Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Istanbul”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n cosmetic change, replaced: |thumb| → |nhỏ| (3), |right| → |phải|, |left| → |trái| (2), [[File: → [[Tập tin: (3) using AWB
Dòng 118: Dòng 118:
Istanbul đặc trưng bởi [[khí hậu Địa Trung Hải]] theo [[Phân loại khí hậu Köppen|phân loại mới của Köppen-Geiger]]<ref>{{harvnb|Kottek|Grieser|Beck|Rudolf|2006|p=261}}</ref>.Tuy nhiên, do có diện tích rộng lớn, địa hình đa dạng, và nằm gần biển nên ở Istanbul tồn tại các miền [[vi khí hậu]]. Phần phía bắc của thành phố có [[khí hậu đại dương]] do ảnh hưởng của hơi ẩm từ Biển Đen và mật độ lớp phủ thực vật tương đối cao. Khí hậu trong khu vực đông dân cư ở phía nam thì ấm hơn và ít bị ảnh hưởng của hơi ẩm<ref>{{harvnb|Efe|Cürebal|2011|pp=716–7}}</ref>.
Istanbul đặc trưng bởi [[khí hậu Địa Trung Hải]] theo [[Phân loại khí hậu Köppen|phân loại mới của Köppen-Geiger]]<ref>{{harvnb|Kottek|Grieser|Beck|Rudolf|2006|p=261}}</ref>.Tuy nhiên, do có diện tích rộng lớn, địa hình đa dạng, và nằm gần biển nên ở Istanbul tồn tại các miền [[vi khí hậu]]. Phần phía bắc của thành phố có [[khí hậu đại dương]] do ảnh hưởng của hơi ẩm từ Biển Đen và mật độ lớp phủ thực vật tương đối cao. Khí hậu trong khu vực đông dân cư ở phía nam thì ấm hơn và ít bị ảnh hưởng của hơi ẩm<ref>{{harvnb|Efe|Cürebal|2011|pp=716–7}}</ref>.


Thực vậy, một trong những đặc điểm nổi bật nhất của khí hậu trong nhiều vùng của Istanbul là [[độ ẩm]] liên tục cao, đạt tới 80 phần trăm vào hầu như mọi buổi sáng<ref name="bbc-weather">{{cite web|url=http://www.bbc.co.uk/weather/745044|publisher=BBC Weather Centre|work=World Weather|title=Weather – Istanbul|accessdate=15 October 2012}}</ref>. Do những điều kiện này mà sương mù rất phổ biến, mặc dù dày hơn ở phía bắc chứ không ở trung tâm<ref name="efcu716" />. Hiện tượng sương mù dày đáng chú ý làm ngăn trở giao thông trong khu vực, bao gồm trên eo Bosphorus, xảy ra quanh năm trong các tháng mùa thu và mùa đông, khi độ ẩm vẫn duy trì cao tới buổi chiều <ref>{{cite web|url=http://www.hurriyetdailynews.com/default.aspx?pageid=438&n=istanbul-enshrouded-in-dense-fog-2005-01-14|title=Istanbul Enshrouded in Dense Fog|work=Turkish Daily News|date=14 January 2005|accessdate=15 October 2012}}</ref><ref>{{cite web|url=http://www.todayszaman.com/newsDetail_getNewsById.action;jsessionid=FAB4C1B60E306ABF22F28B59203430B2?pageNo=137&category=&dt=2009&newsId=193715&columnistId=0|work=Today's Zaman|date=23 November 2009|accessdate=15 October 2012|title=Thick Fog Causes Disruption, Flight Delays in İstanbul}}</ref><ref>{{cite web|url=http://www.todayszaman.com/newsDetail_getNewsById.action;jsessionid=86594F6ACB2187D581BA55332977A69F?newsId=226474|work=Today's Zaman|title=Dense Fog Disrupts Life in Istanbul|date=6 November 2010|accessdate=15 October 2012}}</ref>. Điều kiện ẩm ướt và sương mù có xu hướng tiêu tan vào giữa ngày trong các tháng mùa hè, nhưng hơi ẩm còn sót lại có tác động khiến cho thời tiết tương đối nóng nực vào mùa hè thêm phần khó chịu<ref name="bbc-weather" /><ref name="pelit">{{cite web|last=Pelit|first=Attila|url=http://www.timeout.com/istanbul/features/306/when-to-go-to-istanbul|work=TimeOut Istanbul|title=When to Go to Istanbul|accessdate=19 December 2011}}</ref>. Trong mùa hè, nhiệt độ cao dao động quanh 29 °C và không thường xuyên có mưa rào; chỉ có khoảng 15 ngày mưa đo được giữa tháng 6 và tháng 8ref name="tsms-main">{{cite web|url=http://www.dmi.gov.tr/veridegerlendirme/il-ve-ilceler-istatistik.aspx?m=ISTANBUL|title=Resmi İstatistikler (İl ve İlçelerimize Ait İstatistiki Veriler)|trans_title=Official Statistics (Statistical Data of Provinces and Districts) - Istanbul|publisher=Turkish State Meteorological Service|language=Turkish|accessdate=22 September 2012}}</ref>
Thực vậy, một trong những đặc điểm nổi bật nhất của khí hậu trong nhiều vùng của Istanbul là [[độ ẩm]] liên tục cao, đạt tới 80 phần trăm vào hầu như mọi buổi sáng<ref name="bbc-weather">{{cite web|url=http://www.bbc.co.uk/weather/745044|publisher=BBC Weather Centre|work=World Weather|title=Weather – Istanbul|accessdate=15 October 2012}}</ref>. Do những điều kiện này mà sương mù rất phổ biến, mặc dù dày hơn ở phía bắc chứ không ở trung tâm<ref name="efcu716" />. Hiện tượng sương mù dày đáng chú ý làm ngăn trở giao thông trong khu vực, bao gồm trên eo Bosphorus, xảy ra quanh năm trong các tháng mùa thu và mùa đông, khi độ ẩm vẫn duy trì cao tới buổi chiều <ref>{{cite web|url=http://www.hurriyetdailynews.com/default.aspx?pageid=438&n=istanbul-enshrouded-in-dense-fog-2005-01-14|title=Istanbul Enshrouded in Dense Fog|work=Turkish Daily News|date=14 January 2005|accessdate=15 October 2012}}</ref><ref>{{cite web|url=http://www.todayszaman.com/newsDetail_getNewsById.action;jsessionid=FAB4C1B60E306ABF22F28B59203430B2?pageNo=137&category=&dt=2009&newsId=193715&columnistId=0|work=Today's Zaman|date=23 November 2009|accessdate=15 October 2012|title=Thick Fog Causes Disruption, Flight Delays in İstanbul}}</ref><ref>{{cite web|url=http://www.todayszaman.com/newsDetail_getNewsById.action;jsessionid=86594F6ACB2187D581BA55332977A69F?newsId=226474|work=Today's Zaman|title=Dense Fog Disrupts Life in Istanbul|date=6 November 2010|accessdate=15 October 2012}}</ref>. Điều kiện ẩm ướt và sương mù có xu hướng tiêu tan vào giữa ngày trong các tháng mùa hè, nhưng hơi ẩm còn sót lại có tác động khiến cho thời tiết tương đối nóng nực vào mùa hè thêm phần khó chịu<ref name="bbc-weather" /><ref name="pelit">{{cite web|last=Pelit|first=Attila|url=http://www.timeout.com/istanbul/features/306/when-to-go-to-istanbul|work=TimeOut Istanbul|title=When to Go to Istanbul|accessdate=19 December 2011}}</ref>. Trong mùa hè, nhiệt độ cao nhất dao động quanh 29 °C và không thường xuyên có mưa rào; chỉ có khoảng 15 ngày mưa đo được giữa tháng 6 và tháng 8<ref name="tsms-main">{{cite web|url=http://www.dmi.gov.tr/veridegerlendirme/il-ve-ilceler-istatistik.aspx?m=ISTANBUL|title=Resmi İstatistikler (İl ve İlçelerimize Ait İstatistiki Veriler)|trans_title=Official Statistics (Statistical Data of Provinces and Districts) - Istanbul|publisher=Turkish State Meteorological Service|language=Turkish|accessdate=22 September 2012}}</ref>.


Mùa đông Istanbul lạnh hơn hầu hết các thành phố khác trong miền Địa Trung Hải, với nhiệt độ xuống thấp nhất trung bình 4-5°C<ref name="tsms-main" />. Tuyết do hiệu ứng hồ (gió lạnh cuốn hơi ấm trên mặt nước tạo tuyết ở bờ dưới gió) từ Biển Đen xuất hiện thường xuyên, nhưng khó dự đoán, với nguy cơ dày- cùng với sương mù - gây thiệt hại cho cơ sở hạ tầng của thành phố<ref>{{cite journal|last=Kindap|first=Tayfin|title=A Severe Sea-Effect Snow Episode Over the City of Istanbul|journal=Natural Hazards|volume=54|issue=3|year=2010|date=19 January 2010|pages=703–23|url=http://www.springerlink.com/content/cu66841r30p20v72/|accessdate=15 October 2012|issn=1573-0840|ref=harv}}</ref>. Mùa xuân và thu có thời tiết khá êm dịu, nhưng thường ẩm ướt và khó lường; gió lạnh từ phía tây bắc và những cơn gió ấm từ phía nam đôi khi xuất hiện trong cùng một ngày - có xu hướng gây nên sự dao động nhiệt độ<ref name="pelit" /><ref>{{cite web|url=http://www.hurriyetdailynews.com/default.aspx?pageid=438&n=istanbul-winds-2009-10-15|work=Turkish Daily News|title=Istanbul Winds Battle Over the City|date=17 October 2009|accessdate=15 October 2012}}</ref>. Nhìn chung, hàng năm Istanbul có trung bình khoảng 115 ngày mưa đáng kể, với lượng mưa 852 mm mỗi năm<ref name="tsms-main" /><ref name="tsms-rain">{{cite web|url=http://www.dmi.gov.tr/veridegerlendirme/yillik-toplam-yagis-verileri.aspx?m=istanbul |title=Yıllık Toplam Yağış Verileri|language=Turkish|trans_title=Annual Total Participation Data: Istanbul, Turkey|publisher=Turkish State Meteorological Service|accessdate=6 July 2012}}</ref>. Nhiệt độ cao nhất và thấp nhất từng ghi nhận được trong thành phố là 40,5°C và -16,1°C. Lượng mưa cao nhất trong ngày được ghi nhận là 227mm, trong khi lớp tuyết phủ dày nhất là 80cm<ref>{{chú thích web|url=http://www.dmi.gov.tr/files/kurumsal/ekitap/4mevsim2/s5152.pdf |title=İstanbul Bölge Müdürlüğü'ne Bağlı İstasyonlarda Ölçülen Ekstrem Değerler|language=Turkish|trans_title=Extreme Values Measured in Istanbul Regional Directorate|publisher=Turkish State Meteorological Service |accessdate=27 July 2010}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://journals.ametsoc.org/doi/abs/10.1175/1520-0493(1998)126%3C3036%3AMCBOTE%3E2.0.CO%3B2 |title=March 1987 Cyclone (Blizzard) over the Eastern Mediterranean and Balkan Region Associated with Blocking |publisher=American Meteorological Society |accessdate=27 July 2010}}</ref>.
Tuyết rơi có xu hướng mạnh nhưng lớp phủ tuyết và nhiệt độ dưới điểm đông hiếm khi tồn tại hơn vài ngày. Mùa xuân và thu có thời tiết mát mẽ, nhưng thường ẩm ướt và khó dự báo; gió lạnh từ phía bắc và thỉnh thoảng có những cơn gió ấm từ phía nam xuất hiện trong cùng một ngày có xu hướng gây nên sự dao động nhiệt độ.<ref>{{chú thích web|last=Pelit|first=Attila|url=http://www.timeout.com/istanbul/features/306/when-to-go-to-istanbul|work=TimeOut Istanbul|title=When to Go to Istanbul|accessdate=19 December 2011}}</ref>


{{Weather box
[[Giông]] không phổ biến chỉ khoảng 23 ngày trong năm, xuất hiện thường xuyên trong các thàng mùa đầu thu.<ref name="wbase" /> Istanbul có trung bình 124 ngày mưa đáng kể trong năm với tổng lượng mưa {{convert|855|mm|in|1|sp=us}}.<ref name="tsms-rain">{{chú thích web|url=http://www.dmi.gov.tr/veridegerlendirme/yillik-toplam-yagis-verileri.aspx?m=istanbul |title=Yıllık Toplam Yağış Verileri|language=Turkish|trans_title=Annual Total Participation Data: Istanbul, Turkey|publisher=Turkish State Meteorological Service|accessdate=6 July 2012}}</ref> Nhiệt độ cao nhất và thấp nhất từng ghi nhận được trong thành phố là {{convert|40,5|°C|0}}{{convert|-16,1|°C|0}}. Lượng mưa cao nhất trong ngày được ghi nhận là {{convert|227|mm|in|sp=us}}, trong khi lớp tuyết phủ dày nhất là {{convert|80|cm|in|sp=us}}.<ref>{{chú thích web|url=http://www.dmi.gov.tr/files/kurumsal/ekitap/4mevsim2/s5152.pdf |title=İstanbul Bölge Müdürlüğü'ne Bağlı İstasyonlarda Ölçülen Ekstrem Değerler|language=Turkish|trans_title=Extreme Values Measured in Istanbul Regional Directorate|publisher=Turkish State Meteorological Service |accessdate=27 July 2010}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://journals.ametsoc.org/doi/abs/10.1175/1520-0493(1998)126%3C3036%3AMCBOTE%3E2.0.CO%3B2 |title=March 1987 Cyclone (Blizzard) over the Eastern Mediterranean and Balkan Region Associated with Blocking |publisher=American Meteorological Society |accessdate=27 July 2010}}</ref>
| location = Istanbul (1970–2011)

| metric first = yes
{{Infobox Weather
|metric_first=yes
| single line = yes
| Jan high C = 9.3
|single_line=yes
| Feb high C = 9.7
|location=Istanbul {{TUR}}
|Jan_Hi_°C = 8.7
| Mar high C = 12.1
|Feb_Hi_°C = 9.1
| Apr high C = 17.0
|Mar_Hi_°C = 11.2
| May high C = 22.1
|Apr_Hi_°C = 16.5
| Jun high C = 26.9
|May_Hi_°C = 21.4
| Jul high C = 29.4
|Jun_Hi_°C = 26.0
| Aug high C = 29.2
|Jul_Hi_°C = 28.4
| Sep high C = 25.5
|Aug_Hi_°C = 28.5
| Oct high C = 20.2
|Sep_Hi_°C = 25.0
| Nov high C = 15.2
|Oct_Hi_°C = 20.1
| Dec high C = 11.2
| year high C =
|Nov_Hi_°C = 15.3
|Dec_Hi_°C = 11.1
| Jan low C = 4.2
|Year_Hi_°C = 18.8
| Feb low C = 4.0
|Jan_Lo_°C = 2.9
| Mar low C = 5.5
|Feb_Lo_°C = 2.8
| Apr low C = 9.3
|Mar_Lo_°C = 3.9
| May low C = 13.5
|Apr_Lo_°C = 7.7
| Jun low C = 18.0
|May_Lo_°C = 12.0
| Jul low C = 20.4
|Jun_Lo_°C = 16.0
| Aug low C = 20.5
|Jul_Lo_°C = 18.5
| Sep low C = 17.4
|Aug_Lo_°C = 18.7
| Oct low C = 13.6
|Sep_Lo_°C = 15.5
| Nov low C = 9.3
|Oct_Lo_°C = 12.0
| Dec low C = 6.2
|Nov_Lo_°C = 8.5
| year low C =
| precipitation colour = green
|Dec_Lo_°C = 5.3
| Jan precipitation mm = 100.9
|Year_Lo_°C = 10.5
| Feb precipitation mm = 80.9
|Jan_Precip_days = 17.7
| Mar precipitation mm = 69.6
|Feb_Precip_days = 15.3
| Apr precipitation mm = 45.4
|Mar_Precip_days = 13.6
| May precipitation mm = 35.5
|Apr_Precip_days = 10.3
| Jun precipitation mm = 37.5
|May_Precip_days = 7.8
| Jul precipitation mm = 39.0
|Jun_Precip_days = 5.3
| Aug precipitation mm = 46.3
|Jul_Precip_days = 3.6
| Sep precipitation mm = 62.9
|Aug_Precip_days = 4.0
| Oct precipitation mm = 100.7
|Sep_Precip_days = 6.1
| Nov precipitation mm = 108.6
|Oct_Precip_days = 10.3
| Dec precipitation mm = 124.7
|Nov_Precip_days = 12.9
| year precipitation mm =
|Dec_Precip_days = 16.9
| Jan precipitation days = 15.6
|Year_Precip_days = 123.8
| Feb precipitation days = 14.2
|Jan_Precip_mm = 98.4
| Mar precipitation days = 11.8
|Feb_Precip_mm = 80.2
| Apr precipitation days = 10.7
|Mar_Precip_mm = 69.9
| May precipitation days = 7.3
|Apr_Precip_mm = 45.8
| Jun precipitation days = 5.4
|May_Precip_mm = 36.1
| Jul precipitation days = 3.7
|Jun_Precip_mm = 34.0
| Aug precipitation days = 4.0
|Jul_Precip_mm = 38.8
| Sep precipitation days = 5.6
|Aug_Precip_mm = 47.8
| Oct precipitation days = 10.2
|Sep_Precip_mm = 61.4
| Nov precipitation days = 11.2
|Oct_Precip_mm = 96.9
| Dec precipitation days = 15.4
|Nov_Precip_mm = 110.7
| year precipitation days =
|Dec_Precip_mm = 123.9
| unit precipitation days = 0.1 mm
|Year_Precip_mm = 843.9
| Jan sun= 68.2
|source = [[Tổ chức Khí tượng Thế giới]]<ref name="WMO" /> và [[Cơ quan Khí tượng Thổ Nhĩ Kỳ]]<ref name="Meteor.gov.tr" />
| Feb sun= 87.6
|accessdate =29 tháng 6, 2010}}
| Mar sun= 133.3
| Apr sun= 180.0
| May sun= 251.1
| Jun sun= 285.0
| Jul sun= 319.3
| Aug sun= 288.3
| Sep sun= 228.0
| Oct sun= 158.1
| Nov sun= 99.0
| Dec sun= 68.2
| source 1 = Cục Khí tượng Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ<ref name="tsms-main" /><ref name="tsms-rain" /> (tất cả trừ dữ liệu về mưa 1970–20110)}}


== Cảnh quan ==
== Cảnh quan ==

Phiên bản lúc 16:41, ngày 26 tháng 12 năm 2012

Istanbul
İstanbul
—  đô thị  —
See caption
Từ trên xuống theo chiều kim đồng hồ: Sừng Vàng nằm giữa khu Galata và mũi Sarayburnu; quận tài chính Maslak; Đại lộ İstiklal; Nhà ga Haydarpaşa; và Thánh đường Sultan Ahmed
Vị trí của Istanbul
Istanbul trên bản đồ Thổ Nhĩ Kỳ
Istanbul
Istanbul
Vị trí của Istanbul trên bản đồ Thổ Nhĩ Kỳ
Tọa độ: 41°00′49″B 28°57′18″Đ / 41,01361°B 28,955°Đ / 41.01361; 28.95500
Quốc giaThổ Nhĩ Kỳ
VùngMarmara
TỉnhIstanbul
 - Byzantiumkhoảng 660 tr.CN[a]
 - Constantinople330 s.CN
 - Istanbul1930 (chính thức)[b]
Quận39 (danh sách)
Chính quyền
 • Thị trưởngKadir Topbaş (AKP)
Diện tích
 • Vùng đô thị[c]5.343 km2 (2,063 mi2)
Dân số (2011)[2]
 • đô thị13,483,052
 • Mật độ2.523/km2 (6,530/mi2)
Múi giờEET (UTC+2)
 • Mùa hè (DST)EEST (UTC+3)
Mã bưu chính34000 tới 34850
Mã điện thoại(+90) 212 (phía châu Âu)
(+90) 216 (phía châu Á)
Thành phố kết nghĩaRio de Janeiro, Shimonoseki, Lahore, Johor Bahru, Jeddah, Cairo, Houston, Berlin, Sankt-Peterburg, Rabat, Mary, Turkmenistan, Barcelona, Dubai, Köln, Thượng Hải, Odessa, Amman, Sarajevo, Durrës, Almaty, Osh, Plovdiv, Constanța, Khartoum, Kazan, Skopje, Damas, Jakarta, Venezia, Busan, Băng Cốc, Beirut, Tabriz, Thành phố México, Tunis, Quảng Châu, Giza, Benghazi, N'Djamena, Tbilisi, Nicosia sửa dữ liệu
Trang webChính quyền Thành phố Istanbul

Istanbul (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: İstanbul là thành phố lớn nhất, đồng thời là trái tim kinh tế, văn hóa và lịch sử của Thổ Nhĩ Kỳ. Với dân số 13,5 triệu người, nó được xem là vùng đô thị lớn nhất châu Âu[d] và xếp vào một trong những thành phố đông dân nhất thế giới xét về dân cư trong giới hạn thành phố[2][3]. Diện tích của thành phố là 5343 km2, đây cũng là khuôn khổ của tỉnh Istanbul mà nó là thủ phủ[c]. Istanbul là một thành phố liên lục địa, bắc ngang qua eo biển Bosphorus - một trong những tuyến đường biển nhộn nhịp nhất thế giới - ở tây bắc Thổ Nhĩ Kỳ, nằm giữa Biển MarmaraBiển Đen. Trung tâm lịch sử và thương mại của nó nằm ở châu Âu, và chỉ có một phần ba dân số cư trú ở phần châu Á[4].

Kiến lập trên mũi đất Sarayburnu khoảng năm 660 trước Công nguyên với tên gọi Byzantium, thành phố mà nay được gọi là Istanbul đã phát triển trở thành một trong những đô thành huy hoàng nhất trong lịch sử. Trong gần mười sáu thế kỉ sau sự tái thiết thành Constantinople năm 330 sau Công nguyên, nó đã là kinh đô của bốn đế chế: Đế quốc La Mã (330-395); Đế quốc Byzantine (395-1204 và 1261-1453), Đế quốc Latin (1204-1261) và Đế quốc Ottoman (1453-1922)[5]. Nó đã đóng vai trò quan trọng trong sự lớn mạnh của Cơ đốc giáo dưới các thời đại La Mã và Byzantine, trước khi người Ottoman chinh phục vào năm 1453 và biến nó thành một pháo đài Hồi giáo và nơi trị vì của triều đại khalip cuối cùng[6]. Mặc dù Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ đã đặt Ankara làm thủ đô của mình, ngày nay những cung điện và thánh đường vẫn ngự trên các ngọn đồi của Istanbul như sự nhắc nhở còn hiện hữu về vai trò trung tâm trước đây của thành phố.

Vị trí chiến lược của Istanbul nằm trên Con đường tơ lụa, các mạng lưới đường sắt tới châu Âu và Trung Đông, và tuyến hải lộ duy nhất giữa Biển Đen và Địa Trung Hải đã giúp nuôi dưỡng một dân chúng chiết trung, mặc dầu ít nhiều suy giảm kể từ khi nền Cộng hòa thiết lập năm 1923. Bị coi nhẹ bởi không còn là thủ đô trong thời kì giữa hai cuộc Thế chiến, thành phố về sau đã dần lấy lại phần lớn vị thế của nó. Dân số thành phố đã tăng mười lân kể từ những năm 1950, phần lớn do người nhập cư vượt qua miền Anatolia tập trung lại siêu đô thị này và quy mô thành phố mở rộng ra để dành cho họ[7][8]. Các lễ hội nghệ thuật được lập ra vào cuối thế kỷ 20, trong khi sự cải thiện cơ sở hạ tầng tạo nên một mạng lưới giao thông dày đặc.

Bảy triệu du khách nước ngoài đến Istanbul năm 2010, khi nó nhận danh hiệu Thủ đô Văn hóa châu Âu, làm cho thành phố này trở thành điểm đến du lịch thu hút khách nhiều thứ mười trên thế giới[9]. Sức hút lớn nhất của thành phố nằm ở khu phố lịch sử của nó, được UNESCO xếp hạng là Di sản thế giới, tuy nhiên trung tâm văn hóa và giải trí của nó nằm vắt qua cảng tự nhiên của thành phố, Sừng Vàng, ở quận Beyoğlu. Được xem là một thành phố toàn cầu[10], Istanbul là nơi đóng trụ sở của rất nhiều công ti và cơ quan truyền thông Thổ Nhĩ Kỳ, và chiếm hơn một phần tư tổng sản phẩm nội địa của đất nước này[11]. Hy vọng tận dụng sự hồi sinh và mở rộng nhanh chóng của mình, Istanbul hiện đang tích cực chạy đua giành quyền đăng cai Thế vận hội Mùa hè 2020[12].

Nguồn gốc tên gọi

Tên đầu tiên được biết tới của thành phố là Byzantium ((tiếng Hy Lạp: Βυζάντιον, Byzántion), bắt nguồn từ tên một vị vua, Byzas, người trị vì thuộc địa thành lập nơi đây từ khoảng 660 năm trước Công nguyên[a][1]. Sau khi Constantinus Đại đế đặt nó làm đế đô phương đông của Đế quốc La Mã năm 330 sau Công nguyên, thành phố được biết đến rộng rãi dưới tên Constantinopolis hay Constantinople, dạng latin hóa của "Κωνσταντινούπολις" ((Kōnstantinoúpolis), nghĩa là thành phố của Constantinus[1]. Bản thân vị hoàng đế này cũng đề xướng tên gọi Nea Roma ("Rome Mới"), nhưng không được sử dụng rộng rãi[17]. Tên Constantinople duy trì là tên gọi phổ biến nhất của thành phố ở phương Tây cho đến khi ra đời Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, và từ tương ứng trong tiếng Thổ Ottoman, Kostantiniyye ([قسطنطينيه] lỗi: {{lang}}: mã ngôn ngữ không rõ: osm (trợ giúp)) là tên chính mà người Ottoman sử dụng trong thời cai trị của mình. Tuy nhiên, hiện nay người Thổ Nhĩ Kỳ coi việc dùng từ Constantinople để nhắc tới thành phố trong thời kỳ Ottoman (từ giữa thế kỉ 15) là sai về mặt chính trị, nếu không nói là sai về mặt lịch sử[18].

Tới thế kỉ 19, thành phố này đã được người ngoại quốc hoặc người Thổ gọi bằng nhiều tên khác nhau. Người châu Âu dùng từ Constantinople để nói tới toàn thành phố, nhưng dùng tên Stamboul - và người Thổ cũng làm vậy - để mô tả vùng bán đảo có tường thành bao bọc giữa Sừng Vàng và biển Marmara[18]. Pera (từ tiếng Hy Lạp, nghĩa là "bắc ngang qua") dùng để miêu tả khu vực giữa Sừng Vàng và biển Bosphorus, nhưng người Thổ lại gọi nó bằng tên Beyoğlu cho tới tận ngày nay[19]. Islambol (nghĩa là "thành phố Hồi giáo" hay "toàn Hồi giáo") đôi khi được dùng một cách thông tục để chỉ thành phố, và thậm chí được khắc trên một số đồng xu Ottoman[20] nhưng niềm tin rằng nó là tiền thân của tên hiện tại, Istanbul bị chứng tỏ là sai bởi thực tế là tên Istanbul đã tồn tại trước tên kia và thậm chí trước cả khi người Ottoman và Hồi giáo xâm lược thành phố[1].

Về mặt từ nguyên, tên İstanbul (isˈtanbuɫ, hay thông tục là ɯsˈtambuɫ) bắt nguồn từ cụm từ tiếng Hy Lạp Trung Cổ "εἰς τὴν Πόλιν" (is tin ˈpolin), có nghĩa là "trong thành phố" hoặc "tới thành phố". Điều này phản ánh vị thế của nó như là thành phố lớn duy nhất trong vùng xung quanh, giống như cách mà người ta ngày nay vẫn thường gọi một cách thông tục trung tâm đô thị ở gần họ là "Thành phố" (mà không cần nhắc tới tên). Một quan điểm khác là tên này nảy sinh trực tiếp từ tên Constantinople với các âm tiết đầu và âm tiết thứ ba bị lược đi[1]. Trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại, tên này được viết là İstanbul, có một chữ İ chấm trên, do bảng chữ cái Thổ Nhĩ Kỳ phân biệt chữ I có chấm và không chấm. Ngoài, trong khi một số tiếng châu Âu khác như tiếng Anh trọng âm rơi vào âm tiết đầu (Is), trong tiếng Thổ nó nằm ở âm tiết thứ nhì (tan)[21]. İstanbul được thừa nhân là tên gọi duy nhất của thành phố vào năm 1930[22][23]. Một người từ thành phố này trong tiếng Thổ gọi là İstanbullu (số nhiều: İstanbullular), còn trong tiếng Anh là Istanbulite[24].

Lịch sử

Di tích của một cột phong cách Byzantine tìm thấy ở vệ thành của Byzantium xưa kia, ngày nay nằm trong khuôn viên tổ hợp kiến trúc Cung điện Topkapı.

Các vật tạo tác thời Đá mới, có niên đại thiên niên kỉ thứ 7 trước Công nguyên và được khai quật bởi các nhà khảo cổ vào đầu thế kỉ 21 đã chỉ ra rằng bán đảo lịch sử Istanbul đã từng được khai phá sớm hơn so với trước đây người ta tưởng và thậm chí trước cả khi eo Bosphorus hình thành[25]. Trước khám phá này, hiểu biết thông thường cho rằng các bộ lạc người Thrace, bao gồm người Phrygia, bắt đầu định cư ở Sarayburnu vào cuối thiên niên kỉ thứ 6 trước CN[16]. Ở bờ châu Á, các vật tạo tác bắt nguồn từ khoảng thiên niên kỉ thứ 4 trước CN đã tìm thấy ở Fikirtepe (thuộc quận Kadıköy)[26]. Nơi này cũng từng là địa điểm của một trạm buôn bán của người Phoenicia ở đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước CN cũng như thị trấn Chalcedon thành lập vào khoảng năm 680 tr.CN[a].

Tuy nhiên, lịch sử của Istanbul thông thường được ghi nhận từ khoảng 660 tr.CN[a], khi những người dân di thực từ Megara, dưới sự chỉ huy của Vua Byzas, lập nên thuộc địa Byzantium ở bờ châu Âu của eo Bosphorus. Họ đã xây một vệ thành gần kề Sừng Vàng ở vị trí nơi người Thrace khai phá trước kia, nhen nhóm cho nền kinh tế mới nảy nở của thành phố[27]. Đô thị này đã trải qua một thời kì ngắn dưới nền cai trị của Ba Tư cuối thế kỉ 5 trước CN, nhưng người Hy Lạp đã sớm chiếm lại nó trong Chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư[28]. Byzantium tiếp tục tham gia vào Liên minh Athena và sau đó là Liên bang Athena lần thứ hai, trước khi giành được độc lập hoàn toàn vào năm 355 tr.CN[29]. Sau một thời gian dài kết đồng minh với người La Mã, Byzantium chính thức trở thành một phần của Đế quốc La Mã vào năm 73 sau Công nguyên[30].

Quyết định của Byzantium về phe với người thoán ngôi Pescennius Niger chống lại Hoàng đế La Mã Septimius Severus đã khiến nó phải trả một giá rất đắt; khi nó đầu hàng vào năm 195, hai năm vây hãm đã làm cho thành phố trở nên đổ nát[31]. Tuy vậy, năm năm sau, Severus bắt đầu tái dựng Byzantium, và thành phố đã giành lại - và theo một số ghi chép còn vượt hơn - sự thịnh vượng trước kia của nó[32].

Sự hưng thịnh và suy vong của Constantinople

Constantinus Đại đế thành công trong việc giành ngôi hoàng đế của toàn Đế quốc La Mã vào tháng 9 năm 324[33]. Hai tháng sau, Constantinus triển khai những kế hoạch về một thành phố mới, theo Cơ đốc giáo để thay cho Byzantium. Là đế đô phương đông của đế quốc, nó được đặt tên là Nea Roma ("Roma mới"); tuy nhiên, thường được gọi đơn giản là Constantinople, một cái tên tồn tại tới thế kỉ 20[34]. Sáu năm sau, vào ngày 11 tháng 5 năm 330, Constantinople trở thành kinh đô của một đế quốc mà về sau được biết đến với tên Đế quốc Byzantine hay Đế quốc Đông La Mã[35].

Được tạo ra năm 1422 bởi Cristoforo Buondelmonti, đây là bản đồ Constantinople cổ nhất còn tồn tại.

Việc xây dựng thành Constantinople được cho là một trong những thành tựu tồn tại vững bền nhất của Constantinus, làm dịch chuyển trọng tâm quyền lực của La Mã về phía đông khi thành phố này trở thành trung tâm của văn hóa Hy Lạp và của đạo Cơ đốc[35][36]. Nhiều nhà thờ đã được xây dựng ở thành phố này, bao gồm Hagia Sophia - từng là nhà thờ Cơ đốc giáo lớn nhất thế giới trong hơn một ngàn năm[37]. Những đổi thay chủ chốt khác dưới thời Constantinus còn bao gồm sự cách tân và mở rộng Trường đua xe ngựa Constantinople; cho phép hàng vạn khán giả tham dự, trường đua này đã trở thành trung tâm trong đời sống công cộng cũng như, trong các thế kỷ 5 và 6, tâm chấn của các cuộc bạo động, bao gồm Vụ bạo loạn Nika[38][39]. Nơi xây dựng Constantinople cũng đảm bảo sự tồn tại của nó đứng vững trước những thử thách của thời gian; trong nhiều thế kỉ, những bức tường thành và đê biển của nó đã bảo vệ châu Âu khỏi những đạo quân xâm lược từ phương Đông và sự trỗi dậy của Hồi giáo[36]. Trong hầu hết thời Trung Cổ tức nửa sau của kỷ nguyên Byzantine, Constantinople từng là thành phố lớn nhất và giàu có nhất trên lục địa châu Âu và có những thời kỳ là đô thành lớn nhất thế giới[40][41].

Constantinople bắt đầu suy yếu sau cuộc Thập tự chinh thứ tư, trong đó nó đã bị cướp bóc và đốt phá[42]. Thành phố sau đó trở thành trung tâm của Đế quốc Latin do quân đội thập tự chinh theo Công giáo lập nên để thay thế cho Đế quốc Byzantine Chính thống giáo[43]. Tuy nhiên, Đế quốc Latin chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn ngủi, và Đế quốc Byzantine được phục hồi vào năm 1261, nhưng đã suy yếu nhiều[44]. Các giáo đường, công sự, và các dịch vụ cơ bản trong tình trạng không được tu sửa[45] và dân số của nó tụt xuống còn một trăm ngàn từ con số nửa triệu ở thế kỉ 8[e].

Hoàng đế Andronikos II Palaiologos lên ngôi năm 1282 đã ban hành nhiều chính sách kinh tế và quân sự sai lầm, như giảm bớt lực lượng quân đội, càng làm đế chế suy yếu đi, mất khả năng kháng cự xâm lược[46]. Vào giữa thế kỉ 14, người Thổ Ottoman bắt đầu một chiến lược chiếm đóng những thành phố, thị trấn nhỏ hơn dần dần, cắt đứt các tuyến đường cung yếu cho Constantinople và bóp nghẹt nó một cách chậm rãi[47]. Cuối cùng, vào ngày 29 tháng 5 năm 1453, sau một cuộc bao vây dài chín tuần (trong đó Hoàng đế La Mã cuối cùng, Constantine XI Palaiologos bị giết), Sultan Mehmed II "Nhà chinh phục" đã chiếm được Constantinople và tuyên bố nó là kinh đô mới của Đế quốc Ottoman. Ít giờ sau đó, vị sultan cưỡi ngựa tới Hagia Sophia và triệu tập một thầy tế (imam) để tuyên cáo tín ngưỡng Hồi giáo, hoán cải nhà thờ Thiên Chúa vĩ đại này thành một thánh đường Hồi giáo của đế quốc[48].

Kỷ nguyên Ottoman và Thổ Nhĩ Kỳ

Thánh đường Hồi giáo Süleymaniye là một trong số những thánh đường ở Istanbul do Mimar Sinan thiết kế.

Sau khi Constantinople thất thủ, Mehmed II ngay lập tức tiến hành phục sinh thành phố, mà từ đó thường được gọi với tên Istanbul. Ông khuyến khích những người dân chạy nạn trong cuộc vây hãm trở về, và cưỡng bức tái định cư những người Hồi giáo, Do Thái và Thiên Chúa giáo từ những miền khác của Anatolia. Vị sultan này mời gọi cư dân từ khắp châu Âu tới kinh đô của ông, tạo nên một xã hội toàn cầu tồn tại trong phần lớn thời kỳ Ottoman[49]. Trong khi đó, Mehmed II đã cho sửa chữa cơ sở hạ tầng bị hư hại của thành phố, bắt đầu xây Kapali Carsi (Chợ Lớn) và Cung điện Topkapı, dinh cơ chính thức của hoàng gia[50].

Người Ottoman đã nhanh chóng hoán cải thành phố từ một thành lũy Cơ đốc giáo trở thành một biểu tược của văn hóa Hồi giáo. Các quỹ tôn giáo được thành lập để quyên tiền cho việc xây cất các thánh đường Hồi giáo vĩ đại, thường nằm tiếp giáp với các trường học, bệnh viện và nhà tắm công cộng[50]. Triều đại Ottoman tuyên bố là một triều đại khalip vào năm 1517, với Istanbul là kinh đô của triều đại khalip cuối cùng trong lịch sử này hơn bốn thế kỉ sau đó[6]. Thời kỳ chấp chính của Suleiman Đại đế từ 1520 tới 1566 là đỉnh cao của nhà nước Ottoman, đồng thời là kỷ nguyên hoàng kim của các thành tựu nghệ thuật và kiến trúc vĩ đại; kiến trúc sư trưởng Mimar Sinan đã thiết kế một loạt những công trình có tính biểu tượng của thành phố, trong khi nghệ thuật làm gốm, thư pháp và tranh tiểu họa nở rộ[51]. Dân số của Istanbul tiếp tục tăng, lên tới 570 nghìn người vào cuối thế kỉ 18[52].

Một thời kì hỗn loạn đầu thế kỉ 19 đã dẫn tới sự xuất hiện của vị Sultan tiến bộ Mahmud II và sau đó là thời kỳ Tanzimat với một loạt các cải cách chính trị và đưa những công nghệ mới vào thành phố. Các cây cầu bắc qua Sừng Vàng được xây dựng chính trong thời kỳ này[53], và Istanbul được kết nối với mạng lưới đường sắt châu Âu vào những năm 1880[54]. Các dịch vụ hiện đại, như hệ thống nước ổn định, điện lưới, điện thoại rồi xe điện lần lượt xuất hiện ở Istanbul trong những thập kỉ sau đó, mặc dù muộn hơn so với một số thành phố châu Âu khác[55]. Dù vậy, những nỗ lực hiện đại hóa đã không đủ để đẩy lùi sự suy tàn của Đế chế Ottoman.

Đầu thế kỷ 20, cuộc Cách mạng Thổ Nhĩ Kỳ Trẻ (1908) đã loại bỏ Sultan Abdul Hamid II và một loạt các cuộc chiến tranh sau đó đã gieo tai họa cho thủ đô của một đế quốc kiệt quệ[56]. Cuộc chiến cuối cùng trong số đó, Thế chiến thứ nhất, đã dấn đến việc quân đội Anh, Pháp, Ý chiếm đóng Istanbul (1918-1923). Vị Sultan cuối cùng, Mehmed VI, bị lưu đày vào tháng 11 năm 1922; năm kế đó, Hiệp ước Lausanne đã chấm dứt sự chiếm đóng và thừa nhận nhà nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, do Mustafa Kemal Atatürk sáng lập[57].

Trong những năm đầu của nền cộng hòa, mối quan tâm của chính quyền cho Istanbul được chuyển sang Ankara, thành phố được chọn làm thủ đô mới để tách đất nước thế tục mới khỏi quá khứ Ottoman của nó[58]. Tuy nhiên, bắt đầu từ cuối thập niên 1940 và đầu 1950, Istanbul đã trải qua những biến đổi vĩ đại về cấu trúc đô thị, như những quảng trường công cộng, đại lộ mới được xây dựng khắp thành phố, đôi khi làm tổn hại tới các công trình lịch sử[59]. Dân số Istanbul bắt đầu tăng nhanh trong những năm 1970, khi người dân từ Anatolia di cứ tới thành phố để kiếm việc làm trong nhiều nhà máy mới xây dựng ở vùng ngoại ô của một thành phố đang vươn lên. Sự nhảy vọt đột ngột về dân cư gây nên một nhu cầu lớn về phát triển nhà ở, và nhiều ngôi làng và khu rừng hẻo lánh trước kia đã sáp nhập vào khu vực đô thị Istanbul[60].

Địa lý

Vị trí

Ảnh vệ tinh Istanbul và Bosporus

Istanbul bao nằm ở tây bắc Thổ Nhĩ Kỳ với trong vùng Marmara với tổng diện tích 5343 km2[c]. Eo Bosphorus kết nối Biển Marmara với Biển Đen chia thành phố làm hai nửa, một thuộc miền Thrace thuộc châu Âu và là trung tâm văn hóa và lịch sử, và một nửa thuộc miền Anatolia thuộc châu Á. Thành phố cũng chia cắt theo Sừng Vàng, một cảng tự nhiên bao bọc bán đảo nơi các đô thị Byzantium và Constantinople xưa kia được thành lập. Nơi gặp nhau của Biển Marmara, Bosphorus và Sừng Vàng ở trung tâm của Istanbul ngày nay đã đẩy lui các đạo quân xâm lược trong hàng ngàn năm và ngày nay vẫn là một nét nổi bật của cảnh quan thành phố[36].

Các đứt gãy ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ tập trung ở đúng phía tây nam của Istanbul, chạy ngầm dưới biển Marmara và Biển Aegea.

Phỏng theo mô hình của Rome, bán đảo lịch sử được cho là dựng trên bảy ngọn đồi, mỗi ngọn có một thánh đường ngự trên đỉnh. Ngọn đồi vươn xa về phía đông nhất là vị trí của Cung điện Topkapı trên ngọn Sarayburnu[65]. Nhô lên ở phía đối diện Sừng Vàng là một ngọn đồi khác có hình nón, nơi có quận hiện đại Beyoğlu. Do địa thế, các ngôi nhà ở đây từng được xây dựng với sự gia cố của các bức tường giữ xếp bậc thang, và các con đường có dạng các bậc[66]. Üsküdar ở phía châu Á cũng có các đặc điểm đồi gò tương tự, với địa hình mở rộng dần về phía bờ biển Bosphorus, nhưng địa thế ở Şemsipaşa và Ayazma dốc hơn nhiều, giống như một mũi đất. Điểm cao nhất ở Istanbul là đồi Çamlıca, với độ cao tuyệt đối 288m[66].

Istanbul nằm gần đứt gãy Bắc Anatolia, cạnh ranh giới giữa các mảng châu PhiÁ-Âu. Đới đứt gãy này chạy từ miền bắc Anatolia đến biển Marmara, được cho là đã gây nên các trận động đất lớn gây thiệt hại nhiều nhân mạng trong suốt lịch sử của thành phố. Trong số đó, các trận địa chấn tàn phá nặng nề nhất phải kể đến như động đất Istanbul 1509 đã gây ra sóng thần làm phá vỡ các bức tường thành của thành phố và làm hơn 10.000 người thiệt mạng. Gần đây trận động đất năm 1999 xảy ra với tâm chấn gần İzmit khiến 18.000 người chết, trong đó có 1.000 người sống ở ngoại ô Istanbul[67]. Dân cư Istanbul vẫn quan ngại về những trận động đất thậm chí còn khủng khiếp hơn xảy ra trong tương lai gần, vì hàng nghìn tòa nhà được xây dựng gần đây để đáp ứng dân số gia tăng nhanh không được xây dựng đúng chuẩn mực[67]. Các nhà địa chấn học dự đoán có nguy cơ xảy ra một trận động đất độ lớn 7.6-thang độ lớn mômen hoặc lớn hơn có thể sẽ tấn công Istanbul năm 2030 với xác suất lớn hơn 60%[68][69].

Khí hậu

Istanbul đặc trưng bởi khí hậu Địa Trung Hải theo phân loại mới của Köppen-Geiger[70].Tuy nhiên, do có diện tích rộng lớn, địa hình đa dạng, và nằm gần biển nên ở Istanbul tồn tại các miền vi khí hậu. Phần phía bắc của thành phố có khí hậu đại dương do ảnh hưởng của hơi ẩm từ Biển Đen và mật độ lớp phủ thực vật tương đối cao. Khí hậu trong khu vực đông dân cư ở phía nam thì ấm hơn và ít bị ảnh hưởng của hơi ẩm[71].

Thực vậy, một trong những đặc điểm nổi bật nhất của khí hậu trong nhiều vùng của Istanbul là độ ẩm liên tục cao, đạt tới 80 phần trăm vào hầu như mọi buổi sáng[72]. Do những điều kiện này mà sương mù rất phổ biến, mặc dù dày hơn ở phía bắc chứ không ở trung tâm[73]. Hiện tượng sương mù dày đáng chú ý làm ngăn trở giao thông trong khu vực, bao gồm trên eo Bosphorus, xảy ra quanh năm trong các tháng mùa thu và mùa đông, khi độ ẩm vẫn duy trì cao tới buổi chiều [74][75][76]. Điều kiện ẩm ướt và sương mù có xu hướng tiêu tan vào giữa ngày trong các tháng mùa hè, nhưng hơi ẩm còn sót lại có tác động khiến cho thời tiết tương đối nóng nực vào mùa hè thêm phần khó chịu[72][77]. Trong mùa hè, nhiệt độ cao nhất dao động quanh 29 °C và không thường xuyên có mưa rào; chỉ có khoảng 15 ngày mưa đo được giữa tháng 6 và tháng 8[78].

Mùa đông ở Istanbul lạnh hơn hầu hết các thành phố khác trong miền Địa Trung Hải, với nhiệt độ xuống thấp nhất trung bình 4-5°C[78]. Tuyết do hiệu ứng hồ (gió lạnh cuốn hơi ấm trên mặt nước tạo tuyết ở bờ dưới gió) từ Biển Đen xuất hiện thường xuyên, nhưng khó dự đoán, với nguy cơ dày và - cùng với sương mù - gây thiệt hại cho cơ sở hạ tầng của thành phố[79]. Mùa xuân và thu có thời tiết khá êm dịu, nhưng thường ẩm ướt và khó lường; gió lạnh từ phía tây bắc và những cơn gió ấm từ phía nam đôi khi xuất hiện trong cùng một ngày - có xu hướng gây nên sự dao động nhiệt độ[77][80]. Nhìn chung, hàng năm Istanbul có trung bình khoảng 115 ngày có mưa đáng kể, với lượng mưa 852 mm mỗi năm[78][81]. Nhiệt độ cao nhất và thấp nhất từng ghi nhận được trong thành phố là 40,5°C và -16,1°C. Lượng mưa cao nhất trong ngày được ghi nhận là 227mm, trong khi lớp tuyết phủ dày nhất là 80cm[82][83].

Dữ liệu khí hậu của Istanbul (1970–2011)
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Trung bình cao °C (°F) 9.3 9.7 12.1 17.0 22.1 26.9 29.4 29.2 25.5 20.2 15.2 11.2 18,98
Trung bình thấp, °C (°F) 4.2 4.0 5.5 9.3 13.5 18.0 20.4 20.5 17.4 13.6 9.3 6.2 11,83
Giáng thủy mm (inch) 100.9
(3.972)
80.9
(3.185)
69.6
(2.74)
45.4
(1.787)
35.5
(1.398)
37.5
(1.476)
39.0
(1.535)
46.3
(1.823)
62.9
(2.476)
100.7
(3.965)
108.6
(4.276)
124.7
(4.909)
852
(33,54)
Số ngày giáng thủy TB (≥ 0.1 mm) 15.6 14.2 11.8 10.7 7.3 5.4 3.7 4.0 5.6 10.2 11.2 15.4 115,1
Số giờ nắng trung bình hàng tháng 68.2 87.6 133.3 180.0 251.1 285.0 319.3 288.3 228.0 158.1 99.0 68.2 2.166,1
Nguồn: Cục Khí tượng Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ[78][81] (tất cả trừ dữ liệu về mưa 1970–20110)

Cảnh quan

Kiến trúc

Hành chính

A map depicting districts, squeezed between two bodies of water; farther districts are very large compared to those clustered in the center.
Các huyện của Istanbul kéo dài rất xa trung tâm thành phố, dọc theo toàn bộ eo biển Bosphorus (nối biển Đen ở phía bắc và biển Marmara ở phía nam).

Từ năm 2004, Istanbul là một trong 2 thành phố ở Thổ Nhĩ Kỳ (cùng với İzmit) có ranh giới nằm chính trong ranh giới tỉnh của nó.[84] Thành phố là thủ phủ của tỉnh Istanbul, được quản lý bởi vùng đô thị Istanbul (MMI) bao gồm 39 quận.[c]

Cấu trúc hành chánh hiện tại của thành phố có thể bắt nguồn từ thời kỳ cải cách Tanzimat trong thế kỷ 19, trước khi các thẩm phán và imams hồi giáo điều hành thành phố dưới dự lãnh đạo của Grand Vizier. Theo mô hình của các thành phố Pháp, hệ thống tôn giáo này đã được thay thế bởi thị trưởng và một hội đồng thành phố gồm đại diện các nhóm xưng tội (millet) trên khắp Istanbul. Beyoğlu là khu vực đầu tiên của thành phố có người lãnh đạo và hội đồng riêng của nó với các thành viên là các cư dân định cư lâu ở đó. Các luật được ban hành sau Hiến pháp Ottoman, 1876 nhằm mục đích mở rộng cách tổ chức này trên toàn thành phố, theo cách tổ chức thành các quận của Paris, nhưng điều này không được thực hiện hoàn chỉnh cho đến năm 1908, khi Istanbul được tuyên bố là một tỉnh có 9 quận.[85][86] Hệ thống này tiếp tục phát triển trên toàn đất nước Thổ Nhĩ Kỳ, khi các tỉnh được đổi tên thành belediye (đô thị tự quản), nhưng hệ thống đô thị này lại bị giải thể năm 1957.[62][87]

Các khu định cư nhỏ nằm cảnh các trung tâm đông dân cư chính bao gồm cả Istanbul đã được sáp nhập vào các thành phố chính trong suốt thập niên 1980, để hình thành các vùng đô thị.[88][89] Pháp nhân đưa ra quyết định chính của vùng đô thị Istanbul là hội đồng đô thị, các thành viên của hội đồng này là từ các hội đồng cấp huyện. Hội đồng thành phố chịu trách nhiệm cho các vấn đề toàn thành phố, bao gồm cả việc quản lý ngân sách, duy trì cơ sở hạ tầng dân sự và giám sát các viện bảo tàng và các trung tâm văn hóa lớn.[90] Kể từ khi chính phủ vật hành theo cơ chế "thị trưởng quyền lực, hội đồng yếu" ("powerful mayor, weak council"), lãnh đạo của hội đồng-thị trưởng vùng đô thị có quyền đưa ra các quyết định nhanh chóng, thường là tại khâu minh bạch chi tiêu.[91] Hội đồng thành phố được tư vấn từ Ủy ban thường trực vùng đô thị, mặc dù Ủy ban này cũng có quyền hạn chế để đưa ra quyết định của riêng mình.[92] Tất cả các đại diện trong Uỷ ban được chỉ định bởi thị trưởng thành phố và Hội đồng, và được chọn ra một người đứng đầu ủy ban.[92][93]

Nhân khẩu học

Dân số Istanbul trong lịch sử
Trước nền Cộng hòa Sau nền Cộng hòa
Năm Dân số Năm Dân số ±%
100 36,000 1924 500,000
361 300,000 1927 680,000 +36.0%
500 400,000 1935 741,000 +9.0%
Thế kỷ 7 150–350,000 1940 793,000 +8.4%
Thế kỷ 8 125–500,000 1945 860,000 +8.4%
Thế kỷ 9 50–250,000 1950 983,000 +14.3%
1000 150–300,000 1955 1,258,000 +28.0%
1100 200,000 1960 1,466,000 +16.5%
1200 150,000 1965 1,742,000 +18.8%
1261 100,000 1970 2,132,000 +22.4%
1350 80,000 1975 2,547,000 +19.5%
1453 45,000 1980 2,772,000 +8.8%
1500 200,000 1985 5,475,000 +97.5%
1550 660,000 1990 7,620,000 +39.2%
1700 700,000 1995 9,260,000 +21.5%
1800 570,000 2000 10,923,000 +18.0%
1850 785,000 2005 12,061,000 +10.4%
1914 1,125,000 2010 13,256,000 +9.9%
Nguồn: Chandler 1987, Morris 2010, vàTuran 2010
Số liệu trước nền Cộng hòa là ước tính[e]

Trong phần lớn chiều dài lịch sử của mình, Istanbul luô xếp trong nhóm các thành phố lớn nhất trên thế giới. Đến năm 500, Constantinople có khoảng 400.000 đến 500.000 dân, nhích lên vượt qua Rome để trở thành thành phố lớn nhất thế giới[95]. Constantinople cùng các thành phố lịch sử lớn khác như BaghdadTrường An thay nhau giành vị trí thành phố đông dân nhất thế giới cho đến thế kỷ 13. Trong khi nó không bao giờ lấy lại vị trí số một thế giới nhưng nó vẫn là thành phố lớn nhất châu Âu ít lâu sau sự sụp đổ của Constantinople cho đến đầu thế kỷ 19 khi nó bị London qua mặt[96]. Ngày nay nó vẫn là một trong các vùng quần cư đô thị đông đúc nhất châu Âu cùng với Moscow[d].

Viện Thống kê Thổ Nhĩ ước tính rằng đân số Istanbul là 13 483 052 người vào 31 tháng Mười hai năm 2011, khiến cho nó là thành phố lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ, chiếm 18 phần trăm dân số quốc gia[2]. Istanbul nằm trong số năm thành phố đông dân nhất thế giới - tuy nhiên với tư cách một vùng đô thị thì nó chỉ xếp thứ 18 thế giới[3][98] Tốc độ gia tăng dân cư hàng năm của thành phố là 3,45 phần trăm, cao nhất trong số các 78 đô thị lớn nhất trong khối OECD. Tỷ lệ tăng trưởng dân số cao phản ảnh xu hướng đô thị hóa trên toàn quốc gia, với hai đô thị xếp thứ hạng kế sau Istanbul là İzmir và Ankara đều thuộc Thổ nhĩ Kỳ[11].

Istanbul đã trải qua sự tăng trưởng đặc biệt nhanh chóng trong nửa sau thế kỷ 20, với dân số tăng gấp mười lần trong giai đoạn 1950-2000[7]. Sự gia tăng dân số này một phần đến từ sự mở rộng địa phận thành phố - đặc biệt giữa các năm 1980 và 1985, khi dân số Istanbul tăng gần gấp đôi[62]. Sự tăng trưởng đáng chú ý chủ yếu là do dân di cư từ miền châu Á của đất nước tới để tìm việc làm và cải thiện điều kiện sống. Số cư dân có nguồn gốc từ bảy tỉnh phía bắc và phía đông lớn hơn dân số hiện có của chính các tỉnh đó; đáng chú ý, SivasKastamonu mỗi tỉnh là xuất xử của hơn một nửa triệu dân của Istanbul[8]. So với đó số cư dân có nguồn gốc nước ngoài ở Istanbul khá ít, chỉ khoảng 42 228 người vào năm 2007[99]. Chỉ khoảng 28 phần trăm cư dân thành phố là người gốc Istanbul[100]. Mật độ dân số của thành phố là 2523 người trên kilomet vuông, vượt xa con số trung bình của Istanbul là 2523 người/km2[101]. Các khu vực đông đúc nhất có xu hướng nằm ở phía tây bắc, tây và tây nam của thành phố ở phía châu Âu; quận đông nhất ở bờ châu Á là Üsküdar[8].

Các nhóm tôn giáo và dân tộc

Trong hầu hết lịch sử của nó và cả ngày nay, Istanbul là một thành phố thế giới, nhưng nó đã trở nên đồng nhất hơn kể từ cuối thời Đế quốc Ottoman. Tuy nhiên, phần lớn các nhóm thiểu số tôn giáo và dân tộc của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tập trung ở Istanbul. Tuyệt đại đa số dân cư khắp Thổ Nhĩ Kỳ, và Istanbul nói riêng, tự xem mình là người Hồi giáo, cụ thể hơn là nhánh Hồi giáo Sunni. Hầu hết người Sunni tuân theo trường phái tư tưởng Hanafi, mặc dù khoảng 10% người Sunni theo trường phái Shafi'i. Giáo phái Hồi giáo lớn nhất ngoài Sunni ở Thổ Nhĩ Kỳ là Alevi, chiếm 4,5 triệu dân, một phần ba trong số đó sống ở Istanbul[100]. Các phong trào thần bí, như đạo Sufi, chính thức bị cấm sau khi nền Cộng hòa thành lập, nhưng vẫn thu hút một lượng lớn tín đồ[102].

Thánh đường Hồi giáo Eyüp Sultan, nơi yên nghỉ Abu Ayyub al-Ansari (một chiến hữu của Nhà tiên tri), là một địa điểm hành hương nổi tiếng[103].

Địa vị Giáo trưởng Constantinople được chỉ định là Đại Giáo trưởng giáo hội toàn thế giới từ thế kỉ 6, và cho tới nay vẫn được thừa nhận rộng rãi là lãnh đạo của 300 triệu người Chính thống giáo Đông phương trên toàn thế giới[104]. Kể từ năm 1601, nơi Đại Giáo trưởng ngự nằm ở Nhà thờ St. George ở Istanbul[105]. Vào thế kỉ 19, những người Cơ đốc giáo ở Istanbul hoặc là thuộc Chính thống giáo Hy Lạp hoặc Giáo hội Tông đồ Armenia[106]. Do một số sự kiện trong thế kỉ 20 - bao gồm cuộc hoán đổi dân cư giữa Hy Lạp năm 1923 theo thỏa thuận của hai chính phủ, một sắc thuế đánh vào người giàu năm 1942 và cuộc bạo loạn Istanbul năm 1955 - dân cư người Hy Lạp, vốn tập trung ở FenerSamatya, đã giảm rõ rệt. Vào đầu thế kỉ 21, số người Hy Lạp ở Istanbul chỉ khoảng 3000 (giảm từ 130 nghìn năm 1923)[107][108]. Dân Armenia cũng chứng kiến một sự suy giảm, một phần do Vụ diệt chủng người Armenia trong Thế chiến I, nhưng đã dần dần phục hồi do sự di cư gần đây từ Armenia sang; ngày nay, có khoảng từ 5 tới 7 vạn người Armenia ở Istanbul, giảm từ 164 nghìn người năm 1913[109].

Nhóm dân tộc thiểu số lớn nhất ở Istanbul là cộng đồng người Kurd, có nguồn gốc từ miền đông và đông nam Thổ Nhĩ Kỳ. Mặc dù sự hiện diện của người Kurd ở thành phố có thể lần ngược về thời kỳ đầu của Đế quốc Ottoman[110], dòng người Kurd đổ vào thành phố tăng lên kể từ cuối những năm 1970, khi tranh chấp Thổ-Kurd bùng phát và Đảng Công nhân Kurdistan xuất hiện[111]. Istanbul là nơi cư trú của từ hai tới bốn triệu cư dân người Kurd, nhiều hơn bất kì thành phố nào trên thế giới[112][113]. Vùng lân cận khu phố Balat từng là nơi một cộng đồng người Do Thái Sephardi khá lớn, bắt đầu hình thành trong thời kì Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha (cuối thế kỉ 15 tới đầu thế kỉ 19)[114]. Người Do Thái các nhánh RomaniotesAshkenazi cư ngụ ở Istanbul còn trước cả người Sephardi, nhưng tỉ lệ của họ đã suy giảm; ngày nay, chỉ 1 phần người Do Thái ở Istanbul thuộc dòng Ashkenazi[115][116]. Chủ yếu do việc di cư về Israel khi quốc gia này thành lập, số dân Do Thái trên toàn quốc giảm từ 100 nghìn năm 1950 xuống còn 18 nghìn năm 2005, đa số họ sống ở Istanbul và Izmir[117]. Người Levantines, tức những người theo Công giáo La Mã sinh sống ở Galata trong thời đại Ottoman, đóng một vai trò độc đáo trong việc định hình văn hóa và kiến trúc Istanbul trong các thế kỉ 19 và 20; dân số của họ có suy giảm, nhưng vẫn còn một số ít ở thành phố[118].

Kinh tế

Với GDP US$182 billion năm 2008, Istanbul được xếp thứ 34 về GDP của các đô thị trên thế giới.[119] Istanbul sử dụng khoảng 20% lực lượng lao động của Thổ Nhĩ Kỳ[11][120], đóng góp 38% chỗ làm việc trong lĩnh vực công nghiệp của Thổ Nhĩ Kỳ. Istanbul tạo 55% giá trị thương mại và 45% doanh thu bán lẻ của quốc gia này, đóng góp 21,2% GDP, 40% thu thuế[11], 27,5 sản phẩm quốc gia của Thổ Nhĩ Kỳ. Kể từ 1980, GDP của Istanbul tăng 5%/năm.[cần dẫn nguồn]

Văn hóa

Hoạt động giải trí

Thể thao

Truyền thông

Giáo dục

Dịch vụ công

Giao thông

Các thành phố kết nghĩa

Istanbul có 45 thành phố kết nghĩa:

Chú thích

  1. ^ a b c d Sự thành lập Byzantion (Byzantium) đôi khi, nhất là trong các tư liệu bách khoa hoặc bên thứ ba khác, đặt cứng nhắc vào mốc năm 667 tr.CN. Tuy nhiên, các nhà sử học đã tranh cãi về năm chính xác mà thành phố được lập nên. Công trình của nhà sử học ở thế kỉ thứ 5 tr.CN Herodotus thường được trích dẫn, nói rằng thành phố được lập nên 17 năm sau thành phố Chalcedon[13] vốn xuất hiện vào năm 685 tr.CN. Tuy nhiên, Eusebius, trong khi thống nhất rằng 685 tr.CN là năm Chalcedon được lập, lại cho rằng Byzantion ra đời vào năm 659 tr.CN[14]. Trong số các sử gia hiện đại, Carl Roebuck đề xuất năm 640 tr.CN[15] trong khi những nguwoif khác cho rằng có thể còn muộn hơn. Hơn nữa, bản thân ngày thành lập của Chalcedon cũng là một vấn đề còn bàn cãi, khi có nguồn cho rằng nó xảy ra năm 675 tr.CN[16] hay thậm chí 639 tr.CN[14]. Vì lí do như vậy, một số nguồn chọn cách chỉ đơn giản nói rằng nó xảy ra vào thế kỉ 7 tr.CN
  2. ^ Tên của thành phố được chính thức đổi thành Istanbul năm 1930, nhưng nó đã được dùng ngay từ trước cuộc xâm lược của Ottoman năm 1453[1].
  3. ^ a b c d Các nguồn khác nhau mâu thuẫn về diện tích của Istanbul. Nguồn có thẩm quyền nhất về con số này đáng ra phải là của Chính quyền thành phố Istanbul, nhưng bản tiếng Anh website của họ đưa ra thông tin ít ỏi về diện tích này, trong đó chỉ có thông tin rằng các khu vực đô thị của Istanbul có 27 quận và có tổng diện tích 1538,9 km2[61]. Tuy nhiên trang web chính thức về lịch sử thành phố dường như là rõ ràng và cập nhật nhất, nói rằng vào năm 2004, "Quyền pháp lý của Chính quyền thành phố Istanbul được mở rộng phủ khắp toàn bộ diện tích trong khuôn khổ tỉnh". Nó cũng khẳng định một đạo luật năm 2008 sáp nhập quận Eminönü vào quận Fatih (một điểm mà nguồn ở trên không phản ánh) và tăng số lượng quận Istanbul thành 39[62]. Diện tích tổng cộng, như bản tiếng Thổ của trang web chính quyền[63] và một trang tiếng Anh về quyền tư pháp được cập nhật gần đây[64] xác thực, là 5343 km2.
  4. ^ a b Liên Hợp Quốc định nghĩa một vùng quân cư đô thị (urban agglomeration) là "dân cư trong đường bao quanh một lãnh thổ giáp ranh với mật độ ở mức đô thị không xét đến những ranh giới hành chính". Vùng quần cư "thường bao gồm dân cư trong một thành phố hay thị trấn công với số trong vùng ngoại ô nằm ngoài, nhưng liền kề với ranh giới thành phố"[97]. Tính đến 1 tháng 7 năm 2011 dân số của Moscow và Istanbul lần lượt là 11,62 triệu và 11,25 triệu[98]. Liên Hiệp Quốc ước tính rằng Istanbul sẽ vượt qua Moscow về dân số vào năm 2015 (lần lượt là 12,46 triệu và 12,14 triệu), mặc dù việc ngoại suy cho thấy Istanbul sẽ không thể qua mặt được cho đến nửa sau năm 2013[97].
  5. ^ a b Các nhà sử học bất đồng - đôi khi một cách căn bản - về số liệu dân cư của Istanbul (Constantinople), và các thành phố thế giới khác, trước thế kỉ 20. Tuy nhiên,Chandler 1987, tr. 463–505, một sự tiếp nối của Chandler & Fox 1974,[52] đã tiến hành một cái nhìn toàn diện vào ước tính của các nguồn khác nhau và chọn ra những số liệu đáng tin cậy nhất dựa trên điều kiện lịch sử; do đó nó là nguồn co hầu hết các số liệu dân cư từ giữa năm 100 và 1914. Khoảng giá trị giữa 500 và 1000 là dựa theo Morris 2010, cũng tiến hành phân tích toàn diện các nguồn, bao gồm Chandler (1987); Morris nhận xét rằng nhiều ước tính của Chandler trong thời đó dường như quá lớn với quy mô thành phố, và đưa ra những đánh giá thay thế nhỏ hơn. Chandler bất đồng với Turan 2010 về dân số những năm giữa thập niên 1920 (người đầu đề xuất 817,000 vào năm 1925), nhưng Turan, tr. 224,được dùng làm nguồn số liệu giữa 1924 và 2005. Các con số của Turan, cũng như số liệu năm 2010[94], đươc Viện Thống kê Thổ Nhĩ Kỳ công bố. Việc tăng dân số chóng mặt giữa năm 1980 và 1985 chủ yếu là do việc mở rộng ranh giới thành phố (xem phần #Hành chính). Những lý giải cho thay đổi dân số trước thời Cộng hòa có thể luận ra từ phần #Lịch sử.

Tham khảo

  1. ^ a b c d e Room 2006, tr. 177
  2. ^ a b c “Province by Province / Town Center and Town / Village Population – 2011”. Address Population-Based Registration System (ABPRS) Database. The Turkish Statistical Institute. 2011. Truy cập 9 tháng Năm 2012.
  3. ^ a b Mossberger, Clarke & John 2012, tr. 145
  4. ^ WCTR Society; Unʼyu Seisaku Kenkyū Kikō 2004, tr. 281
  5. ^ Çelik 1993, tr. xv
  6. ^ a b Masters & Ágoston 2009, tr. 114–5
  7. ^ a b Turan 2010, tr. 224
  8. ^ a b c “Population and Demographic Structure”. Istanbul 2010: European Capital of Culture. Istanbul Metropolitan Municipality. 2008. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
  9. ^ Weiner, Miriam B. “World's Most Visited Cities”. U.S. News & World Report. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2012.
  10. ^ “The World According to GaWC 2010”. Globalization and World Cities (GaWC) Study Group and Network. Loughborough University. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2012.
  11. ^ a b c d “OECD Territorial Reviews: Istanbul, Turkey” (PDF). Policy Briefs. The Organisation for Economic Co-operation and Development. tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2012.
  12. ^ “IOC selects three cities as Candidates for the 2020 Olympic Games”. The International Olympic Committee. 24 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2012.
  13. ^ Herodotus Histories4.144, được dịch trong De Sélincourt 2003, tr. 288
  14. ^ a b Isaac 1986, tr. 199
  15. ^ Roebuck 1959, tr. 119
  16. ^ a b Freely 1996, tr. 10
  17. ^ Gregory 2010, tr. 62–3
  18. ^ a b Masters & Ágoston 2009, tr. 286
  19. ^ Masters & Ágoston 2009, tr. 226–7
  20. ^ Finkel 2005, tr. 57, 383
  21. ^ Göksel & Kerslake 2005, tr. 27
  22. ^ Room 2006, tr. 177–8
  23. ^ Göktürk, Soysal & Türeli 2010, tr. 7
  24. ^ Keyder 1999, tr. 95
  25. ^ Rainsford, Sarah (10 tháng 1 năm 2009). “Istanbul's ancient past unearthed”. BBC. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2010.
  26. ^ Düring 2010, tr. 181–2
  27. ^ Çelik 1993, tr. 11
  28. ^ De Souza 2003, tr. 88
  29. ^ Freely 1996, tr. 20
  30. ^ Freely 1996, tr. 22
  31. ^ Grant 1996, tr. 8–10
  32. ^ Limberis 1994, tr. 11–2
  33. ^ Barnes 1981, tr. 77
  34. ^ Barnes 1981, tr. 212
  35. ^ a b Barnes 1981, tr. 222
  36. ^ a b c Gregory 2010, tr. 63
  37. ^ Klimczuk & Warner 2009, tr. 171
  38. ^ Dash, Mike (2 tháng 3 năm 2012). “Blue Versus Green: Rocking the Byzantine Empire”. Smithsonian Magazine. The Smithsonian Institution. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2012.
  39. ^ Dahmus 1995, tr. 117
  40. ^ Cantor 1994, tr. 226
  41. ^ Morris 2010, tr. 109–18
  42. ^ Gregory 2010, tr. 324–9
  43. ^ Gregory 2010, tr. 330–3
  44. ^ Gregory 2010, tr. 340
  45. ^ Gregory 2010, tr. 341–2
  46. ^ Reinert 2002, tr. 258–60
  47. ^ Baynes 1949, tr. 47
  48. ^ Gregory 2010, tr. 394–9
  49. ^ Holt, Lambton & Lewis 1977, tr. 306–7
  50. ^ a b Holt, Lambton & Lewis 1977, tr. 307
  51. ^ Holt, Lambton & Lewis 1977, tr. 735–6
  52. ^ a b Chandler, Tertius; Fox, Gerald (1974). “3000 Years of Urban Growth”. London: Academic Press. ISBN 978-0-12-785109-9. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  53. ^ Çelik 1993, tr. 87–9
  54. ^ Harter 2005, tr. 251
  55. ^ Shaw & Shaw 1977, tr. 230, 287, 306
  56. ^ Çelik 1993, tr. 31
  57. ^ Landau 1984, tr. 50
  58. ^ Dumper & Stanley 2007, tr. 39
  59. ^ Keyder 1999, tr. 11–2, 34–6
  60. ^ Efe & Cürebal 2011, tr. 718–9
  61. ^ “Districts”. Istanbul Metropolitan Municipality. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011.
  62. ^ a b c “History of Local Governance in Istanbul”. Istanbul Metropolitan Municipality. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011.
  63. ^ “İstanbul İl ve İlçe Alan Bilgileri” (bằng tiếng Turkish). Istanbul Metropolitan Municipality. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  64. ^ “Jurisdiction”. Istanbul Metropolitan Municipality. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011.
  65. ^ “Istanbul from a Bird's Eye View”. Governorship of Istanbul. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2010.
  66. ^ a b “The Topography of İstanbul”. Republic of Turkey Ministry of Culture and Tourism. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2012.
  67. ^ a b Revkin, Andrew C. (24 tháng 2 năm 2010). “Disaster Awaits Cities in Earthquake Zones”. The New York Times. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2010. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “dis-awaits” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  68. ^ Parsons, Tom; Toda, Shinji; Stein, Ross S.; Barka, Aykut; Dieterich, James H. (2000). “Heightened Odds of Large Earthquakes Near Istanbul: An Interaction-Based Probability Calculation”. Science. Washington, D.C.: The American Association for the Advancement of Science. 288 (5466): 661–5. doi:10.1126/science.288.5466.661. PMID 10784447.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  69. ^ Traynor, Ian (9 tháng 12 năm 2006). “A Disaster Waiting to Happen – Why a Huge Earthquake Near Istanbul Seems Inevitable”. The Guardian. UK. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2010.
  70. ^ Kottek và đồng nghiệp 2006, tr. 261
  71. ^ Efe & Cürebal 2011, tr. 716–7
  72. ^ a b “Weather – Istanbul”. World Weather. BBC Weather Centre. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
  73. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên efcu716
  74. ^ “Istanbul Enshrouded in Dense Fog”. Turkish Daily News. 14 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
  75. ^ “Thick Fog Causes Disruption, Flight Delays in İstanbul”. Today's Zaman. 23 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
  76. ^ “Dense Fog Disrupts Life in Istanbul”. Today's Zaman. 6 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
  77. ^ a b Pelit, Attila. “When to Go to Istanbul”. TimeOut Istanbul. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2011.
  78. ^ a b c d “Resmi İstatistikler (İl ve İlçelerimize Ait İstatistiki Veriler)” (bằng tiếng Turkish). Turkish State Meteorological Service. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  79. ^ Kindap, Tayfin (19 tháng 1 năm 2010). “A Severe Sea-Effect Snow Episode Over the City of Istanbul”. Natural Hazards. 54 (3): 703–23. ISSN 1573-0840. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết) Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  80. ^ “Istanbul Winds Battle Over the City”. Turkish Daily News. 17 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
  81. ^ a b “Yıllık Toplam Yağış Verileri” (bằng tiếng Turkish). Turkish State Meteorological Service. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  82. ^ “İstanbul Bölge Müdürlüğü'ne Bağlı İstasyonlarda Ölçülen Ekstrem Değerler” (PDF) (bằng tiếng Turkish). Turkish State Meteorological Service. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  83. ^ “March 1987 Cyclone (Blizzard) over the Eastern Mediterranean and Balkan Region Associated with Blocking”. American Meteorological Society. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2010.
  84. ^ “Büyükşehir Belediyesi Kanunu”. Türkiye Büyük Millet Meclisi (bằng tiếng Turkish). 10 tháng 7 năm 2004. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2010. Bu Kanunun yürürlüğe girdiği tarihte; büyükşehir belediye sınırları, İstanbul ve Kocaeli ilinde, il mülkî sınırıdır. (On the date this law goes in effect, the metropolitan city boundaries, in the provinces of İstanbul and Kocaeli, are those of the province.) Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  85. ^ Çelik 1993, tr. 42–8
  86. ^ Kapucu & Palabiyik 2008, tr. 145
  87. ^ Taşan-Kok 2004, tr. 87
  88. ^ Wynn 1984, tr. 188
  89. ^ Taşan-Kok 2004, tr. 87–8
  90. ^ Kapucu & Palabiyik 2008, tr. 153–5
  91. ^ Erder 2009, tr. 46
  92. ^ a b Kapucu & Palabiyik 2008, tr. 156
  93. ^ “Metropolitan Executive Committee”. Istanbul Metropolitan Municipality. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011.
  94. ^ “Address Based Population Registration System Results of 2010” (doc). Turkish Statistical Institute. 28 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2011.
  95. ^ Morris 2010, tr. 113
  96. ^ Chandler 1987, tr. 463–505
  97. ^ a b “Frequently Asked Questions”. World Urbanization Prospects, the 2011 Revision. The United Nations. 5 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2012.
  98. ^ a b “File 11a: The 30 Largest Urban Agglomerations Ranked by Population Size at Each Point in Time, 1950–2025” (xls). World Urbanization Prospects, the 2011 Revision. The United Nations. 5 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2012.
  99. ^ Kamp, Kristina (17 tháng 2 năm 2010). “Starting Up in Turkey: Expats Getting Organized”. Today's Zaman. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
  100. ^ a b “Social Structure Survey 2006”. KONDA Research. 2006. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
  101. ^ “Turkey”. The World Factbook. The Central Intelligence Agency. 28 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2012.
  102. ^ U.S. Bureau of Democracy, Human Rights, and Labor. “Turkey: International Religious Freedom Report 2007”. U.S. Department of State. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  103. ^ Davidson & Gitlitz 2002, tr. 180
  104. ^ “History of the Ecumenical Patriarch”. The Ecumenical Patriarch of Constantinople. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2012.
  105. ^ “The Patriarchal Church of Saint George”. The Ecumenical Patriarch of Constantinople. Truy cập 20 tháng Sáu 2012.
  106. ^ Çelik 1993, tr. 38
  107. ^ Athanasopulos 2001, tr. 82
  108. ^ “The Greek Minority and its foundations in Istanbul, Gokceada (Imvros) and Bozcaada (Tenedos)”. Hellenic Republic Ministry of Foreign Affairs. 21 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2012.
  109. ^ Khojoyan, Sara (16 tháng 10 năm 2009). “Armenian in Istanbul: Diaspora in Turkey welcomes the setting of relations and waits more steps from both countries”. Armenia Now. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2012.
  110. ^ Masters & Ágoston 2009, tr. 520–1
  111. ^ Wedel 2000, tr. 182
  112. ^ “Can't They Get Along Anymore?”. The Economist. 8 tháng 9 năm 2005. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2012.
  113. ^ Zalewski, Piotr (9 tháng 1 năm 2012). “Istanbul: Big Trouble in Little Kurdistan”. TIME. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2012.
  114. ^ Rôzen 2002, tr. 55–8, 49
  115. ^ Rôzen 2002, tr. 49–50
  116. ^ Brink-Danan 2011, tr. 176
  117. ^ ʻAner 2005, tr. 367
  118. ^ Schmitt 2005, passim
  119. ^ “III – Which are the largest city economies in the world and how might this change by 2025?”. PricewaterhouseCoopers. tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
  120. ^ “Presentation of Reference City: Istanbul”. Urban Green Environment. 2001. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2011.

Đọc thêm

  • Gul, Murat. The Emergence of Modern Istanbul: Transformation and Modernisation of a City
  • Alkım, U. Bahadır; Metzger, Henri (1969). “Anatolia: From the Beginnings to the End of the 2nd Millennium B.C”. London: Barrie & Rockliff the Cresset Press. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Atıl, Esin (1987). The Age of Sultan Süleyman the Magnificent. Washington, D.C.: National Gallery of Art. ISBN 9780894680984.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Barnes, Timothy David (1981). Constantine and Eusebius. Cambridge, Mass.: Harvard University Press. ISBN 0674165314.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Baynes, Norman H. (1949). Baynes, Norman H.; Moss, Henry S. L. B. (biên tập). Byzantium: An Introduction to East Roman Civilization. Oxford: Clarendon Press.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Bertram, Carol (2008). Imagining the Turkish House: Collective Visions of Home. Austin, Texas: University of Texas Press. ISBN 9780292718265.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Borrego, Carlos; Schayes, Guy (2002). Air Pollution Modeling and its Application XV. New York: Kluwer Academic. ISBN 0306472945.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Boyar, Ebru; Fleet, Kate (2010). A Social History of Ottoman Istanbul. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 9780521136235.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Chandler, Tertius; Fox, Gerald (1974). “3000 Years of Urban Growth”. London: Academic Press. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Çelik, Zeynep (1993). The Remaking of Istanbul: Portrait of an Ottoman City in the Nineteenth Century. Berkeley & Los Angeles: University of California Press. ISBN 9780520082397.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • De Souza, Philip (2003). The Greek and Persian Wars, 499-386 TCN. London: Routledge. ISBN 0415968542.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Dwight, Harrison G. (1915). “Constantinople: Old and New”. C. Scribner's Sons. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Eisma, Doeke (1995). Climate Change: Impact on Coastal Habitation. isbn=087371301X: CRC Press. Thiếu dấu sổ thẳng trong: |location= (trợ giúp)Quản lý CS1: địa điểm (liên kết) Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Evans, James A. S. (2000). The Age of Justinian: The Circumstances of Imperial Power . London: Routledge. ISBN 0415237262.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Feyen, Jan (2008). Feyen, Jan; Shannon, Kelly; Neville, Matthew (biên tập). Water and Urban Development Paradigms: Towards an Integration of Engineering, Design and Management Approaches . London: Taylor & Francis. ISBN 9780415483346.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Grant, Michael (1996). The Severans: The Changed Roman Empire. London: Routledge. ISBN 0415127726.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Gregory, Timothy E. (2010). A History of Byzantium. Oxford: John Wiley and Sons. ISBN 140518471X.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Haldon, John F. (2002). Byzantium: A History (ấn bản 2). Stroud, Eng.: Tempus. ISBN 0752434721.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Haldon, John F. (2003). Byzantium at War, AD 600-1453 . New York: Routledge. ISBN 0415968615.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Harter, Jim (2005). World Railways of the Nineteenth Century: A Pictorial History in Victorian Engravings . Baltimore: John Hopkins University Press. ISBN 9780801880896.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Holt, Peter M.; Lambton, Ann K. S.; Lewis, Bernard biên tập (1977). The Cambridge History of Islam. 1 . Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 0521291356.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Kazhdan, Alexander biên tập (1991). Oxford Dictionary of Byzantium. Oxford: Oxford University Press. ISBN 9780195046526.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Kelkit, Abdullah; Ak, Tutku (2006). “Coastal Land Use Planning: A Case Study of Kordonboyu (Çanakkale)”. Journal of Coastal Research. 22 (4): 951–7. doi:10.2112/03-0137.1. Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (trợ giúp)Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Keyder, Çağlar (1999). Istanbul: Between the Global and the Local. Lanham, Maryland: Rowman & Littlefield. ISBN 084769495X.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Landau, Jacob M. (1984). Atatürk and the Modernization of Turkey. Leiden, the Netherlands: E.J. Brill. ISBN 9004070702.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Lewis, Bernard (1963). Istanbul and the Civilization of the Ottoman Empire . Norman, Oklahoma: University of Oklahoma Press. ISBN 0806110600.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Limberis, Vasiliki (1994). Divine Heiress: The Virgin Mary and the Creation of Christian Constantinople. London: Routledge. ISBN 0415096774.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Lister, Richard P. (1979). The Travels of Herodotus. London: Gordon & Cremonesi. ISBN 0860330818.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Madden, Thomas F. biên tập (2004). Crusades: The Illustrated History. Ann Arbor, Mich.: University of Michigan. ISBN 0472114638.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Parsons, Tom; Toda, Shinji; Stein, Ross S.; Barka, Aykut; Dieterich, James H. (2000). “Heightened Odds of Large Earthquakes Near Istanbul: An Interaction-Based Probability Calculation”. Science. 288 (5466): 661–5. doi:10.1126/science.288.5466.661. PMID 10784447.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Reinert, Stephen W. (2002). “Fragmentation (1204-1453)”. Trong Mango, Cyril (biên tập). The Oxford History of Byzantium. Oxford: Oxford University Press. ISBN 0198140983.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Room, Adrian (2006). Placenames of the World: Origins and Meanings of the Names for 6,600 Countries, Cities, Territories, Natural Features, and Historic Sites (ấn bản 2). Jefferson, North Carolina: McFarland & Company. ISBN 0786422483.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Shaw, Stanford J.; Shaw, Ezel K. (1977). History of the Ottoman Empire and Modern Turkey. 2. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 9780521291668.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Smith, William (1897). “A Smaller History of Greece, From the Earliest Times to the Roman Conquest”. New York: Harper & Brothers. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Wheatcroft, Andrew (1995). The Ottomans: Dissolving Images. London: Penguin Books. ISBN 0140168796.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)

Liên kết ngoài


Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt ak:Istanbul