – Clarence Seedorf – UEFA.com Lưu trữ 2015-09-27 tại Wayback Machine. 2000.uefa.com (ngày 20 tháng 5 năm 2013). Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2013.
- ^ UEFA CHAMPIONS LEAGUE SEASON 2009/10 MATCHWEEK STATS PACK MATCHWEEK 1 15/09/2009-16/09/2009. uefa.com
- ^ “Wijnaldum jongste Feyenoord-debutant” (bằng tiếng Hà Lan). NOS.nl. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2007.
- ^ “Seedorf pulls out of Dutch Euro 2008 squad”. FourFourTwo. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2008.[liên kết hỏng]
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Clarence Seedorf. |
- Sinh năm 1976
- Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan
- Cầu thủ bóng đá AFC Ajax
- Huấn luyện viên A.C. Milan
- Cầu thủ bóng đá Real Madrid
- Cầu thủ bóng đá Inter Milan
- Cầu thủ bóng đá A.C. Milan
- FIFA 100
- Nhân vật còn sống
- Tiền vệ bóng đá
- Cầu thủ bóng đá Serie A
- Cầu thủ bóng đá U.C. Sampdoria
- Người Hà Lan ở nước ngoài ở Tây Ban Nha
- Huấn luyện viên bóng đá Hà Lan
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 1998
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Brasil
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Tây Ban Nha
- Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan ở nước ngoài