Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Novak Djokovic”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
ZéroBot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.1) (Bot: Thêm si:Novak Djokovic
AvocatoBot (thảo luận | đóng góp)
Dòng 715: Dòng 715:
[[id:Novak Đoković]]
[[id:Novak Đoković]]
[[ms:Novak Djokovic]]
[[ms:Novak Djokovic]]
[[bn:নোভাক জকোভিচ]]
[[zh-min-nan:Novak Đoković]]
[[zh-min-nan:Novak Đoković]]
[[jv:Novak Đoković]]
[[jv:Novak Đoković]]

Phiên bản lúc 18:45, ngày 19 tháng 10 năm 2012

Novak Djokovic
Quốc tịch{{{alias}}} Serbia
Nơi cư trúMonte Carlo, Monaco
Sinh22 tháng 5 năm 1987
Belgrade, Nam Tư
Chiều cao1 m (3 ft 3 in) 88
Lên chuyên nghiệp2003
Tay thuậnPhải, revers hai tay
Tiền thưởng20 262 956 $
Đánh đơn
Thắng/Thua324-105
Số danh hiệu26
Thứ hạng cao nhất1 (4 tháng 7 năm 2011)
Thứ hạng hiện tại2 (9.7.2012)
Thành tích đánh đơn Gland Slam
Úc Mở rộngVô địch (2008, 2011, 2012)
Pháp mở rộngBán kết (2007, 2008, 2011)
WimbledonVô địch (2011)
Mỹ Mở rộngVô địch (2011)
Đánh đôi
Thắng/Thua28-38
Số danh hiệu1
Thứ hạng cao nhất114 (30 tháng 11 năm 2009)
Thành tích huy chương Thế vận hội
Quần vợt Nam
Huy chương đồng – vị trí thứ ba 2008 Bắc Kinh Đơn nam

Novak Đoković (theo ký tự Cyril của tiếng Serbia: Новак Ђоковић; phát âm: [ˈnɔvaːk 'ʥɔːkɔviʨ]; thường được viết là Novak Djokovic trong tiếng Anh) (sinh ngày 22 tháng 5 năm 1987 tại Belgrade) là một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Serbia. Hiện anh đang là tay vợt số 2 thế giới (từ ngày 9 tháng 7 năm 2012). Anh đã có 5 danh hiệu Grand Slam đơn nam: Australian Open 2008, 2011 và 2012, Wimbledon 2011, và US Open 2011. Sau khi vô địch 3 Grand Slam vào năm 2011, Djokovic trở thành tay vợt nam thứ 6 trong Kỷ nguyên mở rộng giành được 3 danh hiệu Grand Slam trong 1 năm. Cũng trong năm 2011, Djokovic đã lập kỷ lục vô địch 5 ATP World Tour Masters 1000, và là tay vợt kiếm nhiều tiền thưởng nhất trong lịch sử ATP ở 1 mùa thi đấu (12,595,903$). Anh là tay vợt Serbia đầu tiên vô địch 1 giải Grand Slam và cũng là người trẻ nhất trong trong Kỷ nguyên mở rộng vào đến bán kết 4 cả giải GS, cả liên tiếp và ngắt quãng. Anh cũng giành được danh hiệu lớn khác là Masters Cup 2008 và cùng đội tuyển quốc gia vô địch Davis Cup 2010.

Novak Djokovic được nhận giải thưởng Laureus cho Vận động viên nam xuất sắc nhất của năm 2011[1].

Sự nghiệp thi đấu

Năm 2006

Là tay vợt đang lên ở tuổi 20, Djokovic đã chứng minh mình là tay vợt có thể thích nghi trên mọi mặt sân với tài năng tiềm tàng. Anh tham gia giải Hopman Cup với đồng đội là Ana Ivanovic. Tuy nhiên họ đã để thua trận chung kết.

Anh tiếp tục cuộc bứt phá ngoạn mục khi thăng hạng vùn vụt năm 2006.

Vào tháng 5 năm 2006, nhiều phóng viên đã đăng tin trên Thông tấn xã Anh về việc mẹ của Djokovic, bà Dijna Djokovic, đã tường lên Hiệp hội Quần vợt Sân cỏ của Anh về việc đưa con trai bà vào Bảng xếp hạng các tay vợt Anh cũng như việc xin chuyển đến sống tại Anh cho gia đình gồm 5 người của Djokovic. Tuy nhiên, những tin đồn đó đã không làm ảnh hưởng đến sự thi đấu Djokovic. Djokovic khởi đầu năm 2006 tại vị trí thứ 78, nhưng với những nỗ lực để vào đến tứ kết Roland Garros và vòng 4 Wimbledon, anh được lọt vào top 40.

Chỉ 3 tuần sau Wimbledon, anh giành danh hiệu đầu tiên của mình tại Amersfoot mà không để thua một set nào. Với chiến thắng thứ 2 tại Metz, Djokovic lọt vào top 20 lần đầu tiên trong sự nghiệp. Còn với những gì anh đã thể hiện tại Indian Wells (Á Quân) và Miami (Vô Địch), 2 giải Masters của năm, anh lọt vào top 10. Trong 2 giải đấu trên, anh đều đánh bại Andy Murray, tay vợt số 1 của Anh hiện nay và cũng là bạn thân của anh, trong 2 trận bán kết mà không để thua một ván đấu nào. Anh để mất giải Indian Wells vào tay Rafael Nadal, nhưng đã trả miếng lại được bằng chiến thắng trước Nadal tại Miami, Florida. Sau đó, anh tham dự giải đấu danh giá Monte Carlo Mở Rộng và để thua David Ferrer tại vòng 3 với 3 ván trắng. Tại giải Estoril, Djokovic đánh bại tay vợt lọt vào bán kết Wimbledon 2007 người Pháp, Richard Gasquet 7-6,0-6,6-1 tại chung kết.

Anh là bạn thân thời trung học của Andy Murray, và cũng đôi khi là đồng đội đánh cặp của anh. Tại Davis Cup 4/2006 diễn ra ở Glasgow, đội Serbia và Motenegro (với sự góp mặt của Novak Djokovic) đã đánh bại đội Anh (với Andy Murray). Djokovic giành được trận thắng mang tính quyết định trước Greg Rusedski, giúp đội của anh giành phần thắng 3-1.

Năm 2007

Novak Djokovic tại 2007 U.S. Open

Tại Úc Mở rộng, anh lọt đến vòng 4 trước khi để thua Roger Federer, nhà vô địch của giải này. Thành tích tốt nhất của Djokovic tại Grand Slam là vào đến bán kết Pháp Mở rộngWimbledon, và đều để thua trước Rafael Nadal.

Tại Wimbledon, anh có chiến thắng kịch tính trước Marcos Baghdatis tại tứ kết. Trận đấu kéo dài đến 5 giờ, chỉ kém 5 phút so với trận đấu đơn dài nhất trong 1 ngày của lịch sử giải Wimbledon. Trong trận bán kết gặp Rafael Nadal, anh buộc phải bỏ cuộc sớm do chấn thương lưng và bàn chân. Những thành công của anh tại Wimbledon đồng nghĩa với việc anh trở thành tay vợt số 3 thế giới, sau Roger FedererRafael Nadal, vì Andy Roddick đã chỉ lọt đến tứ kết, còn Nikolay Davydenko thì dừng bước ở vòng 4.

Tháng 8 năm 2007 đánh dấu 1 bước ngoặt lớn trong sự nghiệp của Novak Djokovic khi anh đánh bại Andy Roddick (số 3 khi đó), Rafael Nadal (số 2) ở bán kết rồi Roger Federer (số 1) ở chung kết để giành giải vô địch Roger Master ở Montreal, Canada. Đây là lần đầu tiên kể từ Boris Becker năm 1994 có một tay vợt đánh bại cả 3 tay vợt có thứ hạng cao nhất trong bảng xếp hạng ATP tại một giải đấu.

Năm 2008

Năm 2008, Nole chỉ có 4 danh hiệu gồm Tennis Masters Cup (sân cứng trong nhà), ATP Masters Series Rome (sân đất nện), ATP Masters Series Indian Wells (sân cứng), Australian Open (sân cứng). Và đó được coi là năm thi đấu rất thành công của Djokovic khi anh giành được Grand Slam đầu tiên trong sự nghiệp tại Úc đầu năm và kết thúc năm với chức vô địch Masters Cup. Khởi đầu năm 2009 không thuận lợi khi để thua Ernests Gulbis trong giải tại Brisbane (Úc) ngay từ vòng 1 và Jarkko Nieminen tại bán kết giải Sydney (Úc) trước thềm giải Úc mở rộng dường như báo hiệu một năm đầy khó khăn của tay vợt người Serbia.

Ngay sau đó, Nole phải bỏ cuộc ở tứ kết giải Úc mở rộng trước Andy Roddick và không thể bảo vệ chức vô địch năm 2008. Tiếp đó tới tận cuối tháng 2, Djokovic mới giành danh hiệu đầu tiên tại ATP World Tour Dubai 500. Giới chuyên môn đã lo ngại cho phong độ đi xuống của Djokovic khi phải 3 tháng sau anh mới có thêm 1 danh hiệu tại quê nhà Belgrade(ATP 250). Dù vẫn giữ thành tích ổn định trong tất cả các giải ATP (trong 20 giải ATP của Djokovic thì anh lọt ít nhất tới tứ kết của 19 giải) nhưng để vươn tới tầm của Federer, Nadal hay cả Murray vẫn là một dấu hỏi chưa có lời giải đáp cho Djokovic. Nhưng tất cả lại thay đổi chỉ trong 3 tháng cuối năm 2009.

5 tháng khát danh hiệu đã được Djokovic "giải nhiệt" ở ATP World Tour 500 tại Bắc Kinh (Djokovic đánh bại Marin Cilic 6-2, 7-6(4)) đầu tháng 10. Người hâm mộ đã có thể thấy một Djokovic khác hẳn những tháng trước đó với tâm lý thi đấu vững vàng, không tỏ ra nôn nóng trước những tình huống khó khăn và đặc biệt cú đánh phải sở trường đã đạt tới độ chính xác rất cao. Bất kỳ tay vợt nào khi đứng trước cú bạt phải của Djokovic đều cảm nhận rõ sức nặng của những pha bóng thuận tay của Djokovic với tốc độ lên tới trên 130 km/h. Ngay tại giải Paris Masters trước thềm ATP World Tour Finals, tay vợt số 2 thế giới Rafael Nadal đã trải qua những phút bất lực trước những cú đánh như vậy của Djokovic. Một ông vua cứu bóng như Nadal mà thường xuyên đứng nhìn đối phương ăn điểm thì đó phải là những cú đánh vô cùng hóc hiểm.

Nhiều nhận định phân tích chức vô địch năm 2008 của Djokovic cũng một phần vì sự vắng mặt của Nadal do chấn thương, sau đó là Federer bất ngờ bị loại ngay từ vòng bảng đã góp phần giúp tay vợt người Serbia thẳng tiến tới chức vô địch. Một phần có thể đúng như vậy nhưng không thể phủ nhận trong những ngày tháng 11 này, Djokovic đang là tay vợt có phong độ và thể lực tốt nhất trong số 8 tay vợt tham dự giải. Cùng bảng B với Rafael Nadal (2), Nikolay Davydenko (6) và Robin Soderling(8) không phải là trở ngại quá lớn với Djokovic. Trong trận đấu cuối cùng Nole đã chiến thắng thuyết phục trước Nikolay Davydenko với tỉ số 6-1, 7-5.

Năm 2009

Djokovic năm 2009

Djokovic bắt đầu năm 2009 tại giải Brisbane International ở Brisbane, Australia, nơi mà anh đã bị loại bởi Ernests Gulbis ngay vòng đầu tiên. Ở giải Medibank International tại Sydney, anh thua Jarkko Nieminen ở bán kết.

Với tư cách là đương kim vô địch Australian Open, Djokovic đã phải rút lui ở trận tứ kết với cựu số 1 thế giới Andy Roddick. Sau khi thua ở bán kết giải Open 13 tại Marseille trước Jo-Wilfried Tsonga, Djokovic vô địch Barclays Dubai Tennis Championships, đánh bại David Ferrer để giành danh hiệu thứ 12 trong sự nghiệp. Djokovic là đương kim vô địch tại BNP Paribas Open ở Indian Wells, California, một giải ATP World Tour Masters 1000, nhưng đã thua Roddick ở tứ kết. Tại giải Sony Ericsson Open ở Key Biscayne, Florida, một giải ATP World Tour Masters 1000 khác, Djokovic đánh bại Federer ở bán kết, trước khi thua Andy Murray ở chung kết.

Djokovic tại US Open 2009

Djokovic vào chung kết Monte-Carlo Rolex Masters trên mặt sân đất nện, thua Rafael Nadal ở chung kết. Tại giải Internazionali BNL d'Italia ở Rome, một giải ATP World Tour Masters 1000 khác, Djokovic là đương kim vô địch và lại để thua ở chung kết lần nữa.

Djokovic là hạt giống số 1 ở giải đấu tổ chức tại quê nhà, Serbia Open ở Belgrade. Anh đánh bại tay vợt lần đầu vào chung kết Łukasz Kubot để có danh hiệu thứ 2 trong năm. Là hạt giống số 3 tại Mutua Madrilena Madrid Open, Djokovic vào đến bán kết mà không để thua set nào. Ở đó, anh gặp Nadal và thua mặc dù đã có tới 3 match point. Trận đấu diễn ra trong 4 giờ 3 phút, là trận đấu dài nhất ở thể thức 3 set trong lịch sử ATP World Tour trong Kỷ nguyên mở rộng. Tại French Open, anh dừng bước ở vòng 3 trước tay vợt người Đức Philipp Kohlschreiber.

Djokovic bắt đầu mùa giải sân cỏ tại Gerry Weber Open, sau sự rút lui của Federer, anh trở thành hạt giống số 1. Anh vào tới chung kết, để thua tay vợt Đức Tommy Haas. Djokovic cũng thua Haas ở tứ kết Wimbledon.

Tại US Open Series, Djokovic vào tứ kết Rogers Cup ở Montreal, trước khi để thua Andy Roddick. Tại giải Western & Southern Financial Group Masters ở Cincinnati, Djokovic đánh bại tay vợt số 3 thế giới Rafael Nadal ở bán kết. Anh thua số 1 thế giới Roger Federer ở chung kết. Tại US Open 2009, Djokovic vào tới bán kết mà chỉ để thua 2 set, đánh bại Ivan Ljubičić, hạt giống số 15 Radek Štěpánek và hạt giống số 10 Fernando Verdasco. Sau đó anh để thua Roger Federer.

Tại China Open ở Beijing, anh đánh bại Victor Hănescu, Viktor Troicki, Fernando Verdasco, và Robin Söderling để vào chung kết, nơi anh đánh bại Marin Čilić trong 2 set để vô địch lần thứ 3 trong năm. Tại Shanghai ATP Masters 1000, Djokovic thua ở bán kết trước Nikolay Davydenko.

Tại giải Davidoff Swiss Indoors ở Basel, Djokovic đánh bại Jan Hernych để vào tứ kết. Anh sau đó thắng Stanislas Wawrinka ở tứ kết. Anh thắng trận bán kết trước Radek Štěpánek. Tại chung kết, anh đánh bại tay vợt chủ nhà và đã 3 lần vô địch giải đấu Roger Federer để vô địch danh hiệu thứ 4 trong năm.

Ở giải Masters 1000 cuối cùng trong năm BNP Paribas Masters tại Paris, Djokovic vô địch giải Masters 1000 đầu tiên trong năm. Anh đánh bại Rafael Nadal ở bán kết. Trong trận chung kết Djokovic vượt qua Gaël Monfils.

Tới giải đấu cuối năm ATP World Tour Finals ở London với tư cách là đương kim vô địch, Djokovic đánh bại Nikolay Davydenko ở lượt đầu tiên vòng bảng. Ở trận đấu thứ 2, anh thua Robin Söderling. Mặc dù thắng Rafael Nadal ở trận thứ 3 nhưng Djokovic vẫn không vào được bán kết.

Djokovic kết thúc năm với vị trí thứ 3 thế giới năm thứ 3 liên tiếp. Djokovic chơi 97 trận trong cả năm, nhiều nhất trong số các tay vợt ở ATP World Tour, với 78 trận thắng – 19 trận thua. Là tay vợt có số trận thắng nhiều nhất trong năm, Djokovic vào đến 10 trận chung kết và giành được 5 danh hiệu.

Năm 2010

Djokovic bắt đầu mùa giải bằng giải đấu biểu diễn Kooyong Classic. Ở trận đấu đầu tiên, Djokovic đánh bại Tommy Haas, nhưng để thua Fernando Verdasco ở trận tiếp theo. Ở Australian open, Djokovic bị loại ở tứ kết bởi Jo-Wilfried Tsonga trong trận đấu kịch tính kéo dài 5 ván đấu. Dù vậy, thành tích này cũng giúp Djokovic lần đầu leo lên vị trí thứ 2 thế giới. Tại giải ATP500 ABN AMRO World Tennis TournamentRotterdam, Djokovic tiến vào bán kết và thất bại trước Mikhail Youzhny. Tại giải ATP500 Dubai Tennis ChampionshipsU.A.E, được xếp làm hạt giống số 2, Djokovic lần lượt đánh bại Guillermo García-López, Victor Troicki, Ivan Ljubicic, Marcos Baghdatis để vào chung kết gặp Mikhail Youzhny, với chiến thắng 7-5 5-7 6-3, Djokovic đã có được danh hiệu đầu tiên của năm. Sau đó Djokovic tham gia cùng đội tuyển Serbia tại vòng 1 cúp đồng đội nam thế giới Davis cup gặp đội tuyển USA. Với 2 chiến thắng quan trọng trước Sam QuerreyJohn Isner, Djokovic đã đưa đội tuyển Serbia vào tứ kết với thắng lợi chung cuộc 3-2. Tại giải ATP1000 đầu tiên trong năm Indian Wells Masters, Djokovic để thua Ivan Ljubicic ở vòng 4. Tại giải ATP1000 Miami Masters, Djokovic đã để thua ngay vòng đấu đầu tiên trước Olivier Rochus. Với 2 thất bại liên tiếp này, Djokovic quyết định bổ nhiệm Todd Martin làm huấn luyện viên của mình. Tại giải ATP1000 đầu tiên trên sân đất nện Monte-Carlo Rolex Masters, hạt giống số 2 Djokovic đã tiến vào bán kết gặp Fernando Verdasco với chiến thắng trước Stanislas WawrinkaDavid Nalbandian. Sau đó Djokovic đã để thua Verdasco với tỉ số 2-6 2-6. Tại giải ATP1000 Internazionali BNL d'Italia tại Rome, Djokovic lại để thua Verdasco ở tứ kết sau 3 ván đấu. Trở về tại giải đấu ATP250 Serbia open được tổ chức trên quê nhà, nhà đương kim vô địch đã bỏ cuộc tại tứ kết gặp Filip Krajinovic. Tại giải Grand Slam thứ 2 trong năm trên sân đất nện, Djokovic đã tiến vào tứ kết sau khi đánh bại Evgeny Korolev, Kei Nishikori, Victor Hănescu, và Robby Ginepri. Ở tứ kết Djokovic bất ngờ để thua Jurgen Melzer sau khi đã thắng 2 ván đầu và 1 break trước trong ván thứ 3. Tại Grand Slam thứ 3 trong năm Wimbledon, được xếp làm hạt giống số 3 của giải, Djokovic đã đánh bại Olivier Rochus, Taylor Dent, Albert Montanes, Lleyton Hewitt, và Yen-Hsun Lu trên con đường vào bán kết gặp Tomas Berdych, Djokovic đã thua sau 3 set đấu.

Năm 2011

Mùa giải 2011, Djokovic đã có chuỗi trận 41 trận bất bại (trước khi thua Federer ở bán kết Roland Garros) và lật đổ Rafael Nadal để chiếm ngôi số 1 thế giới. Tay vợt 24 tuổi người Serbia chỉ thua 6 trong 76 trận đấu trong năm, trong đó có 2 trận rút lui do chấn thương. Ngoài 3 chức vô địch Grand Slam (Úc mở rộng, Wimbledon và Mỹ mở rộng), Djokovic còn đoạt thêm 7 danh hiệu đơn khác.

Thành tích chói sáng ấy đã giúp Djokovic vượt qua siêu sao bóng đá Lionel Messi (Argentina) và “ông vua” mới của làng đua công thức 1 Sebastian Vettel (Đức) để đoạt giải thưởng vận động viên (VĐV) nước ngoài xuất sắc nhất năm 2011 của BBC (BBC Overseas Sports Personality of the Year). Đây là lần thứ 6 trong 11 năm qua, một VĐV quần vợt được các biên tập viên thể thao của các tờ báo, tạp chí Anh và khu vực bình chọn cho giải thưởng này.

Djokovic bắt đầu mùa giải 2011 bằng một phong độ ấn tượng khi đánh bại Roger FedererAndy Murray để đăng quang ở Úc mở rộng. Sau đó, tay vợt Serbia có hai lần hạ gục “ông vua sân đất nện” Nadal trên đường đoạt danh hiệu ở Indian Wells và Miami (Mỹ), rồi tiếp tục thống trị mặt sân đất nện ở các giải Rome (Ý) và Madrid (Tây Ban Nha).

Cột mốc đáng nhớ nhất của Djokovic là chiến thắng trước Nadal ở chung kết Wimbledon để lần đầu tiên leo lên vị trí số 1 thế giới. Chấn thương vai sau đó không cho Djokovic được thể hiện nhiều ở giải đấu tại Cincinnati (Mỹ), nhưng tay vợt Serbia vẫn hồi phục kịp thời để nâng cao chiếc cúp Mỹ mở rộng sau khi đánh bại Nadal trong trận chung kết.

Sau Mỹ mở rộng 2011, tay vợt Serbia ẵm trọn các giải thưởng giành cho tay vợt xuất sắc nhất của năm từ ATP và ITF.

Năm 2012

Djokovic bước vào mùa giải mới tại giải Grand Slam đầu tiên trong năm Australian Open. Được xếp là hạt giống số 1 của giải, Djokovic đã liên tiếp đánh bại các đối thủ Paolo Lorenzi, Santiago Giraldo, Nicolas Mahut, Lleyton Hewitt, David Ferrer để tiến vào bán kết gặp Andy Murray. Ở bán kết, Djokovic đã vượt qua Murray sau 4 giờ 50 phút trong 1 trận đấu kéo dài 5 set căng thẳng với các tỉ số 6-3 3-6 6-7 6-1 7-5 để dành quyền vào chung kết gặp Rafael Nadal. Trong trận chung kết, một lần nữa Djokovic đánh bại Nadal lần thứ 3 liên tiếp tại chung kết các giải Grand Slam để dành chức vô địch úc mở rộng thứ 3 và là Grand Slam thứ 5 trong sự nghiệp. Tỉ số các set là 5-7, 6-4, 6-2, 6-7, 7-5 sau 5h53 phút thi đấu. Đây là trận chung kết kéo dài nhất trong lịch sử các kì Grand Slam và là trận đấu dài nhất trong lịch sử Australian Open Djokovic bước vào mùa giải trên mặt sân đất nện với vị trí là hạt giống số 1. Khởi đầu với Monte-Carlo Masters khi vào đến trận chung kết và thua huyền thoại trên mặt san này la Rafael Nadal.

Thành tích

Grand Slam

Vô địch (5)

Năm Giải đấu Đối thủ Tỉ số
2008 Úc Mở rộng {{{alias}}} Jo-Wilfried Tsonga 4–6, 6–4, 6–3, 7–62
2011 Úc Mở rộng {{{alias}}} Andy Murray 6–4, 6–2, 6–3
2011 Wimbledon {{{alias}}} Rafael Nadal 6–3, 6–1, 1-6, 6-4
2011 Mỹ mở rộng {{{alias}}} Rafael Nadal 6–2, 6–4, 6-7, 6-1
2012 Úc Mở rộng {{{alias}}} Rafael Nadal 5-7, 6–4, 6–2, 56-7, 7-5

Á quân (3)

Năm Giải đấu Đối thủ Tỉ số
2007 Mỹ Mở rộng {{{alias}}} Roger Federer 6–74, 6–72, 4–6
2010 Mỹ Mở rộng {{{alias}}} Rafael Nadal 4–6, 7-5, 4–6, 2–6
2012 Pháp Mở rộng {{{alias}}} Rafael Nadal 4-6, 3-6, 6–2, 5–7

Masters Cup

Vô địch (1)

Năm Giải đấu Đối thủ Tỉ số
2008 Masters Cup {{{alias}}} Nikolay Davydenko 6–1, 7–5

ATP Masters Series / ATP World Tour Masters 1000

Vô địch (12)

Năm Giải đấu Đối thủ Tỉ số
2007 Miami {{{alias}}} Guillermo Canas 6–3, 6–2, 6–4
2007 Rogers Cup, Montreal Thụy Sĩ Roger Federer 7–6(2), 2–6, 7–6(2)
2008 Pacific Life Open, Indian Wells, California Hoa Kỳ Mardy Fish 6–2, 5–7, 6–3
2008 Internazionali d'Italia, Roma Thụy Sĩ Stanislas Wawrinka 4–6, 6–3, 6–3
2009 BNP Paris Master Pháp Gael Monfils 6-2,5-7,7-6(3)
2011 Indian Wells Master Tây Ban Nha Rafael Nadal 4-6,6-3,6-2
2011 Miami Master Tây Ban Nha Rafael Nadal 4-6,6-3,7-6(4)
2011 Madrid Master Tây Ban Nha Rafael Nadal 7-5,6-4
2011 Rome Master Tây Ban Nha Rafael Nadal 6-4,6-4
2011 Rogers Cup, Montreal Hoa Kỳ Mardy Fish 6-2, 3-6, 6-4
2012 Miami Master Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Andy Murray 6-1, 7-6(4)
2012 Rogers Cup, Toronto Hoa Kỳ R.Gasquet 6-2, 3-6, 6-4

Á quân (9)

Năm Giải đấu Đối thủ Tỉ số
2007 Indian Wells {{{alias}}} Rafael Nadal 2-6, 5-7
2008 Cincinnati {{{alias}}} Andy Murray 7-64, 7-65
2009 Miami {{{alias}}} Andy Murray 2-6,5-7
2009 Monte Carlo {{{alias}}} Rafael Nadal 3-6,6-2,1-6
2009 Rome Master {{{alias}}} Rafael Nadal 6-7,2-6
2009 Cincinnati {{{alias}}} Roger Federer 1-6,5-7
2011 Cincinnati {{{alias}}} Andy Murray 4-6,0-3
2012 Monte Carlo {{{alias}}} Rafael Nadal 3-6,1-6
2012 Rome Master {{{alias}}} Rafael Nadal 5-7,3-6

Toàn bộ (43)

Vô địch (30)

Tổng kết
Grand Slam (5)
Tennis Masters Cup/ATP World Tour Final (1)
ATP Masters Series (11)
ATP Tour (13)
Số Ngày Giải đấu Mặt sân Đối thủ ở chung kết Tỉ số
1. 23 tháng 7, 2006 Amersfoort, Hà Lan Đất nện {{{alias}}} Nicolás Massú 7-6(5), 6-4
2. 8 tháng 10, 2006 Metz, Pháp Cứng {{{alias}}} Jürgen Melzer 4-6 6-3 6-2
3. 7 tháng 1, 2007 Adelaide, Úc Cứng {{{alias}}} Chris Guccione 6-3, 6-7(6), 6-4
4. 1 tháng 4, 2007 Miami Masters, Hoa Kỳ Cứng {{{alias}}} Guillermo Cañas 6-3, 6-2, 6-4
5. 6 tháng 5, 2007 Estoril, Bồ Đào Nha Đất nện {{{alias}}} Richard Gasquet 7-6, 0-6, 6-1
6. 12 tháng 8, 2007 Montreal Masters, Canada Cứng {{{alias}}} Roger Federer 7-6, 2-6, 7-6
7. tháng 10, 2007 Viên, Áo Cứng {{{alias}}} Stanislas Wawrinka 6-4, 6-0
8. 27 tháng 1, 2008 Australian Open, Úc Cứng {{{alias}}} Jo-Wilfried Tsonga 4-6, 6-4, 6-3, 7-6
9. 23 tháng 3, 2008 Indian Wells, Mỹ Cứng Hoa Kỳ Maddy Fish 6-2, 5-7, 6-3
10. 11 tháng 5, 2008 Master Rome, Ý Đất nện Thụy Sĩ Stanislas Wawrinka 4-6, 6-3, 6-3
11. 16 tháng 11, 2008 Master Cup, Trung Quốc Cứng {{{alias}}} Nicolay Davydenko 6-1, 7-5
12. 28 tháng 2, 2009 Dubai Tennis C., UAE Cứng {{{alias}}} David Ferrer 7-5, 6-3
13. 10 tháng 5, 2009 Serbia Open, Serbia Cứng Ba Lan Lukasz Kubot 6-3, 7-6
14. 5 tháng 10, 2009 China Open, Trung Quốc Cứng Croatia Marin Cilic 6-2, 7-6
15. 8 tháng 11, 2009 Davidoff Swiss Indoors, Thụy Sĩ Cứng Thụy Sĩ Roger Federer 6-4, 4-6, 6-2
16. 15 tháng 11, 2009 BNP Paribas Masters, Pháp Cứng {{{alias}}} Gael Monfils 6-2, 5-7, 7-6
17. 28 tháng 2, 2010 Dubai Tennis C., UAE Cứng {{{alias}}} Mikhail Youzhny 7-5, 5-7, 6-3
18. 10 tháng 10, 2010 Bắc Kinh,Trung Quốc Cứng {{{alias}}} David Ferrer 6–2, 6–4
19. 30 tháng 1, 2011 Australian Open, Úc Cứng {{{alias}}} Andy Murray 6-4, 6-2, 6-3
20. 26 tháng 2, 2011 Dubai, UAE Cứng {{{alias}}} Roger Federer 6–3, 6–3
21. 20 tháng 3, 2011 Indian Wells, Hoa Kỳ Cứng {{{alias}}} Rafael Nadal 4–6, 6–3, 6–2
22. 3 tháng 4, 2011 Miami, Hoa Kỳ Cứng {{{alias}}} Rafael Nadal 4–6, 6–3, 7–6(4)
23. 1 tháng 5, 2011 Belgrade, Serbia Cứng {{{alias}}} Feliciano López 7–6(4), 6–2
24. 8 tháng 5, 2011 Madrid, Tây Ban Nha Đất nện {{{alias}}} Rafael Nadal 7–5, 6–4
25. 15 tháng 5, 2011 Roma, Italia Đất nện {{{alias}}} Rafael Nadal 6–4, 6–4
26. 3 tháng 7, 2011 Wimbledon, Anh Cỏ {{{alias}}} Rafael Nadal 6–4, 6–1, 1–6, 6–3
27. 14 tháng 8, 2011 Montreal, Canada Cứng {{{alias}}} Mady Fish 6–2, 3–6, 6–4
28. 12 tháng 9, 2011 Mỹ Mở rộng, Hoa Kỳ Cứng {{{alias}}} Rafael Nadal 6–2, 6–4, 6–7(3), 6–1
29. 29 tháng 1, 2012 Úc mở rộng, Úc Cứng {{{alias}}} Rafael Nadal 5-7, 6-4, 6-2, (5)6-7, 7-5
30. 1 tháng 4, 2011 Miami, Hoa Kỳ Cứng {{{alias}}} Andy Murray 6–1, 7–6(4)

Á quân đơn (14)

TT Ngày Giải đấu Mặt sân Đối thủ ở vòng chung kết Điểm số
1. 30 tháng 7, 2006 Umag, Croatia Nện {{{alias}}} Stanislas Wawrinka 6–6(1),nghỉ
2. 18 tháng 3, 2006 Indian Wells, Hoa Kỳ Cứng {{{alias}}} Rafael Nadal 2–6, 5–7
3. 9 tháng 9, 2007 Mỹ Mở rộng, New York, Hoa Kỳ Cứng {{{alias}}} Roger Federer 6–7(4), 6–7(2), 4–6
4. 15 tháng 6, 2008 London (Queen's Club), , Anh Cỏ {{{alias}}} Rafael Nadal 6–7(6), 5–7
5. 3 tháng 8, 2008 Cincinnati, Hoa Kỳ Cứng {{{alias}}} Andy Murray 6–7(4), 6–7(5)
6. 28 tháng 9, 2008 Bangkok, Thái Lan Cứng {{{alias}}} Jo-Wilfried Tsonga 6–7(4), 4–6
7. 5 tháng 4, 2009 Miami, Hoa Kỳ Cứng {{{alias}}} Andy Murray 2–6, 5–7
8. 19 tháng 4, 2009 Monte Carlo, Monaco Nện {{{alias}}} Rafael Nadal 3–6, 6–2, 1–6
9. 3 tháng 5, 2009 Roma, Ý Nện {{{alias}}} [Rafael Nadal 6–7(2), 2–6
10. 16 tháng 6, 2009 Halle, Đức Cỏ {{{alias}}} Tommy Haas 3–6, 7–6(4), 1–6
11. 23 tháng 8, 2009 Cincinnati, Hoa Kỳ Cứng {{{alias}}} Roger Federer 1–6, 5–7
12. 12 tháng 9, 2010 Mỹ Mở rộng, New York, Hoa Kỳ Cứng {{{alias}}} Rafael Nadal 4–6, 7–5, 4–6, 2–6
13. 8 tháng 11, 2010 Basel, Thụy Sỹ Cứng (i) {{{alias}}} Roger Federer 4–6, 6-3, 1–6
14. 21 tháng 8, 2011 Cincinnati, Hoa Kỳ Cứng {{{alias}}} Andy Murray 4–6, 0–3 bỏ cuộc
15. 22 tháng 4, 2012 Monte Carlo, Monaco Đất nện {{{alias}}} Rafael Nadal 3–6, 1–6
16. 21 tháng 5, 2012 Rome, Italia Đất nện {{{alias}}} Rafael Nadal 5–7, 3–6
17. 11 tháng 6, 2010 Giải quần vợt Pháp Mở rộng, Paris, Pháp Đất nện {{{alias}}} Rafael Nadal 4–6, 3–6, 6–2, 5–7

Thu nhập từ thi đấu

Năm Grand Slams Vô địch ATP Tổng cộng Thu nhập ($) Xếp hạng tiền thưởng
2003 0 0 0 2.704 937
2004 0 0 0 40.790 292
2005 0 0 0 202.416 114
2006 0 2 2 644.940 28
2007 0 5 5 3.927.700 3
2008 1 2 3 3.136.920 2
2009 0 5 5 5,476,471 3 [2]
2010 0 2 2 4,243,807 3 [3]
2011 3 7 10 12,595,903 1 [4]
2012 (đến 30/01/2012) 1 0 1 2,372,910 1 [5]
Career (đến 30/01/2012) 5 24 29 35,255,670 4

Kỷ lục

  • Mùa giải 2011

- 10 là số danh hiệu mà Djokovic giành được trong mùa, trong đó có 3 danh hiệu Grand Slam (Australian Open, WimbledonUS Open) và cả 5 ngôi vô địch ở các giải Masters 1000 (Indian Wells, Key Biscayne, Madrid Masters, Rome MastersRogers Cup).

- 70 là số trận thắng trong mùa của Djokovic, trong đó, anh từng tạo ra chuỗi 43 trận thắng liên tiếp từ đầu mùa cho đến bán kết Roland Garros (nơi anh bị chặn đứng bởi Federer); Djokovic cũng chỉ thua có 6 trận trong mùa (trong đó có 2 trận thua tại ATP World Tour Finals vào cuối năm - một giải đấu mà anh tham gia "lấy lệ" và nhanh chóng buông vợt khá chóng vánh trước David FerrerJanko Tipsarević). Thành tích này của Djokovic được xác nhận chỉ thua thành tích của John McEnroe trong mùa giải 1984 với 82 trận thắng và 3 trận thua.

- 1 và 13.630 là thứ hạng và điểm số của Djokovic trên bảng điểm xếp hạng của ATP - đây là số điểm kỷ lục đối với một tay vợt từ khi ATP thay đổi hệ số tính điểm vào năm 2009; xếp ngay sau Djokovic lần lượt là NadalFederer với những con số tương ứng lần lượt là 2 và 9.595; 3 và 8.170.

- 12.619.803 là số tiền thưởng (USD) mà Djokovic giành được trong mùa; đây là số tiền thưởng kỷ lục mà một tay vợt thắng được trong mùa giải; kỷ lục của Djokovic đã vượt qua số tiền thưởng 10,1 triệu USD của Nadal (mùa giải 2010) và Federer (mùa giải 2007)[6].

- 6 là số trận toàn thắng trước Nadal ở chung kết các giải đấu trong mùa; Djokovic đã khiến cho Nadal nếm trải thứ cảm giác khó khăn mà anh từng buộc Federer phải chịu đựng trong ngần ấy năm.

Nguồn

Liên kết ngoài


Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt