Phạm Bình Minh
Phạm Bình Minh | |
---|---|
![]() |
|
Chức vụ
|
|
Nhiệm kỳ | 13 tháng 11 năm 2013 – nay 4 năm, 163 ngày |
Thủ tướng | Nguyễn Xuân Phúc |
Tiền nhiệm | Phạm Gia Khiêm |
Kế nhiệm | đương nhiệm |
Vị trí | ![]() |
Nhiệm kỳ | 3 tháng 8 năm 2011 – nay 6 năm, 265 ngày |
Tiền nhiệm | Phạm Gia Khiêm |
Kế nhiệm | đương nhiệm |
Vị trí | ![]() |
Thứ trưởng | Bùi Thanh Sơn Lê Hoài Trung Hà Kim Ngọc Vũ Hồng Nam Đặng Đình Quý Nguyễn Quốc Dũng Nguyễn Bá Hùng. |
Ủy viên Bộ Chính trị
|
|
Nhiệm kỳ | 27 tháng 1 năm 2016 – nay 2 năm, 88 ngày |
Tổng bí thư | Nguyễn Phú Trọng |
Thứ trưởng Thường trực
Bộ Ngoại giao Việt Nam |
|
Nhiệm kỳ | 29 tháng 8 năm 2007 – 2 tháng 8 năm 2011 3 năm, 338 ngày |
Bộ trưởng | Phạm Gia Khiêm |
Tiền nhiệm | Lê Công Phụng |
Đại sứ, Phó trưởng phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc
|
|
Nhiệm kỳ | 1999 – 2001 |
Thông tin chung
|
|
Đảng phái | Đảng Cộng sản Việt Nam |
Sinh | 26 tháng 3, 1959 xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa |
Học vấn | Thạc sĩ Luật và Ngoại giao |
Trường | Học viện Quan hệ Quốc tế, Fletcher School of Law and Diplomacy at Tufts University |
Dân tộc | Kinh |
Cha | Nguyễn Cơ Thạch (Phạm Văn Cương) |
Mẹ | Phan Thị Phúc[1] |
Vợ | Nguyễn Nguyệt Nga |
Con cái |
|
Trang web | phambinhminh.chinhphu.vn |
Phạm Bình Minh (sinh ngày 26 tháng 3 năm 1959) là một nhà ngoại giao và chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021, thuộc đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Thái Nguyên.[2] Ông đã trúng cử đại biểu Quốc hội năm 2016 ở đơn vị bầu cử số 3, tỉnh Thái Nguyên gồm có thành phố Sông Công, thị xã Phổ Yên và huyện Phú Bình.[3][4] Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII nhiệm kì 2011-2016, thuộc đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Quảng Ninh.[5] Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông giữ chức vụ Ủy viên Bộ Chính trị khóa XII, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa X, XI[6]. Ông là con trai của cố Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch.
Mục lục
Xuất thân[sửa | sửa mã nguồn]
Ông sinh ngày 26 tháng 3 năm 1959, nguyên quán tại xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Cha của ông là nhà ngoại giao Phạm Văn Cương, tức Nguyễn Cơ Thạch, bấy giờ đang giữ chức vụ Tổng lãnh sự nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Ấn Độ. Mẹ của ông là bà Phan Thị Phúc. Ông hiện cư trú tại quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.[4]
Giáo dục[sửa | sửa mã nguồn]
- Thuở nhỏ, ông theo học tại trường phổ thông cấp 2, 3 Nguyễn Trãi tại Hà Nội (hệ 10/10)[4]
- 1977: ông đăng ký dự thi vào trường Đại học Bách khoa Hà Nội, tuy nhiên do ảnh hưởng của cha, ông chuyển sang dự thi và được tuyển vào Học viện Quan hệ Quốc tế.
- 1981: Tốt nghiệp trường Đại học Ngoại giao (nay là Học viện Ngoại giao Việt Nam)[7]
- 1994: Lấy bằng thạc sĩ Luật và Ngoại giao tại Trường Luật Quốc tế và Ngoại giao Fletcher trực thuộc Đại học Tufts (Fletcher School of Law and Diplomacy, Tufts University, Massachusetts), ông thuộc lớp sinh viên đầu tiên qua Hoa Kỳ học dưới sự tài trợ của học bổng Fulbright.[7][8]
- Thông thạo tiếng Anh.[7]
Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]
Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Ngoại giao, năm 1981, ông được nhận vào làm Chuyên viên Vụ Đào tạo, Bộ Ngoại giao[9], bấy giờ cha ông đang giữ chức Bộ trưởng.
Một năm sau, năm 1982, ông được bổ nhiệm làm Tùy viên Đại sứ quán Việt Nam tại Anh. Sau khi hoàn tất nhiệm kỳ công tác, năm 1986, ông được triệu hồi về nước và được phân công làm Chuyên viên của Vụ Vấn đề chung, Bộ Ngoại giao. Năm 1991, ông được thăng làm Phó Vụ trưởng Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao. Cùng năm đó, cha ông nghỉ hưu.
Năm 1999, ông được bổ nhiệm làm Đại sứ, Phó trưởng phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam bên cạnh Liên hợp quốc. Từ năm 2001 đến tháng 1 năm 2003, ông được bổ nhiệm làm Công sứ, Phó Đại sứ của Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Tháng 3 năm 2003, ông được triệu hồi về nước và được bổ nhiệm làm Quyền Vụ trưởng Vụ Các Tổ chức Quốc tế. Đến tháng 8 cùng năm, ông được bổ nhiệm chính thức làm Vụ trưởng.
Tháng 4 năm 2006, tại Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá X. Tháng 9 cùng năm, ông được bổ nhiệm làm Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao cho Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm vừa được phê chuẩn kiêm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Tháng 8 năm 2007, ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Ngoại giao[10]. Tháng 11 cùng năm ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Thường trực. Tại Hội nghị Lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương khóa X, ông được chuyển từ Ủy viên dự khuyết thành Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá X từ ngày 13 tháng 1 năm 2009.
Ngày 29 tháng 03 năm 2010, ông được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bổ nhiệm kiêm chức Phó Chủ tịch Ủy ban Sông Mê Công Việt Nam.[11]
Tháng 1 năm 2011, tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam XI, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XI.
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 tỉnh Quảng Ninh[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 22 tháng 5 năm 2011, ông đã trúng cử đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 nhiệm kì 2011-2016 ở đơn vị bầu cử số 3 tỉnh Quảng Ninh, gồm huyện Vân Đồn, huyện Cô Tô, huyện Tiên Yên, huyện Đầm Hà, huyện Hải Hà, huyện Bình Liêu, huyện Ba Chẽ và thành phố Móng Cái.
Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Quốc hội khóa 13[sửa | sửa mã nguồn]
Tháng 8 năm 2011, tại Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội Việt Nam khóa XIII, ông đã được phê chuẩn làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thay cho ông Phạm Gia Khiêm.
Ngày 13 tháng 11 năm 2013, ông được Quốc hội Việt Nam khóa 13 phê chuẩn làm Phó thủ tướng kiêm nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Tháng 1 năm 2016, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 tỉnh Thái Nguyên[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 22 tháng 5 năm 2016, ông trúng cử đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 nhiệm kì 2016-2021 ở đơn vị bầu cử số 3 tỉnh Thái Nguyên gồm thành phố Sông Công, thị xã Phổ Yên và huyện Phú Bình, được 231.129 phiếu, đạt tỷ lệ 83,44% số phiếu hợp lệ.[12]
Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Quốc hội khóa 14[sửa | sửa mã nguồn]
Sáng ngày 28 tháng 7 năm 2016, Quốc hội Việt Nam khóa 14 đã tiến hành phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc về việc bổ nhiệm ông Phạm Bình Minh làm Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam nhiệm kỳ 2016-2021 bằng hình thức bỏ phiếu kín, kết quả ông Phạm Bình Minh được phê chuẩn với 483/488 phiếu (97,77%).[13]
Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]
- Huân chương Lao động hạng Nhất năm 2015 do đã có thành tích xuất sắc trong công tác từ năm 2011-2014, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.[7]
- Huân chương Lao động hạng Ba năm 2009 do có thành tích xuất sắc trong công tác giai đoạn 2002 – 2008.[7]
- Danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quốc năm 2010 vì có thành tích xuất sắc tiêu biểu trong phong trào thi đua yêu nước, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.[7]
- Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam năm 2011 do có thành tích xuất sắc trong quá trình Việt Nam đảm nhiệm cương vị Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.[7]
- Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2006 vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác từ 2001 – 2006.[7]
- Huy chương Vì sự nghiệp Ngoại giao năm 2003 vì đã có thành tích đóng góp quý báu vào sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành Ngoại giao.[7]
Ảnh hưởng của cha[sửa | sửa mã nguồn]
- Nối nghiệp Cha
“ | Tôi vốn học khá các môn tự nhiên. Cả hai anh chị của tôi cũng đều theo học tự nhiên và không làm việc gì liên quan tới ngoại giao cả. Khi tôi quyết định thi vào Đại học Bách khoa, cha tôi tìm tôi tâm sự. Cha tôi nói rằng ông rất tâm huyết với nghề ngoại giao và mong mỏi có một người con nối nghiệp. Nghe lời ông, tôi đã chuyển sang thi vào trường ngoại giao. Tôi thật sự biết ơn cha tôi vì đã hướng tôi vào một công việc nhiều ý nghĩa. | ” |
— Phạm Bình Minh - 2006 [14] |
- Tiến thân
“ | Cha tôi nghỉ việc ở ngành ngoại giao từ năm 1991 và mất cách đây đã tám năm nên không thể nói tôi nhờ ông can thiệp này nọ vào công tác tổ chức nhân sự. Nhưng những kết quả tôi đạt được ngày nay phần nhiều nhờ tôi học từ cha mình. Ông vừa là người cha vừa là người thầy của tôi và ảnh hưởng rất lớn tới phong cách làm việc của tôi. | ” |
— Phạm Bình Minh - 2006 [14] |
Cùng với cha con ông Đoàn Trọng Truyến - Đoàn Mạnh Giao, cha con ông Phạm Văn Cương - Phạm Bình Minh là những trường hợp hiếm hoi cha con nối nghiệp cùng làm người đứng đầu một Bộ tại Việt Nam kể từ sau năm 1945.
Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]
Vợ ông là bà Nguyễn Nguyệt Nga[15], Vụ trưởng Vụ Hợp tác Kinh tế đa phương, Bộ Ngoại giao, từng công tác tại Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ. Ông bà có với nhau 2 người con trai. Con trai cả Phạm Bình Anh sinh năm 1987 hiện đang công tác tại Vụ Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao-Vụ mà trước đây ông Phạm Bình Minh đã công tác. Con trai ông vừa mới kết hôn tháng 4/2016 và con dâu ông cũng làm tại Vụ Tổ chức Quốc tế. Con trai thứ Phạm Bình Nam hiện đang học Đại học RMIT Việt Nam tại học sở Hà Nội.
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Dược sĩ đại học công tác ban đầu ở bệnh viện Việt Đức sau đó cũng chuyển sang bộ Ngoại giao công tác [1]
- ^ “Thông tin đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14”. Website Quốc hội Việt Nam. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2017.
- ^ “Danh sách những người trúng cử đại biểu quốc hội khóa XIV (Ban hành kèm theo nghị quyết số 617/NQ-HĐBCQG ngày 08/6/2016 của Hội đồng Bầu cử Quốc gia)”. Báo điện tử đại biểu nhân dân. 10 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2017.
- ^ a ă â Hội đồng bầu cử Quốc gia năm 2016, Danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV năm 2016 ở 63 tỉnh thành
- ^ “Thông tin đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13”. Website Quốc hội Việt Nam. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2017.
- ^ [2]
- ^ a ă â b c d đ e ê “Tiểu sử Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh”. Vụ Thông tin Báo chí - Bộ Ngoại giao. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2017.
- ^ “High hopes as two Vietnam young ministers nominated as deputy PMs”. Thanh Nien News.
- ^ Vụ Thông tin Báo chí - Bộ Ngoại giao. “Tiểu sử Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh”. Trang Website Bộ Ngoại giao Việt Nam. Bản gốc lưu trữ 2013. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2011.
- ^ Quyết định bổ nhiệm ông Phạm Bình Minh lam Thứ trưởng Ngoại giao.
- ^ Quyết định 395/QĐ-TTg năm 2010 Về việc bổ nhiệm ông Phạm Bình Minh, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao, kiêm giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Sông Mê Công Việt Nam.
- ^ Hội đồng bầu cử Quốc gia, Kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XIV
- ^ “Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021 ra mắt”. Cổng thông tin điện tử Chính phủ Việt Nam. 28 tháng 7 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2017.
- ^ a ă HÀ CẨM (29 tháng 4 năm 2006). “Ông ủy viên dự khuyết”. Tuổi trẻ Online. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2011.
- ^ Phu nhân Bộ trưởng Ngoại giao mời tiệc trà phu nhân Đại sứ các nước ASEAN
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- Trang chính thức phambinhminh.chinhphu.vn
- Tiểu sử Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh
- Ông Ủy viên dự khuyết
|
- Sinh 1959
- Nhân vật còn sống
- Người Nam Định
- Hàm Đại sứ (Việt Nam)
- Thứ trưởng Bộ Ngoại giao (Việt Nam)
- Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam
- Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII Quảng Ninh
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV Thái Nguyên
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
- Phó Thủ tướng Việt Nam
- Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII
- Sống ở Anh
- Sống ở Mỹ
- Sống ở Hà Nội
- Huân chương Lao động