Tiếng Nùng
Tiếng Nùng | |||
---|---|---|---|
Kauq Nuangz, Kauq Noangz, Kauq Raeuz, Nohng | |||
Sử dụng tại | Việt Nam, Trung Quốc | ||
Tổng số người nói | 856.000 (thống kê 1999); 968.800 (thống kê 2009)[1] | ||
Phân loại | Tai-Kadai
| ||
Mã ngôn ngữ | |||
ISO 639-3 | cả hai:zhn – Tiếng Nùng Trung Quốcnut – Tiếng Nùng Việt Nam | ||
Phân bố ngữ hệ Tai-Kadai.[a]
|
Tiếng Nùng là một nhóm các ngôn ngữ thuộc nhánh Tai Trung tâm trong ngữ chi Tai của ngữ hệ Tai-Kadai. Các cư dân nói nhóm ngôn ngữ này được chính phủ Việt Nam phân loại là người Nùng. Ngôn ngữ này được nói chủ yếu ở các tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng, Việt Nam.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Nùng ở Việt Nam có dân số 968.800 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 7 tại Việt Nam, có mặt trên tất cả 63 tỉnh, thành phố[1]. Số người nói tiếng Nùng có thể nhỏ hơn số liệu trên chút ít.
Các nhóm địa phương của người Nùng như Nùng An, Nùng Phàn Sình, Nùng Cháo, Nùng Dín, Nùng Xuồng có sự khác biệt ít nhiều về ngôn ngữ, bao gồm ngữ âm và một phần từ vựng giữa tiếng nói các địa phương. Tiếng Nùng An phát âm gần như tiếng Cao Lan – Sán Chay và tiếng Giáy. Tiếng nói người Nùng Phủ được ảnh hưởng bởi âm sắc của tiếng Tày[2].
Người Nùng dùng chữ Hán hay chữ Nôm Nùng (được phát triển khoảng thế kỷ 17) để ghi chép thơ ca và truyện cổ dân gian[3]. Bài Mo Nùng được ghi bằng chữ Nôm trên giấy bản, gia phả nhiều dòng họ còn giữ lại cũng được ghi bằng chữ Nôm Nùng[2]. Năm 1924, tiếng Nùng lần đầu tiên được ghi theo hệ chữ Latinh nhờ các công trình của linh mục người Pháp François M. Savina. Viện Ngôn Ngữ Học Mùa Hè (Summer Institute of Linguistics - SIL International) trước năm 1975 cũng có một bộ chữ cho người Nùng Phản Slình sống ở miền nam Việt Nam. Ở miền bắc Việt Nam, có thêm phương án chữ Tày-Nùng dựa trên cơ sở chữ quốc ngữ từ năm 1961.
Các phương ngữ
[sửa | sửa mã nguồn]Tiếng Nùng bao gồm nhiều phương ngữ, một vài trong số đó được liệt kê như sau:
Cao Bằng
[sửa | sửa mã nguồn]- Nùng An được nói ở Quảng Uyên, huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng. Giống những người nói tiếng Tráng ở Long An (Long'an 隆安), huyện Tĩnh Tây (Jingxi 靖西县), tỉnh Quảng Tây, Nùng An mang cả hai đặc điểm của Tai Trung Tâm và Tai Bắc. Có khoảng 26.000 Nùng An sống ở Tĩnh Tây, nằm ngay phía bắc các khu vực sinh sống của Nùng An ở Việt Nam.[4] Theo Beth Nicolson (2000), có một nhóm nhỏ tại xã Cao Trĩ, huyện Ba Bể, cách không xa hồ Ba Bể, cũng tự gọi mình là Nùng An.[5] Họ cho biết đã di cư từ phía đông Cao Bằng tới hơn 60 năm trước và tổ tiên của họ đến từ Trung Quốc một trăm năm trước.[5] Các đặc điểm Tai Bắc của Nùng An có thể được lý giải khi các cư dân nói nhóm Tai Bắc di cư vào vùng nói nhóm Tai Trung Tâm ở Cao Bằng. Sự pha trộn giữa Tai Bắc và Tai Trung Tâm cũng được tìm thấy ở tiếng Cao Lan và Tsưn-wa (Thôn Lão).[6]
- Nùng Giang được nói ở huyện Hà Quảng, Hạ Lang, Trà Lĩnh tỉnh Cao Bằng. Nùng Giang cũng được nói xuyên biên giới tại Bình Mãng (Pingmeng 平孟镇), huyện Tĩnh Tây, tỉnh Quảng Tây. Người Nùng Giang tự gọi mình là nung jang hoặc pou jang.[4] Theo Zheng (1996:3), các cư dân ở huyện Tĩnh Tây (Jingxi) thuộc Quảng Tây, nằm ngay phía bắc khu vực sinh sống của Nùng Giang tự gọi mình là ken2 tho3 hoặc jang1.[4] Các khu vực này tập trung đông đúc cư dân Tai; riêng tại Tĩnh Tây nơi nhóm này được phân loại là người Tráng, người Tai chiếm hơn 99%.[4]
Lạng Sơn
[sửa | sửa mã nguồn]- Nùng Phản Slình được nói ở huyện Cao Lộc, Bình Gia, Văn Quan, Chi Lăng tỉnh Lạng Sơn và huyện Yên Thế, Lạng Giang của tỉnh Bắc Giang. Phản/Fản Slình là một từ tiếng Nùng tương đương với Wancheng (萬承) trong tiếng Hán (Vạn Chửng trong tiếng Việt).[7] Trong địa phận huyện Đại Tân, Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay, từng tồn tại 8 trong số các thổ ty (tusi) tồn tại lâu nhất tại tây nam Trung Quốc, từ 1369-1906.[7] Chúng bao gồm: Xialei, Anping, Taiping, Engcheng, Quanming, Yangu, Mingying và Wancheng, được thiết lập vào năm thứ 2 triều Minh (1368-1644).[7] Tự gọi mình hoặc phương ngữ của mình là Phản/Fản Slình sẽ mang nghĩa là người Wancheng hoặc tiếng Wancheng, nói cách khác là một người Nùng từ thổ ty Wancheng.[7]
- Nùng Cháo được nói ở huyện Văn Quan, Văn Lãng, Tràng Định tỉnh Lạng Sơn, huyện Nà Rì tỉnh Bắc Cạn và huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên. Phương ngữ Nùng Cháo tương đồng với Tráng Long Châu của William J. Gedney. Nùng Cháo cũng gần như tương đồng với ngôn ngữ được Lý Phương Quế (Li Fang Kuei) gọi là Longzhou (Long Châu) nhiều năm về trước. Trong tác phẩm A Handbook of Comparative Tai (1977) của ông, Longzhou là một ví dụ về ngôn ngữ Tai Trung Tâm.[4] Nùng Cháo ở Việt Nam khác biệt chút ít về thanh điệu so với Longzhou của Lý Phương Quế tại Quảng Tây, Trung Quốc, nhưng có thể khẳng định rằng chúng là cùng một ngôn ngữ xét về tất cả các phương diện khác.[4]
- Nùng Inh được nói ở huyện Chi Lăng, Hữu Lũng, Bình Gia, Văn Quang tỉnh Lạng Sơn. Phương ngữ Nùng Inh tương đồng với Nùng Phía Tây của William J. Gedney ở Mường Khương, tỉnh Lao Cai.
Lào Cai
[sửa | sửa mã nguồn]- Nùng Dín được nói ở huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần thuộc tỉnh Hà Giang và Bắc Hà, Mường Khương thuộc tỉnh Lào Cai.[8] Nùng Dín cùng các phương ngữ Nùng ở Vân Nam Trung Quốc được coi là Nùng Phía Tây; đây là những phương ngữ Nùng nằm giáp ranh giữa nhóm Tai Trung Tâm và Tai Tây Nam.[8]
Khác
[sửa | sửa mã nguồn]Nùng Vẻn (En) là một ngôn ngữ trước kia không được phân loại ra khỏi các ngôn ngữ Tai Trung Tâm. Cuối thập niên 1990, nhà ngôn ngữ học Hoàng Văn Ma đầu tiên nhận ra nó không phải là một ngôn ngữ Tai. Năm 1998, Hoàng Văn Ma và Jerold A. Edmondson phát hiện đó là một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Kadai (Kra). Tỷ lệ tương đồng từ vựng giữa tiếng Nùng Vẻn và các phương ngữ Nùng khác là dưới 50%.[4] Người Nùng Vẻn sống tại bản Cja Tjeng, xã Nội Thôn (Hà Quảng), tỉnh Cao Bằng.[9] Vào năm 1998, họ cho biết dân số của mình là 200 người.[10] Họ tự gọi mình là Anh [aiɲ], người Nùng (Tai) địa phương quanh vùng gọi họ là Nùng Vẻn.[10] Người Nùng Vẻn không có ghi chép nào về nguồn gốc của mình và cũng không biết trước kia họ đã từng sống ở đâu, khi nào và bằng cách nào họ di cư tới Việt Nam.[4] Các nhà nghiên cứu thẩm định rằng Nùng Vẻn có quan hệ gần gũi nhất với tiếng Bố Ương (Buyang, 布央语). Các cư dân nói tiếng Nùng Vẻn được chính phủ Việt Nam phân loại là người Nùng.
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Độ chính xác của phần này đang bị tranh chấp. |
Các phương ngữ Nùng và tất cả các ngôn ngữ trong ngữ chi Tai như: Lào, Shan, Lự, Thái Đen, Ahom, Làn Nà, Thái Lan, Bố Y, Tráng đều phát triển từ cùng một tổ tiên chung gọi là Tai Nguyên Thủy (Proto-Tai). Tai Nguyên Thủy được phục nguyên bởi Lý Phương Quế năm 1977 và Pittayawat Pittayaporn năm 2009.
Vào năm 2000, một nghiên cứu do John Hartmann, Jerold A. Edmondson, Jingfang Li và những người khác thực hiện, kết hợp giữ ngôn ngữ học và hệ thống thông tin địa lý (GIS), cho rằng Tai Nguyên Thủy có nguồn gốc từ vùng ranh rới Quảng Tây—Quý Châu ngày nay và kỹ thuật tưới tiêu trong canh tác lúa nước sử dụng müangA1 (mương) và faiA1 (đập) đã tương đối phát triển vào thời đại của Tai Nguyên Thủy, khoảng 2000 năm trước hoặc xa hơn và kỹ thuật này bắt nguồn từ vùng ranh giới Quảng Tây—Quý Châu ngày nay chứ không phải Vân Nam hay trung lưu sông Trường Giang.[11][12] Do đó người Tai có khuynh hướng tập trung sinh sống ở các vùng đất thấp gần nguồn nước để trồng lúa nước. Tuy nhiên, James R. Chamberlain (2016) đưa ra các bằng chứng chứng minh rằng Tai Nguyên Thủy có nguồn gốc ven biển và di cư dọc bờ biển Đông tới vùng Quý Châu, Quảng Tây và miền bắc Việt Nam ngày nay từ vương quốc Yue tại Chiết Giang (Trung Quốc), nơi họ nói Be-Tai Nguyên Thủy (proto-Be-Tai), một dạng ngôn ngữ tồn tại trước Tai Nguyên Thủy.[13] Pittayawat Pittayaporn (2014), dựa vào các lớp từ mượn Hán Cổ qua các thời kỳ khác nhau trong Tai Tây Nam Nguyên Thủy và các bằng chứng lịch sử khác, cho rằng thời gian Tai Tây Nam di cư vào vùng Đông Nam Á (Lào, Thái Lan, Myanmar) diễn ra vào khoảng TK 8–TK 10.[14]
Jerold A. Edmondson thuộc đại học Texas, Arlington, trích dẫn bài báo của Phạm Hồng Quý (Fan Honggui 范宏貴) (1989), chỉ ra rằng người Thái (Thái Lan) và người Tráng có cùng một tên gọi chỉ người Việt Nam Keo (kɛɛuA1).[15][note 1] Từ này được lấy từ tên của một quận Trung Hoa gọi là Giao Chỉ (Jiaozhi 交址), thành lập ở Việt Nam khoảng năm 112 TCN, cùng tám quận khác: Nam Hải (Nanhai 南海), Uất Lâm (Yulin hay Guilin 郁林), Thương Ngô (Cangwu 苍梧), Hợp Phố (Hepu 合浦), Cửu Chân (Jiuzhen 九真), Nhật Nam (Rinan 日南), Châu Nhai (Zhuya 珠崖), và Đam Nhĩ (Dan'er 儋耳).[15] Giao Chi ban đầu được gọi là Kiao-chi. James R. Chamberlain cho rằng Kiao-chi khởi đầu dùng để chỉ lãnh thổ địa lý chứ không phải chỉ người.[18] Sau đó từ này được áp dụng rộng rãi cho các cư dân sống trong Kiao-chi, đầu tiên là đồng bằng bắc bộ Việt Nam và sau đó cho tất cả cư dân của An Nam.
Tai Nguyên Thủy | Thái Lan | Lào | Sapa | Bảo Yên | Cao Bằng | Longzhou | Shangshi | Giáy | Saek | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Người Việt Nam | *ke:wA | kɛ:wA1 | kɛːw | kewA1 | kɛ:wA1 | kɛwA1 | ke:wA1 | kewA1 | cewA1 | ke:wA1 |
- Dữ liệu lấy từ luận văn tiến sĩ The phonology of proto-Tai (2009:337) của Pittayawat Pittayaporn. Riêng tiếng Lào ແກວ /kɛːw/ lấy từ thư viện SEAlang.net.[1]
Chamberlain khi nghiên cứu về nguồn gốc của tiếng Saek, một ngôn ngữ Tai Bắc nằm cô lập giữa các ngôn ngữ Tai Tây Nam ở hai bên bờ sông Mê Kông tại miền trung Lào và đông bắc Thái Lan, cho rằng Saek là ngôn ngữ xa nhất về phía nam cuối cùng còn sót lại của một dải cư dân nói ngôn ngữ Tai Bắc (hay Be-Saek) trải dài từ vùng biên giới Việt-Trung, qua đồng bằng sông Hồng và tới các tỉnh ngày nay là Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình ở Việt Nam.[19] Do đó Saek không phải là ngôn ngữ Tai Bắc bị trục xuất và buộc phải di cư về phía nam ra khỏi các cư dân ban đầu ở Quảng Đông.[19] Người Saek, theo truyền thuyết truyền miệng của mình, di cư sang Lào và Thái Lan từ khu vực miền trung Việt Nam ngày nay khoảng 150-200 năm trước.[20][21][22] Điều này giải thích tại sao tiếng Saek lại có các từ mượn tiếng Việt, mặc dù ngày nay không còn người Saek nào ở Việt Nam.[22] William G. Boltz (1991) cho rằng tên gọi 12 con giáp trong tiếng Saek được mượn từ tiếng Hán trong khoảng thời gian từ năm 200—năm 600 và mặc dù có ảnh hưởng từ tiếng Việt nhưng không có bất cứ liên hệ trực tiếp nào.[23]
Hán tự | Hán Cổ thời kỳ sớm |
Hán Thượng Cổ | Tiếng Việt | Saek | |
---|---|---|---|---|---|
Chuột | 子 | tsɨ'/tsi' | *tsəʔ | tử / tý | tiː6 |
Trâu | 丑 | trʰuw' | *n̥ruʔ | sửu | tʰriw3 |
Hổ | 寅 | jin | *ɢər | dần | rɯn4 |
Thỏ | 卯 | maɨw'/ mɛːw' | *mˤruʔ | mẹo/mão | mɛːw4 |
Rồng | 辰 | ʥin | *dər | thin/thần | sin4 |
Rắn | 巳 | zɨ'/zi' | *s-ɢəʔ | tị | tiː5 |
Ngựa | 午 | ŋɔ' | *m.qʰˤaʔ | ngọ | ŋɔː5 |
Dê | 未 | mujʰ | *mət-s | mùj/vị | muj4 |
Khỉ | 壬 | ɲim | *nəm | thân | tʰrɯn1 |
Gà | 酉 | juw' | *m.ruʔ | dầu | raw3 |
Chó | 戌 | swit | *s.mit | tuất | tut4 |
Lợn | 亥 | ɣəj' | *gˤəʔ | hợi | hɤːj5 |
- Bảng được lấy từ "Saek as a not-so-aberrant Tai language", tác giả: Pittayawat Pittayaporn, trang 36. [2]
Vị trí trong ngữ chi Tai
[sửa | sửa mã nguồn]- André-Georges Haudricourt (1956) xếp Thổ (Tày) và Nùng cùng với Tai Tây Nam vào hai tiểu nhánh trong cùng một nhánh, trong khi Tai Bắc là một nhánh độc lập.
Tai Nguyên Thủy │ | |||||||||||||||||||||||
|
|||||||||||||||||||||||
│ Tai Bắc │ Vũ Minh, Po-ai Tien-chow, Giáy |
│ │ │ │ │ |
||||||||||||||||||||||
|
|||||||||||||||||||||||
│ Tai Trung tâm │ │ Thổ (Tày) Nùng Longzhou |
│ Tai Tây Nam │ │ Thái Lan Lào, Shan Ahom, Lự |
- Lý Phương Quế (Li Fang Kuei) (1977) đề xuất hệ thống phân loại gồm ba nhánh độc lập trong đó Thổ (Tày), Nùng được xếp vào nhánh Tai Trung tâm. Hệ thống phân loại này được xem là mô hình chuẩn trong lĩnh vực ngôn ngữ học so sánh các ngôn ngữ Tai.
Tai Nguyên Thủy │ | |||||||||||||||||||||||
|
|||||||||||||||||||||||
│ Tai Bắc │ │ Vũ Minh, Po-ai Tien-chow, Giáy |
│ Tai Trung tâm │ │ Thổ (Tày) Nùng Longzhou |
│ Tai Tây Nam │ │ Thái Lan Lào, Shan Ahom, Lự |
- Pittayawat Pittayaporn (2009) đưa ra hệ thống phân loại dựa trên sự biến đổi âm vị của các ngôn ngữ Tai.[24] Theo đó các ngôn ngữ có cùng một dạng biến đổi âm vị được xếp vào cùng nhóm. Một ngôn ngữ Tai được xếp vào một tiểu nhóm trong cùng một nhánh phải có cùng kiểu biến đổi âm vị với các ngôn ngữ Tai khác trong nhánh đó. Ví dụ, Thái Lan được xếp vào tiểu nhóm Q vì ngôn ngữ này có các biến đổi âm vị cũng tồn tại ở các ngôn ngữ thuộc nhánh A và các nút E, G, K, O và Q. Trong hệ thống phân loại này Tai Trung tâm không tồn tại vì Pittayaporn cho rằng các tiêu chuẩn mà Lý Phương Quế dùng để phân loại Tai Trung tâm cũng tồn tại ở cả bốn nhánh A, B, C, D.
Tai Nguyên Thủy │ |
||||||||||||||||||||||||
|
||||||||||||||||||||||||
│ A │ │ |
│ B │ Ningming |
│ C │ Chongzuo, Shangshi, Cao Lan |
│ D │ │ |
|||||||||||||||||||||
|
|
|||||||||||||||||||||||
│ E │ │ |
│ F │ Longzhou, Leiping |
│ I │ Qinzhou |
│ J │ │ |
|||||||||||||||||||||
|
|
|||||||||||||||||||||||
│ G │ │ │ │ │ |
│ H │ Lungming, Daxin |
│ M │ Vũ Minh, Yongnan, Long'an, Fusui |
│ N │ Seak, Po-ai, Giáy, Lingyue, Rong'an, Quibei, Bố Y ..v..v.. | |||||||||||||||||||||
|
||||||||||||||||||||||||
│ K │ │ |
│ L │ Debao, Jingxi, Nùng Inh, Nùng Guangnan, Nùng Yanshan |
|||||||||||||||||||||||
|
||||||||||||||||||||||||
│ O │ │ │ |
│ P │ Bảo Yên, Cao Bằng, Wenma |
|||||||||||||||||||||||
|
||||||||||||||||||||||||
│ Q │ Thái Lan, Lào, Shan, Thái Đen, Thái Trắng, Làn Nà, Phu Thai, Dehong, Tai Aiton, Tai Phake, Shan Phía Nam, Lự, Nyo, Yoy, Kaloeng, Phuan..v..v.. |
│ R │ Sapa |
Từ vựng
[sửa | sửa mã nguồn]Từ thuần Tày Nùng
[sửa | sửa mã nguồn]Các từ thuần Tai chiếm tuyệt đại đa số trong kho từ vựng và thường thuộc vốn từ cơ bản, có mặt ở tất cả các lớp từ, nhất là các từ chỉ các hiện thượng thiên nhiên, các bộ phận cơ thể, các hoạt động, tính chất...
Mừ (tay), nả (mặt), đông/đung (rừng), tha vằn (mặt trời), kin (ăn), pay (đi), nòn (ngủ), hảy (khóc), đeng (đỏ), đay (tốt), slâư (trong, sạch), cau (tao)...
Từ mượn tiếng Hán
[sửa | sửa mã nguồn]Các từ mượn tiếng Hán đi vào vốn từ vựng tiếng Tày Nùng vào những thời kỳ khác nhau. Đối với nhiều từ, người Tày Nùng hiện nay không ý thức được đấy là những từ mượn gốc Hán nữa.
- Số từ: ết (một), nhì (hai), slam (ba), pét (tám)...
Số đếm | Nùng[25] | *Tai Nguyên Thủy[26] Pittayaporn (2009) |
Hán Cổ[27] | Hậu Hán[27] | *Hán Thượng Cổ[27] |
---|---|---|---|---|---|
2 | ɬoŋ35 | *so:ŋA | ṣåŋ | ṣɔŋ | *srôŋ |
3 | ɬam35 | *sa:m | sâm | sɑm/ səm | *sə̂m |
4 | ɬi13 | *si:B | siC | sis | *sis/ slis |
5 | ha31 | *ha:C | ŋuoB | ŋɑB | *ŋâɁ |
6 | hoːk31 | *krokD | ljuk | liuk | *ruk; *C-rjuk (Baxter) |
7 | ɕɛt35 | *cetD | tsʰjet | tsʰit | *tsʰit < *snhit |
8 | pet13 | *pe:tD | păt | pɛt | *prêt |
9 | kau31 | *kɤwC | kjəuB | kuB | *kuɁ/ kwəɁ |
10 | ɬiːp35 | *sipD (Li 1977)[28] | dʑip[28] | — | *gip[28] |
- Động vật, sự vật: mạ (ngựa), an (yên ngựa), tắng (ghế), chỉa (giấy)...
- Từ chỉ tính chất: quảng (rộng), đáo (hồng)...
- Từ chỉ hoạt động: xỉnh (mời), chiềng (thưa), sleng (sinh), sloán (tính)...
- Từ xưng hô: nỉ (cậu, anh), ngỏ (tôi, tớ)...
Từ mượn tiếng Việt
[sửa | sửa mã nguồn]Từ mượn tiếng Việt gồm hai loại lớn: từ thuần Việt và từ Việt gốc nước ngoài (chủ yếu là từ Hán-Việt)
- Các từ mượn thuần Việt là những từ thường dùng hàng ngày: hòm (hòm), khóa (khóa), đồng hồ (đồng hồ), xe đạp (xe đạp)...
- Các từ mượn Hán-Việt là các thuật ngữ thuộc lĩnh vực kinh tế, chính trị, kỹ thuật và các hiện tượng xã hội: chính phủ, hành chính, toán, văn, công nhân, điện, mậu dịch, bệnh viện, nông trường...
Đại từ nhân xưng
[sửa | sửa mã nguồn]Ngôi thứ nhất | Ngôi thứ 2 | Ngôi thứ 3 | |
---|---|---|---|
Số ít | Khỏi (tôi) | mầư/mầng/mưng | mền/te |
Ngỏ (tôi, tớ) | nỉ | ||
Câu, cau (tao) | |||
Số nhiều | boong khỏi | boong mầư | boong mền |
boong ngỏ | boong nỉ | ||
boong câu/cau |
Các đại từ số ít được dùng trong những cảnh huống khác nhau.
Khỏi là đại từ được người ở vị trí thấp sử dụng để xưng với những người ở vị thế cao hơn, có giá trị biểu cảm lịch sự, kính trọng.[29]
Câu/Cau tạo thành cặp xưng hô tương liên Câu/Cau (tao) - Mầư/Mưng (mày). Tùy theo vị thế của người sử dụng, câu/cau có sắc thái biểu cảm khác nhau: thân mật, suồng sã...[29]
Ngỏ tạo thành cặp xưng hô tương liên với nỉ (ngôi thứ 2). Ngỏ thường thường được sử dụng để xưng hô giữa những người có vị thế ngang vai. Với sắc thái thân mật gần gũi, ngò được dùng rộng rãi trong nhiều hoàn cảnh giao tiếp khác nhau: giữa bạn bè, vợ chồng...[29]
Ngoài những đại từ dùng trên, trong tiếng Tày Nùng còn có các đại từ xưng gọi ngôi gộp, như: hau (ta), ràu/làu (mình), rà (mình). Những đại từ này được sử dụng nhiều trong thơ ca dân tộc Tày Nùng.[30]
So sánh
[sửa | sửa mã nguồn]Giữa một số phương ngữ Nùng
[sửa | sửa mã nguồn]Các phương ngữ Nùng |
Nùng Giang | Nùng Lòi | Nùng Phản Slình |
Nùng Inh | Nùng Cháo | Nùng An |
---|---|---|---|---|---|---|
Nùng Dín | 80% 80/100 |
81% 81/100 |
79% 79/100 |
79% 79/100 |
80% 80/100 |
76% 76/100 |
Nùng Giang | 90% 90/100 |
86% 86/100 |
86% 86/100 |
87% 87/100 |
82% 82/100 | |
Nùng Lòi | 94% 94/100 |
95% 95/100 |
96% 96/100 |
83% 83/100 | ||
Nùng Phản Slình |
96% 96/100 |
96% 96/100 |
82% 82/100 | |||
Nùng Inh | 94% 94/100 |
79% 79/100 | ||||
Nùng Cháo | 80% 80/100 |
Giữa một số phương ngữ Nùng và Tày
[sửa | sửa mã nguồn]Các phương ngữ |
Nùng Giang | Nùng Lòi | Nùng Phản Slình |
Nùng Inh | Nùng Cháo | Nùng An | Tày Hòa An | Tày Tràng Định |
Tày Hoàng Su Phì |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Nùng Dín | 383/495 77,37% |
390/487 80,08% |
370/490 75,51% |
376/491 76,57% |
385/486 79,21% |
349/489 71,37% |
389/489 78,52% |
380/490 77,55% |
433/482 89,83% |
Nùng Giang | 422/486 86,83% |
406/492 82,52% |
414/491 84,31% |
421/488 86,27% |
370/496 74,59% |
410/496 82,66% |
424/498 85,14% |
364/487 74,74% | |
Nùng Lòi | 425/485 87,62% |
431/486 88,68% |
428/480 89,16% |
374/482 77,59% |
423/485 87,21% |
433/488 88,72% |
377/480 78,54% | ||
Nùng Phản Slình |
433/491 88,18% |
443/492 90,04% |
361/491 73,52% |
402/491 81,87% |
415/492 84,34% |
361/482 74,89% | |||
Nùng Inh | 451/490 92,04% |
382/488 78,27% |
411/491 83,70% |
435/490 88,77% |
373/481 77,54% | ||||
Nùng Cháo | 373/489 76,27% |
417/489 85,27% |
412/488 84,42% |
371/479 77,45% | |||||
Nùng An | 355/491 72,30% |
377/492 76,62% |
325/482 67,42% | ||||||
Tày Hòa An |
466/495 94,14% |
385/487 79,05% | |||||||
Tày Tràng Định |
389/486 80,04% |
- 383/495: số lượng từ tương đồng/tổng số từ được so sánh giữa hai phương ngữ.
- 77,37%: tỷ lệ tương đồng từ vựng giữa hai phương ngữ.
So sánh với một số ngôn ngữ Tai Tây Nam
[sửa | sửa mã nguồn]Tiếng Shan được nói tại tiểu bang Shan của Myanmar.
Tiếng Tai Aiton còn khoảng 2000 người nói tại hai quận Golaghat và Karbi Anglong, bang Assam, Ấn Độ.
Tiếng Tai Phake còn khoảng 2000 người nói tại hai quận Dibrugarh và Tinsukia, bang Assam, Ấn Độ. Tai Phake trong bảng dưới đây được nói tại làng Namphakey, quận Dibrugarh, bang Assam, Ấn Độ
Tiếng Tai Ahom được nói tại bang Assam và Arunachal Pradesh, Ấn Độ. Ngôn ngữ này được nói bởi người Ahom (Tai Ahom). Họ di cư từ Mờng Mao (Mong Mao), một vương quốc nhỏ nằm ở vùng biên giới ngày nay giữa tiểu bang Shan, Myanmar và tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, đến miền đông Ấn Độ và thành lập vương quốc Ahom ở đó, tồn tại từ 1228–1826 khi bị người Anh sáp nhập vào thuộc địa Ấn Độ. Mặc dù có dân số hơn 2 triệu người, nhưng ngày nay người Tai Ahom nói tiếng Assam, một ngôn ngữ thuộc nhánh Indo-Aryan trong ngữ hệ Ấn-Âu (Indo-European). Đến năm 2000, chỉ còn khoảng 200 thầy cúng biết tiếng Tai Ahom. Ngôn ngữ này chỉ còn được sử dụng cho việc cúng bái trong tín ngưỡng truyền thống của người Tai Ahom
Nghĩa | Tai Nguyên Thủy |
Nùng Dín |
Nùng Giang |
Nùng Lòi |
Nùng Phản Slình |
Nùng Inh |
Nùng Cháo |
Nùng An |
Tày Hòa An |
Tày Tràng Định |
Tày Hoàng Su Phì |
Thái Lan Chuẩn |
Lào Chuẩn |
Shan | Tai Aiton |
Tai Phake |
Tai Ahom |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Ăn | *kɯɲA | cǐn323 | kǐn33 | kǐn33 | kǐn33 | kǐn33 | kǐn33 | kɤ̌n33 | kǐn33 | kǐn33 | cǐn323 | kin1 | kìn | kin1 | kin2 | kin2 | kin |
Bay | *ɓilA | ʔbăn323 | ʔbăn33 | ʔbǐn33 | ʔben33 | ʔbǐn33 | ʔbǐn33 | ʔbĕn323 | ʔbɤ̆n33 | ʔben33 | ʔbɛ̆n323 | bin1 | bìn | min1 | bin2/ min2 |
— | bin |
Bơi | *lo:jA | săw323 | pop45 pja33 |
vaj323 | vjw31 | vaj323 | pɔt33 pja33 |
ʑiw31 | lɔj31 | lɔj31 | lɔj33 | lɔ:j1/ wa:j3 |
lɔ́ːy/ wȁːy |
luj4/ waaj3 |
lɔi2 | lɔi2 nam4/ pʰa:i2 |
loi |
Bụng | *dwu:ŋC | toŋ45 | toŋ21 | mŭk45 mɔ̆k45 |
tɔŋ21 | tɔŋ21 | mŭk45 | tŭŋ33 | d̤ɔŋ21 | tɔŋ21 | mɛ31 tɔŋ21 |
tʰɔ:ŋ4 | tʰɔ̑ːŋ | tɔŋ5 | tɔŋ3 | tauŋ4 | tong |
Cá | *pla:A | pa323 | pja33 | pja33/ ca33 |
pa33 | ca33 | pja33 | pa33 | pja33 | pja33 | pja323 | pla:1 | paː | pa:1 | pa:2 | pa:2 | pa |
Cái gì |
— | ka31 răŋ33 |
ki33 răŋ33 |
ka33 lăŋ33/ i45 lăŋ33 |
ʔăn33 lăŋ31 |
ʔăn33 lăŋ33 |
ʔăn33 lăŋ33/ ŋɛ45 lăŋ33 |
ʔăn33 mɯŋ21 |
ʔăn33 lăŋ33 |
ʔăn33 lăŋ33 |
ka31 răŋ33 |
ʔa raj1 |
ʔīː ɲǎŋ |
ʔi3 sʰaŋ1 |
ka1 saŋ1 |
ka3 saŋ6 |
— |
Cát | *zwɯəjA | saj33 | ɬaj31 | ɬaj323 | ɬaj33 | ɬaj31 | hĭn33 ɬaj31 |
ɬaj31 | raj31 | zaj31 | ɬaj33 | sa:j2 | sáːy | sʰa:j4 | sa:i2 | sa:i2 | sai |
Chân | *p.qa:A | kʰa323 | kʰa33 | kʰa33 | kʰa323 | kʰa33 | kʰa33 | kʰa323 | kʰa33 | kʰa33 | kʰa323 | kʰa:5 | kʰăː | kʰaa1/ kaaw3 |
kʰa:1/ ka:u3 |
kʰa:6 | kʰa |
Chết | *p.ta:jA | tʰaj323 | tʰaj33 | haj33/ tʰaj33 |
tʰaj323 | tʰaj33 | haj33 | tʰaj323 | tʰaj33 | tʰaj33 | tʰaj323 | ta:j1 | tàːy | taaj1 | ta:i2 | ta:i2 | tai |
Chim | *C̬.nokD | nɔk33 | nɔ̆k21 | nŭk21/ nɔk21 |
nɔk21 | nɔk21 | nŭk21 | nɔk21 | nŏk21 | nŏk21 | nɔk45 | nok4 | nōk | nok5 | nuk3 | nok4 | nuk |
Chó | *ʰma:A | ma323 | ma33 | ma33 | ma33 | ma33 | ma33 | ma33 | ma33 | ma323 | ma323 | ma:5 | măː | maa1 | ma:1 | ma:6 | ma |
Cổ | *ɣo:A | kɔk45 ho33 |
vo31 | ko31/ kʰɔ31 |
ho33 | hɔ31 | kɔ31 | hɔ31 | gɔ31 | kɔ31 | kʰɔ33 | kʰɔ:1 | kʰɔ́ː | kʰɔ4 | kʰɔ2 | kʰɔ2 | kʰo |
Dài | *rɯjA | ri33 | rɤ̆j31 | ɬi31 | hi33 | li33 | ɬi33 | răj31 | ri31 | ɬi31 | ri33 | ri:A2 | lŭaːy | hi4 | li:2 | hi:2 | ri |
Đá | *tri:lA | mak21 pa323 |
tʰɤ̆n33 | hĭn33/ tʰĭn33 |
tʰĭn323 | tʰĭn33 | hĭn33 | tʰĭn33 | tʰĭn33 | hĭn33 | hĭn323 | hin5 | hĭn | hin1 | hin1 | hin6 | rin |
Đàn bà |
— | pʰu31 ɲĭŋ33 |
me323 ɲĕŋ31 |
ti11 mɛ11/ mɛ33 ɲiŋ31 |
tɔj31 mɛ11 |
tɔj11 mɛ11 |
tɔj31 mɛ11 |
hun31 ʔbɯk45 |
mɛ323 ɲĭŋ31 |
mɛ323 ɲĭŋ31 |
pʰu31 ɲĭŋ33 |
jiŋ5 | pʰȕː ɲíŋ |
mɛ3 jiŋ4 |
ʒin2 | jiŋ6 | nying |
Đàn ông |
*ʑa:jA | pʰu31 caj33 |
po323 saj31 |
ti11 pɔ11/ pʰu323 saj31 |
tɔj31 po11 |
tɔj31 pɔ11 |
tɔj31 pɔ11 |
hun31 ɬaj323 |
b̤ɔ323 zaj31 |
pɔ323 caj31 |
pʰu31 caj31 |
cʰa:j1 | pʰȕː sáːy |
kon4 tsaaj4 |
— | ca:i2 | cʰai |
Không (phủ định) |
*ɓawB/ *bo:B/ *mi:A |
ʔbo31 | mɤ̆j31 | mi31 | mi45 | mi45 | mi45 | ʔbɔ21 | ʔbo45 | bɤ̆w45 | ʔbo31 | maj3 | bɔ̄ː | maw2 | am² | ɯŋ2 | — |
Người | *ɢwɯnA | kɔ̆n33 | kɤ̆n31 | kʰɯ̆n31 | kɯ̆n31 | kɯ̆n31 | kɯ̆n31 | hŭn31 | kɤ̆n31 | kɤ̆n31 | kăn33 | kʰon1 | kʰón | kon4 | kun2 | kon2 | kun |
Nghĩa | Tai Nguyên Thủy |
Nùng Dín |
Nùng Giang |
Nùng Lòi |
Nùng Phản Slình |
Nùng Inh |
Nùng Cháo |
Nùng An |
Tày Hòa An |
Tày Tràng Định |
Tày Hoàng Su Phì |
Thái Lan Chuẩn |
Lào Chuẩn |
Shan | Tai Aiton |
Tai Phake |
Tai Ahom |
- Nùng Dín, Nùng Giang, Nùng Lòi, Nùng Phản Slình, Nùng Inh, Nùng Cháo, Nùng An, Tày Hòa An, Tày Tràng Định, Tày Hoàng Su Phì: Vị trí tiếng Nùng Dín trong quan hệ với các phương ngữ Nùng và Tày ở Việt Nam (2004), tác giả: Lê Văn Trường, trang: 201-208.
- Tai Nguyên Thủy: The Phonology of Proto-Tai (2009), tác giả: Pittayawat Pittayaporn, trang: 323-361 [3].
- Tai Ahom: thư viện SEAlang Library (Ahom) [4].
- Thái Lan, Lào, Shan, Tai Aiton, Tai Phake: Austronesian Basic Vocabulary Database [5] Lưu trữ 2015-05-24 tại Wayback Machine; Thai dictionary (SEAlang) [6]; Lao dictionary (SEAlang) [7]; Shan dictionary (SEAlang) [8].
Chữ Nùng Latinh của SIL
[sửa | sửa mã nguồn]Bộ chữ Nùng Latinh của Viện Ngôn Ngữ Học Mùa Hè (Summer Institute of Linguistics - SIL International) dựa trên thổ ngữ của người Nùng Phản Slình tại tỉnh Bắc Giang. Năm 1954 có mấy ngàn người di cư sang miền nam Việt Nam và ở lại tỉnh Tuyên Đức.[33] Người Nùng Phản Slình tự gọi họ là Nŏng (Nohng).[33]
Nùng Phản Slình Bắc Giang gồm sáu thanh. Tất cả sáu thanh đều đọc như tiếng miền bắc Việt Nam, trừ dấu ngã (~).[33] Dấu (~) trong tiếng Nùng thì âm hơi cao lên với tắc âm thanh môn sau.[33] Sáu thanh đó là: (1) cao lên (,), (2) cao lên với tắc âm thanh môn ở cuối chữ (~), (3) trung (bằng) không dấu, (4) thấp đi lên (?), (5) trung (thấp) xuống (`), và (6) thấp với tắc âm thanh môn (.).[33]
Phiên âm | Chữ | Chú thích | Thí dụ | Nghĩa |
---|---|---|---|---|
/p/ | p | pảc | miệng | |
/t/ | t | tảu | rùa | |
/č/ | ch | chéhp | đau | |
/k/ | k | trước i, ih, e, eh, ê | kì | vài |
kíhn | ăn | |||
kéng | canh | |||
kền | quấn | |||
c | trước các âm khác | cưhn | người | |
cảu | cũ | |||
/ʔ/ | không ghi | |||
/pʰ/ | ph | phỏhm | tóc | |
/tʰ/ | th | thả | mắt | |
/kʰ/ | kh | khảy | mở | |
/b/ | b | béhn | bay | |
/d/ | đ | đày | được | |
/f/ | f | fay | bếp, lửa | |
/v/ | v | vahn | ngày | |
/w/ | o | bán mẫu âm o đặt ở cuối chữ sau một nguyên âm dài | ||
u | bán mẫu âm u đặt ở cuối chữ sau một nguyên âm ngắn | |||
/s/ | s | sãu | sớm | |
/ɬ/ | sl | slíhp | mười | |
/l/ | l | lán | con cháu | |
/ž/ | d | dụ | ở | |
/j/ | i | bán mẫu âm i đặt ở cuối chữ sau một nguyên âm dài | ||
y | bán mẫu âm y đặt ở cuối chữ sau một nguyên âm ngắn | |||
/h/ | h | hảhn | thấy | |
/m/ | m | mahn | khoai | |
/n/ | n | non | nằm, ngủ | |
/ñ/ | nh | nhà | thuốc | |
/ŋ/ | ng | ngưhn | bạc |
Phiên âm | Chữ | Chú thích | Thí dụ | Nghĩa |
---|---|---|---|---|
/i./ | i | nguyên âm dài | pí | năm |
/i/ | ih | nguyên âm ngắn | píhc | cánh |
/e./ | ê | nguyên âm dài | sện | rẻ |
/ɛ/ | eh | nguyên âm ngắn | péht | vịt |
/æ./ | e | nguyên âm dài | khẻng | cứng |
/ɨ./ | ư | nguyên âm dài | slứ | hổ |
/ɨ/ | ưh | nguyên âm ngắn | khừhn | lên |
/ə./ | ơ | nguyên âm dài | pởt | ướt |
/a/ | ah | nguyên âm ngắn | áhn | cái |
hah đọc là haư | hah (haư) | nào | ||
/a./ | a | nguyên âm dài | pá | cá |
/u./ | u | nguyên âm dài | tú | con |
/u/ | uh | nguyên âm ngắn | lụhc | con |
/o./ | ô | nguyên âm dài | cộn | hòn |
/ɔ/ | oh | nguyên âm ngắn | đóhng | rừng |
/ɔ./ | o | nguyên âm dài | slón | dạy |
- Đoạn văn mẫu
Một đoạn văn mẫu từ Sáng Thế Ký 1 (Genesis 1) trong Kinh Thánh:
Càng Nohng[34] (Tiếng Nùng) |
Latina[35] (Tiếng Latinh) |
Tiếng Việt[36] |
Mự-ni tau-sli Kể Vú Fã hẻht fã sạu áhn tị-dạ ọc ma pehn này. | In principio creavit Deus caelum et terram. | Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất. |
Lúhc tế sahng hảhn pehn táhc lộ, slỉ tị nhahng đáhm-lihn; lẽo Slíhng Kể Vú Fã páy tẹo dụ cháng áhn tị đáhm tế. | Terra autem erat inanis et vacua et tenebrae erant super faciem abyssi, et Spiritus Dei ferebatur super aquas. | Vả, đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực; Thần Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước. |
Lẽo Kể Vú Fã hã vạ: Áhn hụhng pển ọc ma. Chỉhng mi áhn hụhng. | Dixitque Deus: Fiat lux. Et facta est lux. | Đức Chúa Trời phán rằng: Phải có sự sáng; thì có sự sáng. |
Kể Vú Fã chểu hảhn áhn hụhng đáy, chỉhng páhn ọc ma mi áhn hụhng áhn đáhm. | Et vidit Deus lucem quod esset bona: et divisit lucem a tenebris. | Đức Chúa Trời thấy sự sáng là tốt lành, bèn phân sáng ra cùng tối. |
Lẽo Kể Vú Fã hã vạ: áhn hụhng dụ pehn tahng vahn, áhn đahm dụ pehn tahng hựhn; lúhc tế hẻht vahn tại éht. | Appellavitque lucem Diem, et tenebras Noctem; dies unus. | Đức Chúa Trời đặt tên sự sáng là ngày; sự tối là đêm; ấy là ngày thứ nhứt. |
Chữ Nùng Latinh 1961
[sửa | sửa mã nguồn]Chữ Tày Nùng Latinh được chính phủ Việt Nam phê chuẩn năm 1961 cho khu tự trị Việt Bắc (1956-1975). Chữ Tày Nùng Latinh được xây dựng dựa trên cơ sở chữ quốc ngữ: cùng con chữ, cùng một cách ghép vần đối với những âm tiết giống nhau.[37] Bảng chữ cái Tày Nùng chỉ được dạy trong các trường tiểu học trong một thời gian ngắn vào thập niên 1960, rồi sau đó rơi vào quên lãng.[38] Bảng chữ cái này không được truyền bá sử dụng trong cộng đồng.[38] Ngay cả những phát thanh viên tiếng Tày Nùng tại các đài phát thanh vùng nói tiếng Tày Nùng cũng không biết bảng chữ cái này.[38] Họ viết tin tức để đọc trong các chương trình phát thanh bằng ký tự riêng của mỗi người giống các phát thanh viên tiếng Dao ngày nay đang làm.[38]
Phiên âm | Chữ | Thí dụ | Nghĩa |
---|---|---|---|
/ɓ/ | b | bẻ | dê |
/k/ | c,k,q | cáy | gà |
ki | còi | ||
quai | khôn | ||
/z/ | d | dú | ở |
/ɗ/ | đ | đo | đủ |
/f/ | f | fạ | trời |
/h/ | h | hai | trăng |
/l/ | l | lăng | lưng |
/m/ | m | ma | chó |
/n/ | n | nà | ruộng |
/r/ | r | rụ | biết |
/p/ | p | pu | cua |
/s/ | x | xu | tai |
/t/ | t | tu | cửa |
/v/ | v | và | sải |
/ɲ/ | nh | nhả | cỏ |
/c/~/tɕ/ | ch | chả | mạ |
/ŋ/ | ng | ngà | vừng |
/tʰ/ | th | tha | mắt |
/kʰ/ | kh | kha | chân |
/pʰ/ | ph | phải | vải |
/ɬ/ | sl | slam | ba |
/ɓj/ | bj | bjoóc | hoa |
/mj/ | mj | mjạc | trơn |
/pj/ | pj | pja | cá |
/pʰj/ | phj | phja | núi đá |
những âm địa phương | |||
/t'/ | t' | t'ả | sông |
/w/ | w | wằn | ngày |
/j/ | z | za | thuốc |
/ɣ/ | g | gần | người |
Những âm mượn tiếng Việt | |||
/ / | gi | giờ | |
/tʂ/ | tr | trường | |
/ʂ/ | s | (học) sinh |
Phiên âm | Chữ | Thí dụ | Nghĩa |
---|---|---|---|
/a/ | a | ca | con quạ |
/ă/ | ă | mắn | vững chắc |
/ə/~/ɤ/ | ơ | tơ | tơ lụa |
/ə̆/~/ɤ̌/ | â | bân | bay |
/ɛ/ | e | bén | cái mẹt |
/e/ | ê | mên | thối, hôi |
/i/ | i | tin | chân |
/u/ | u | mu | lợn |
/ɨ/~/ɯ/ | ư | mử | mợ |
/ɔ/ | o | mỏ | nồi |
/o/ | ô | nồm | sữa |
/iə/ | iê, ia | 1.niêng; 2.mìa | 1.diều; 2.vợ |
/uə/ | uô, ua | 1.tuống; 2.tua | 1.dây quai; 2.con |
/ɨə/~/ɯɤ/ | ươ, ưa | 1.nưới; 2.mừa | 1.mệt; 2.về |
- Các nguyên âm dài: i, u,ư...trong các ngành Nùng sẽ được thể hiện bằng hai chữ cái, như: khiing (gừng), khuúp (đầy năm)[41]...
- Thêm ký hiệu để ghi thanh lửng trong tiếng Nùng: dùng một gạch ngang nhỏ đặt dưới âm chính.[41]
- Ta (sông)- tả (bỏ)
- Pinh (bệnh) - Pỉnh (nướng)
- Đánh dấu sắc (') các từ có kết cấu là âm tiết khép: hap (cách viết theo phương án không dấu) ---> háp (gánh)[41]
Tên | Dấu | Nét |
---|---|---|
Không dấu | ˧ | |
Dấu sắc | ↗ | ˧˥ |
Dấu huyền | ↘ | ˨˩ |
Dấu hỏi | ʔ | ˧˩˧ |
Dấu nặng | . | ˧˨ˀ |
Trong phương án có dùng dấu ngã /~/ để ghi các từ mượn từ tiếng Việt. Trong phương án không có ký hiệu để ghi thanh lửng, những từ mang thanh lửng đều được thể hiện bằng thanh hỏi /?/.[42]
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Michel Ferlus (2009) chỉ ra rằng Giao (jiāo 交) trong Giao Chỉ và Keo (kɛːwA1), một tên gọi mà các dân tộc Tai dùng để chỉ dân An Nam, có cùng gốc với tộc danh của người Lào (lǎo 獠) và Gelao (Cờ Lao) một nhóm thuộc nhánh Kra.[16] Chúng bắt nguồn từ nguyên ngữ *k.raːw.[16] Các phục nguyên cho jiāo 交 và lǎo 獠 như sau[16]:
jiāo 交 < Hán Cổ *kæw < Hán Thượng Cổ *kraw [k.raw]lǎo 獠 < Hán Cổ *lawX < Hán Thượng Cổ *C-rawʔ [C.rawˀ]
kɛːwA1 khởi nguyên là tên gọi mà các nhóm dân khác dùng để chỉ các dân tộc Tai và chỉ sau này mới được sử dụng để chỉ dân An Nam. Trong tiếng Pu Péo (nhánh Kra), kew vẫn được dùng để chỉ người Tày ở miền bắc Việt Nam[17].
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. Hà Nội, 6-2010. Biểu 5, tr.134-225. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2011.
- ^ a b Dân tộc Nùng. Lưu trữ 2013-01-11 tại Wayback Machine Cổng giao tiếp điện tử tỉnh Yên Bái. Truy cập 02/5/2011.
- ^ Viện Dân tộc học (1983). Sổ tay về các dân tộc ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. tr. 135.
- ^ a b c d e f g h The university of Texas at Arlington. Map and language descriptions. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2014.
- ^ a b Nicolson, Beth (2000), The Nung An Language of Vietnam: Stepchild or Aberrant Son ? In The Fifth International Symposium on Languages and Linguistics. Hochiminh City: Vietnam National University, Ho Chi Minh City University of Social Sciences and Humanities, p. 267.
- ^ Strecker, David (1985). The classification of the Caolan languages. In Southeast Asian Linguistic Studies Presented to André-G. Haudricourt (Suriya Ratanakul, David Thomas and Suwilai Premsrirat, eds., Mahidol University, Bangkok, 1985).
- ^ a b c d Wangsgard, David B. (2009). Here We are All Brothers: Gender Relations and the Construction of Masculine Identities in a Nung Fan Sling Village. Department of sociology and anthropology, Simon Fraser University: pp 15.
- ^ a b Luận án tiến sĩ ngữ văn Viện ngôn ngữ học & Lê Văn Trường (2004). Vị trí tiếng Nùng Dín trong quan hệ với các phương ngữ Nùng và Tày ở Việt Nam. Hà Nội. tr. 11.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Bảo tồn, gìn giữ bản sắc văn hóa của người Nùng Vẻn. Hoàng Thị Nhuận (2014). Lưu trữ 2014-10-19 tại Wayback Machine Báo Cao Bằng điện tử.
- ^ a b The university of Texas at Arlington & Jerold A.Edmondson. Notes on the Subdivision in Kra (PDF). Arlington. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2014.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Luo, Wei; Hartmann, John; Li, Jinfang; Sysamouth, Vinya (December 2000). GIS Mapping and Analysis of Tai Linguistic and Settlement Patterns in Southern China. Geographic Information Sciences (DeKalb: Northern Illinois University) 6 (2): 129–136
- ^ Rachel Hauser (ngày 28 tháng 3 năm 2002). Tais that Bind". Socioeconomic Data and Applications Center DAAC.
- ^ Chamberlain, James R. (2016). Kra-Dai and the Proto-History of South China and Vietnam. Journal of the Siam Society, Vol. 104: 28-71.
- ^ Pittayaporn, Pittayawat (2014). Layers of Chinese Loanwords in Proto-Southwestern Tai as Evidence for the Dating of the Spread of Southwestern Tai. MANUSYA: Journal of Humanities, Special Issue No 20: 47-64.
- ^ a b Department of Linguistic and TESOL University of Texas, Arlington & Jerold A. Edmondson. the power of language over the past: Tai settlement and Tai linguistics in southern China and northern Vietnam (PDF). tr. 15. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2014.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ a b c Ferlus, Michel (2009). Formation of Ethnonyms in Southeast Asia. 42nd International Conference on Sino-Tibetan Languages and Linguistics, Nov 2009, Chiang Mai, Thailand. 2009, pp.3-4.
- ^ Ferlus, Michel (2009). Formation of Ethnonyms in Southeast Asia. 42nd International Conference on Sino-Tibetan Languages and Linguistics, Nov 2009, Chiang Mai, Thailand. 2009, p. 4.
- ^ Chamberlain, James R. (1998). The Origin of the Sek: Implications for Tai and Vietnamese History". Journal of the Siam Society 86.1 & 86.2: 46.
- ^ a b Chamberlain, James R. (1998). The Origin of the Sek: Implications for Tai and Vietnamese History". Journal of the Siam Society 86.1 & 86.2: 44.
- ^ William J. Gedney. THE SAEK LANGUAGE OF. NAKHON PHANOM PROVINCE". trang 68.
- ^ Joachim Schliesinger. Ethnic Groups of Thailand: Non-Tai-Speaking Peoples". trang 56.
- ^ a b Paul Hattaway. Peoples of the Buddhist World: A Christian Prayer Diary". trang 231.
- ^ Boltz, William G. (1991). "The Old Chinese Terrestrial Rames in Saek", in William G. Boltz and Michael C. Shapiro (eds) Studies in the Historical Phonology of Asian Languages: John Benjamins, pp.60, 65.
- ^ Pittayaporn, Pittayawat (2009). The Phonology of Proto-Tai (Luận văn). Department of Linguistics, Cornell University. tr. 298–322.
- ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2015.
- ^ Pittayaporn, Pittayawat (2009). The Phonology of Proto-Tai (PDF) (Luận văn). Department of Linguistics, Cornell University. tr. 358.
- ^ a b c Pittayaporn, Pittayawat (2009). The Phonology of Proto-Tai (PDF) (Luận văn). Department of Linguistics, Cornell University. tr. 375–376.
- ^ a b c The Genetic Position of Chinese Tác giả: Guillaume Jacques, trang 2.
- ^ a b c Trung tâm bồi dưỡng cán bộ dân tộc Ủy ban dân tộc và miền núi & Hoàng Văn Ma-Hoàng Văn Sán-Mông Ký Slay (2002). Sách học tiếng Tày-Nùng. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Hóa Dân tộc. tr. 27.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Trung tâm bồi dưỡng cán bộ dân tộc Ủy ban dân tộc và miền núi & Hoàng Văn Ma-Hoàng Văn Sán-Mông Ký Slay (2002). Sách học tiếng Tày-Nùng. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Hóa Dân tộc. tr. 28.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Luận án tiến sĩ ngữ văn Viện ngôn ngữ học & Lê Văn Trường (2004). Vị trí tiếng Nùng Dín trong quan hệ với các phương ngữ Nùng và Tày ở Việt Nam. Hà Nội. tr. 18.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Luận án tiến sĩ ngữ văn Viện ngôn ngữ học & Lê Văn Trường (2004). Vị trí tiếng Nùng Dín trong quan hệ với các phương ngữ Nùng và Tày ở Việt Nam. Hà Nội. tr. 36.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ a b c d e Freiberger, Nancy; Bé, Vy thị. (1976). Sẹc mạhn slú Nohng Fạn Slihng = Ngũ-vụng Nùng Phạn Slinh = Nung Fan Slihng vocabulary: Nung-Viêt-English". Summer Institute of Linguistics: lời mở đầu (v).
- ^ language museum (Nung).
- ^ O'Brien, Bruce R. (2011), Reversing Babel: Translation Among the English During an Age of Conquests, c. 800 to c. 1200 University of Delaware (2011), pp. 45-46. ISBN 1611490537/9781611490534.
- ^ wordproject.
- ^ Trung tâm bồi dưỡng cán bộ dân tộc Ủy ban dân tộc và miền núi & Hoàng Văn Ma-Hoàng Văn Sán-Mông Ký Slay (2002). Sách học tiếng Tày-Nùng. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Hóa Dân tộc. tr. 14.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ a b c d sealang.net & Hoàng Thị Châu, Hanoi national university. Phonetic typology of languages in Vietnam and a common transcription for them (PDF). tr. 194 và trang introduction.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Trung tâm bồi dưỡng cán bộ dân tộc Ủy ban dân tộc và miền núi & Hoàng Văn Ma-Hoàng Văn Sán-Mông Ký Slay (2002). Sách học tiếng Tày-Nùng. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Hóa Dân tộc. tr. 15, 16.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Trung tâm bồi dưỡng cán bộ dân tộc Ủy ban dân tộc và miền núi & Hoàng Văn Ma-Hoàng Văn Sán-Mông Ký Slay (2002). Sách học tiếng Tày-Nùng. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Hóa Dân tộc. tr. 16, 17.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ a b c Trung tâm bồi dưỡng cán bộ dân tộc Ủy ban dân tộc và miền núi & Hoàng Văn Ma-Hoàng Văn Sán-Mông Ký Slay (2002). Sách học tiếng Tày-Nùng. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Hóa Dân tộc. tr. 18.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Trung tâm bồi dưỡng cán bộ dân tộc Ủy ban dân tộc và miền núi & Hoàng Văn Ma-Hoàng Văn Sán-Mông Ký Slay (2002). Sách học tiếng Tày-Nùng. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Hóa Dân tộc. tr. 17.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Ethnologue report on "Nung a language of Vietnam"
- Bai tọc càng Nohng Fạn Slihng (Bài học tiếng Nùng Phạn Slinh) (tiếng Nùng Phạn Slình+Anh+Việt) PDF download, tác giả: Vy Thị Bé và Janice E. Saul (1974), Viện Chuyên-Khảo Ngữ-Học Saigon, Trung tâm Học-Liệu Bộ Giáo-Dục Xuất Bản Saigon.
- Nõng tọc sì slứ, lởp slón slứ: Fạhn hã slón (Em học vần, lớp vỡ-lòng: Phần chỉ-nam) (tiếng Nùng Phạn Slình) PDF download, tác giả: Vy Thị Fúhn và Nancy F. Wilson (1971). Trung tâm Học-Liệu Bộ Giáo-Dục Xuất Bản Saigon (Fạhn Slón Hã Mạhn Lộ Tọc Ín Ọc Ma Saigon).
- Fạhn hẻht đáy đày heng, lớp hẽhng slón tọc (Sách vệ-sinh, lớp một) (tiếng Nùng Phạn Slình+Việt) PDF download, tác giả: Vy Thị Bé và Janice E. Saul (1971). Trung tâm Học-Liệu Bộ Giáo-Dục Xuất Bản Saigon (Fạhn Slón Hã Mạhn Lộ Tọc Ín Ọc Ma Saigon).
- Nõng tọc sị slứ càng nohng, lởp slón slứ: Sẹc slứ 1, 2 (Em học vần tiếng thái-nùng, lớp vỡ-lòng: Quyển 1, 2) (tiếng Nùng Phạn Slình) PDF download, tác giả: Vy Thị Fúhn và Janice E. Saul (1971). Trung tâm Học-Liệu Bộ Giáo-Dục Xuất Bản Saigon (Fạhn Slón Hã Mạhn Lộ Tọc Ín Ọc Ma Saigon).
- Nõng tọc slổ, lởp slón slứ: Fahn hã slón (Em học toán, lớp vỡ-lòng; Phần chỉ-nam) (tiếng Nùng Phạn Slình) PDF download, tác giả: Vy Thị Bé và Janice E. Saul (1973). Trung tâm Học-Liệu Bộ Giáo-Dục Xuất Bản Saigon (Fạhn Slón Hã Mạhn Lộ Tọc Ín Ọc Ma Saigon).
- Hẻht sịhng, khoa-học, slón hẻht ị đáy, lờp slón slứ, fạhn hã slón (Môn học bằng bảng treo vệ-sinh, khoa-học, và đức-dục; lớp vỡ-lòng; phần chỉ-nam) (tiếng Nùng Phạn Slình) PDF download, tác giả: Vy Thị Bé và Janice E. Saul (1974). Trung tâm Học-Liệu Bộ Giáo-Dục Xuất Bản Saigon (Fạhn Slón Hã Mạhn Lộ Tọc Ín Ọc Ma Saigon).
- Thòi củ cưhn Nohnh Fạn Slihng (Culture and folklore of the Nung Fan Slihng — Phong-tục tập-quán của người Nùng Phạn Slinh) PDF download, tác giả: Nancy Freiberger (1976). Summer Institute of Linguistics, Manila.
- Sẹc mạhn Slứ Nohng Fạn Slihng: Ngữ vựng Nùng Phạn Slinh (Nung Fan Slihng Vocabulary) (tiếng Nùng Phạn Slình+Anh+Việt) PDF download, tác giả: Vy Thị Bé và Nancy Freiberger (1976), Viện Chuyên-Khảo Ngữ-Học (Summer Institute of Linguistics).
- Ngữ pháp tiếng Nùng (tiếng Anh) PDF download, tác giả: Janice E. Saul và Nancy F. Wilson, Summer Institute of Linguistics và University of Texas at Arlington, xuất bản: 1980.
- Nung Fan Slihng Ethnographic Texts (tiếng Anh+Nùng Phạn Slình) PDF download, tác giả: Janice E. Saul và Nancy F. Wilson (1976), Summer Institute of Linguistics.
- SOME OBSERVATIONS ON THE MAP OF THE ETHNIC GROUPS SPEAKING THAI LANGUAGES (tiếng Anh) PDF download, tác giả: Levy Ward, Journal of The Siam Society, Volume 76, xuất bản: 1988.
- Tai Words and the Place of the Tai in the Vietnamese Past (tiếng Anh), tác giả: Liam Kelley, Journal of the Siam Society Vol. 101, xuất bản: 2013.
- Proto-Tai negation system from comparative and historical Tai perspective (tiếng Anh) Lưu trữ 2021-01-18 tại Wayback Machine, tác giả: Pittayawat Pittayaporn, Nida Jampathip và Jakrabhop Iamdanush, Chulalongkorn University, xuất bản: 2011.
- Grammaticalization and Tai Syntactic Change (tiếng Anh) Lưu trữ 2016-03-04 tại Wayback Machine PDF download, tác giả: Anthony Diller.