Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Adolf Hitler”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 1.603: Dòng 1.603:
| ref = harv
| ref = harv
}}
}}
* {{chú thích sách|last1=Pyta|first1=Wolfram|title=Hindenburg: Herrschaft zwischen Hohenzollern und Hitler|date=2009|publisher=Siedler|location=München|isbn=978-3-88680-865-6|url=https://books.google.de/books?id=pgZoAAAAMAAJ|language=de | ref = harv}}
*{{chú thích tạp chí|last1=Pyta|first1=Wolfram|title=Gescheiterte Zähmung: Von den Präsidialkabinetten Papen und Schleicher zur Regierung Hitler|journal=Die Weimarer Republik|date=2004|pages=135–155|doi=10.1007/978-3-322-91383-8_7|url=https://link.springer.com/chapter/10.1007%2F978-3-322-91383-8_7|ref=harv|publisher=VS Verlag für Sozialwissenschaften|language=de}}
* {{chú thích sách|author-mask=3|last1=Pyta|first1=Wolfram|title=Hindenburg: Herrschaft zwischen Hohenzollern und Hitler|date=2009|publisher=Siedler|location=München|isbn=978-3-88680-865-6|url=https://books.google.de/books?id=pgZoAAAAMAAJ|language=de | ref = harv}}
*{{chú thích tạp chí
*{{chú thích tạp chí
|last1=Schildt|first1=Axel|title=Das Kabinett Kurt von Schleicher|journal=Die Weimarer Republik. Band 3: Das Ende der Demokratie.|date=1995|pages=391–443|url=https://web.archive.org/web/20070129020741/http://www.stmuk.bayern.de/blz/web/100083/100083kapitel10.pdf|trans-title=Nội các Kurt von Schleicher|publisher=Bayerische Landeszentrale für politische Bildungsarbeit|location=München
|last1=Schildt|first1=Axel|title=Das Kabinett Kurt von Schleicher|journal=Die Weimarer Republik. Band 3: Das Ende der Demokratie.|date=1995|pages=391–443|url=https://web.archive.org/web/20070129020741/http://www.stmuk.bayern.de/blz/web/100083/100083kapitel10.pdf|trans-title=Nội các Kurt von Schleicher|publisher=Bayerische Landeszentrale für politische Bildungsarbeit|location=München

Phiên bản lúc 11:08, ngày 10 tháng 3 năm 2021

Adolf Hitler
Ảnh chính thức của Adolf Hitler năm 1938
Führer của Đức
Nhiệm kỳ
2 tháng 8 năm 1934 – 30 tháng 4 năm 1945
10 năm, 271 ngày
Phó Quốc trưởngRudolf Hess
(1933–41)
Tiền nhiệmPaul von Hindenburg
(Tổng thống)
Kế nhiệmKarl Dönitz
(Tổng thống)
Thủ tướng Đức
Nhiệm kỳ
30 tháng 1 năm 1933 – 30 tháng 4 năm 1945
12 năm, 90 ngày
Tổng thốngPaul von Hindenburg
(1933–34; Tổng thống)
Bản thân
(1934–45; Lãnh tụ)
Phó Thủ tướngFranz von Papen
(1933–34)
Hermann Göring
(1941–45)
Tiền nhiệmKurt von Schleicher
Kế nhiệmJoseph Goebbels
Lãnh tụ Đảng Quốc Xã
Nhiệm kỳ
29 tháng 6 năm 1921[1] – 30 tháng 4 năm 1945
23 năm, 305 ngày
Tiền nhiệmAnton Drexler
Kế nhiệmMartin Bormann
Thông tin cá nhân
Sinh(1889-04-20)20 tháng 4 năm 1889
Braunau am Inn,  Đế quốc Áo-Hung
Mất30 tháng 4 năm 1945(1945-04-30) (56 tuổi)
Berlin,  Đức Quốc Xã
Nguyên nhân mấtTự sát bằng súng
Đảng chính trịĐảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa (1921–45)
Đảng khácĐảng Công nhân Đức (1920–21)
Phối ngẫuEva Braun
(29–30 tháng 4 năm 1945)
Cha mẹ
Chuyên nghiệpBinh sĩ
Chính trị gia
Chữ ký
Phục vụ trong quân đội
Thuộc Đế quốc Đức
Phục vụQuân đội Bayern
Năm tại ngũ1914–1920
Cấp bậc
Đơn vị
  • Trung đoàn Dự bị Bayern 16
  • Tình báo Reichswehr
Tham chiếnChiến tranh thế giới thứ nhất
Tặng thưởng

Adolf Hitler (tiếng Đức: [ˈadɔlf ˈhɪtlɐ] ; 20 tháng 4 năm 188930 tháng 4 năm 1945) là một chính trị gia người Đức, Chủ tịch Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa (Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei, viết tắt là NSDAP). Ông lên nắm quyền với tư cách là Thủ tướng Đức vào năm 1933 và sau đó là "Lãnh tụ" (Führer) kể từ năm 1934. Dưới chế độ độc tài của mình, Hitler phát động Chiến tranh thế giới thứ haichâu Âu bằng cuộc xâm lược Ba Lan vào tháng 9 năm 1939. Trong suốt cuộc chiến, Hitler trực tiếp tham gia chỉ đạo các hoạt động quân sự của Wehrmacht đồng thời là nhân vật đóng vai trò trung tâm trong cuộc diệt chủng người Do Thái Holocaust.

Hitler sinh ra tại Áo – khi ấy là một phần của Đế quốc Áo-Hung – và lớn lên ở gần Linz. Ông chuyển tới Đức vào năm 1913 và từng được tặng thưởng vì phục vụ trong lục quân Đức thời Chiến tranh thế giới thứ nhất. Năm 1919, ông gia nhập Đảng Công nhân Đức (DAP), tiền thân của Đảng Quốc Xã và trở thành lãnh đạo đảng này năm 1921. Năm 1923, Hitler nỗ lực tiến hành đảo chính ở München nhằm cướp chính quyền. Song cuộc đảo chính thất bại và bản thân Hitler bị kết án 5 năm tù. Trong thời gian đó, ông sáng tác tập đầu cuốn tự truyện và cũng là tuyên ngôn chính trị Mein Kampf (Cuộc đấu tranh của tôi). Sau khi được tại ngoại sớm vào năm 1924, Hitler thu hút sự ủng hộ của quần chúng thông qua việc công kích hòa ước Versailles, thúc đẩy chủ nghĩa Liên Đức, chủ nghĩa bài Do Thái, chủ nghĩa chống cộng bằng tài hùng biện lôi cuốn và các biện pháp tuyên truyền. Ông thường lên án chỉ trích chủ nghĩa tư bản quốc tếchủ nghĩa Cộng sản, cho rằng chúng là một phần của cái gọi là Âm mưu Do Thái.

Tháng 11 năm 1932, Đảng Quốc Xã tuy giành được nhiều ghế nhất quốc hội (Reichstag) nhưng không thiết lập được đa số. Kết quả là không đảng nào có thể thành lập liên minh chiếm đa số trong nghị viện để ủng hộ một ứng cử viên cho chức thủ tướng. Cựu thủ tướng Franz von Papen và các nhà lãnh đạo bảo thủ khác đã thuyết phục Tổng thống Paul von Hindenburg bổ nhiệm Hitler làm thủ tướng vào ngày 30 tháng 1 năm 1933. Không lâu sau đó, Quốc hội thông qua Ermächtigungsgesetz (Đạo luật Cho quyền), bắt đầu quá trình chuyển đổi Cộng hòa Weimar thành Đức Quốc Xã, một chế độc độc tài độc đảng dựa theo ý thức hệ toàn trị và chuyên quyền của chủ nghĩa quốc xã. Hitler hướng tới việc loại bỏ người Do Thái khỏi nước Đức và thiết lập một Trật tự Mới để phản bác trật tự thế giới thời kỳ hậu Thế chiến thứ nhất thống trị bởi Anh và Pháp mà ông cho là không công bằng. Sau sáu năm đầu Hitler cầm quyền, nền kinh tế Đức phục hồi nhanh chóng từ cuộc Đại khủng hoảng, những hạn chế do Hòa ước Versailles áp đặt lên nước Đức sau Chiến tranh thế giới thứ nhất được bãi bỏ, những lãnh thổ có hàng triệu người thuộc sắc tộc Đức sinh sống được sáp nhập. Những thành tựu này đã mang lại cho Hitler sự ủng hộ đáng kể từ dân chúng.

Hitler khát khao tìm kiếm Lebensraum (không gian sống) cho dân tộc Đức ở Đông Âu. Chính sách đối ngoại hung hăng của ông được xem là nguyên nhân chính dẫn tới sự bùng nổ Thế chiến thứ hai ở châu Âu. Ông chỉ đạo công cuộc tái vũ trang quy mô lớn của Quân đội Đức, tiến hành xâm lược Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, dẫn đến việc cả Anh lẫn Pháp tuyên chiến với Đức. Tháng 6 năm 1941, Hitler ra lệnh tấn công Liên Xô. Đến cuối năm 1941, quân Đức và các nước thuộc khối Trục châu Âu đã chiếm đóng gần như toàn bộ châu Âu và Bắc Phi. Tuy nhiên, thế cục của cuộc chiến đã đảo chiều sau năm 1941 và vào năm 1945, quân đội Đồng minh đã đánh bại quân đội Đức. Ngày 29 tháng 4 năm 1945, ông kết hôn với người tình lâu năm Eva Braun tại Führerbunker ở Berlin. Chưa đầy hai ngày sau, cặp đôi tự sát để tránh rơi vào tay Hồng quân Liên Xô. Xác của hai người đã bị thiêu ngay sau đó.

Dưới sự lãnh đạo của Hitler và ý thức hệ có động cơ chủng tộc, chế độ Quốc Xã chịu trách nhiệm cho tội ác diệt chủng khoảng 6 triệu người Do Thái và hàng triệu nạn nhân khác mà ông cùng bộ hạ coi là Untermensch (người hạ đẳng) hoặc xã hội không mong muốn. Hitler và chế độ Quốc Xã phải chịu trách nhiệm cho việc giết hại của khoảng 19,3 triệu dân thường và tù nhân chiến tranh. Ngoài ra, khoảng 28,7 triệu binh lính và dân thường đã thiệt mạng bởi các hoạt động quân sự tại chiến trường châu Âu. Số thương vong của Thế chiến thứ hai là chưa từng xảy ra trong chiến tranh, biến nó trở thành cuộc xung đột đẫm máu nhất lịch sử.

Hành động của Hitler và ý thức hệ Quốc Xã được hầu hết mọi người xem là vô đạo. Theo nhà sử học và viết tiểu sử Ian Kershaw, "chưa bao giờ trong lịch sử, sự hủy diệt – [về mặt] thể chất lẫn đạo đức – lại gắn liền với tên tuổi của một con người như vậy."[2]

Thân thế

Cha của Hitler, Alois Hitler Sr. (1837–1903), sinh ra tại vùng Waldviertel ở phía tây bắc Viên và là con ngoài giá thú của bà Maria Anna Schicklgruber.[3] Sổ rửa tội không ghi tên cha ruột của Alois và do vậy ông ban đầu mang họ Schicklgruber của mẹ. Vào năm 1842, khi Alois lên 5 tuổi, bà Maria Anna kết hôn với một công nhân tên là Johann Georg Hiedler, nhưng ông không bao giờ công nhận cậu bé Alois là con của mình. Alois được anh trai của Hiedler là Johann Nepomuk Hiedler đem về nuôi dưỡng và dành quãng đời niên thiếu tại gia đình của người bác này.[4] Một khoảng thời gian sau khi cha mẹ Alois qua đời, Johann Nepomuk lập lời tuyên thệ tại văn phòng công chứng, rằng em trai mình – Johann Georg – là cha ruột của Alois.[5][6] Vì một lý do nào đó, thay vì ghi là Hiedler, vị cha sứ ghi họ của Alois trong sổ đăng ký khai sinh là Hitler. Kể từ đây, Alois Schicklgruber chính thức đổi thành Alois Hitler.[7] Nguồn gốc của dòng họ Hiedler/Hitler vẫn luôn là một bí ẩn. Ngoài hai cách viết trên, họ này còn có thể được đánh vần là Hüttler, hoặc Huettler,[a][6] và có lẽ có nghĩa là "một người sống trong lều" (lều trong tiếng Đức là "Hütte").[8] Tuy nhiên, cái tên này cũng có thể được phiên âm từ tên Tiệp KhắcHidlar hoặc Hidlareek, vì vùng Waldviertel không nằm cách xa biên giới với xứ Böhmen là bao.[9]

Quan chức Đức Quốc Xã Hans Frank cho rằng mẹ của Alois từng làm người hầu trong một gia đình Do TháiGraz. Bà có mối quan hệ tình ái với cậu chủ 19 tuổi Leopold Frankenberger (hoặc Frankenreither).[10] Hai người đã có với nhau một người con trai và đó chính là Alois.[11] Tuy vậy, không có bất kỳ ai với họ Frankenberger được đăng ký ở Graz tại thời điểm đó và cũng chẳng có hồ sơ nào chứng minh về sự tồn tại của người tên là Leopold Frankenberger.[12] Ngoài ra, tính đến thời điểm đó, người Do Thái bị cấm cư trú tại Steiermark hơn 400 năm và chỉ được hợp pháp hóa nhiều thập kỷ sau khi Alois ra đời.[12][13] Chính vì điều này, các nhà sử học đã bác bỏ giả thuyết rằng cha của Alois là người Do Thái.[14][15]

Thiếu thời

Hitler khi còn là đứa trẻ. (1889–90)

Adolf Hitler sinh ngày 20 tháng 4 năm 1889 tại Braunau am Inn, một thị trấn thuộc Áo-Hung (ngày nay thuộc Áo) nằm gần biên giới với Đế quốc Đức[16] và là người con thứ tư trong một gia đình có cả thảy sáu người con. Cha của Hitler là Alois Hitler, mẹ là người vợ thứ ba – cũng là cháu gái cột chèo thế hệ thứ hai của Alois – Klara Pölzl.[b][17] Ba người anh chị em của Hitler – Gustav, Ida và Otto – đều lần lượt chết yểu khi còn bé.[18] Sống trong nhà cùng Adolf còn có hai anh chị là con của vợ hai: Alois Jr. (sinh năm 1882) và Angela (sinh năm 1883).[19] Năm lên 3 tuổi, Hitler theo gia đình chuyển đến Passau, Đức.[20] Lớn lên tại miền nam nước Đức, phương ngữ đặc trưng vùng Hạ Bayern, thay vì phương ngữ Áo-Đức, dần trở thành tiếng mẹ đẻ của Hitler.[21] Ảnh hưởng từ phương ngữ này đã để lại dấu ấn đậm sâu trong những bài phát biểu sau này của ông.[22][23][24] Vào năm 1894, gia đình Hitler quay trở về Áo và định cư tại Leonding. Tháng 6 năm 1895, sau khi về hưu, Alois cùng gia đình chuyển về sống trong một khu trang trại tại Hafeld nằm cách Linz không xa để sống bằng nghề trồng trọt và nuôi ong. Hitler theo học tại một Volksschule (trường tiểu học công lập) gần Fischlham.[25][26][27]

Hitler gây ấn tượng tốt với thầy hiệu trưởng, được đánh giá là "một cậu học trò lanh lợi, ngoan ngoãn nhưng hiếu động".[28] Tuy nhiên, vì gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, Alois dần trở nên khó tính.[28] Giữa hai cha con bắt đầu nảy sinh xung đột căng thẳng do Hitler không tuân thủ kỷ luật nghiêm ngặt của nhà trường.[29] Dù vợ thường xuyên can ngăn nhưng Alois Hitler thường xuyên ra tay đánh con.[30] Nỗ lực làm nông an hưởng tuổi già ở Hafeld thất bại, Alois Hitler cùng gia đình chuyển tới sống tại Lambach vào năm 1897. Cậu bé Hitler 8 tuổi học hát, tham gia đoàn hợp xướng của nhà thờ và thậm chí từng cân nhắc việc trở thành một linh mục.[31] Vào năm 1898 gia đình Hitler trở về Leonding định cư vĩnh viễn. Việc người em trai Edmund qua đời vì bệnh sởi hai năm sau đã ảnh hưởng sâu sắc đến Hitler.[32] Từ một học sinh tự tin, tận tâm, hướng ngoại, Hitler đã thay đổi thành một cậu bé sống lạc lõng, bất cần, thường xuyên phản kháng lại cha và giáo viên.[33]

Mẹ của Hitler, Klara
Cha của Hitler, Alois

Alois từng có một sự nghiệp thành công ở cục hải quan và muốn con trai nối gót mình.[34] Ông thường cố gắng truyền cảm hứng cho con bằng những câu chuyện trong đời sống công chức của mình. Tuy nhiên, Hitler là một con người yêu thích nghệ thuật và không có ý định làm theo lời cha.[32] Về sau, khi hồi tưởng về khoảng thời gian này, Hitler nói rằng "cái suy nghĩ phải ngồi trong một văn phòng, đánh mất mọi tự do; không còn làm chủ thời gian của chính mình" đã khiến ông "ớn đến tận cổ".[35] Hitler đã kịch hóa một tình tiết khi mà cha đưa ông đến thăm một văn phòng hải quan, mô tả rằng sự kiện này đã khiến sự rạn nứt giữa cha và con càng trở nên nghiêm trọng khi mà cả hai người đều cho rằng mình mới là người đúng.[36][37][38] Alois không tán thành mong muốn gia nhập một trường trung học cổ điển và trở thành họa gia của Hitler. Tháng 9 năm 1900, ông gửi Hitler vào Realschule (trường trung học) ở Linz, chuyên sâu về khoa học và kỹ thuật hơn,[39] nhưng vướng phải phản đối kịch liệt từ con trai.[40] Trong cuốn Mein Kampf, Hitler có giải thích rằng một trong những nguyên do khiến ông học hành kém cỏi, rồi cuối cùng bỏ học là vì muốn chống lại ý muốn của cha: "Tôi nghĩ rằng khi cha tôi thấy tôi không tiến bộ ở trường, ông ấy sẽ để tôi hy sinh bản thân cho mơ ước của mình, mặc cho ông ấy có thích hay không".[41][42]

Tương tự nhiều người Đức–Áo khác, Hitler bắt đầu phát triển tư tưởng dân tộc chủ nghĩa Đức từ khi còn trẻ.[43][44] Ông chỉ thể hiện lòng trung thành với nước Đức, coi thường Đế chế Habsburg tàn lụi và đế quốc đa sắc tộc của nó.[45][46] Hitler và những người bạn thường dùng lời chào "Heil" và hát vang "Deutschlandlied" (Bài ca nước Đức) thay vì quốc ca đế quốc Áo.[c][47]

Sau khi Alois đột ngột qua đời vào ngày 3 tháng 1 năm 1903, Hitler sa sút học tập và được mẹ cho phép rời trường.[48] Tháng 9 năm 1904 Hitler gia nhập Realschule ở Steyr và tại đó lối hành xử và thành tích học tập của ông được cải thiện.[49] Vào năm 1905, sau khi vượt qua những kỳ thi cuối cùng, Hitler ra trường mà không có tham vọng học cao hơn hay kế hoạch rõ ràng cho sự nghiệp.[50]

Thời niên thiếu ở Viên và München

Căn nhà ở Leonding, Áo, nơi Hitler sống thời niên thiếu (ảnh chụp tháng 7 năm 2012)

Năm 1907, với một khoản tiền trợ cấp trẻ mồ côi và sự hỗ trợ từ mẹ, Hitler rời Linz đến sinh sống tại thủ đô Viên của nước Áo. Mang trong mình ước vọng trở thành họa sĩ, Hitler dò hỏi việc theo học Viện Hàn lâm Nghệ thuật Viên, dự định sẽ tham dự kỳ thi tuyển sinh năm tiếp đó. Nhưng mộng không thành khi bài dự thi của ông không đủ điểm. Hitler cố thử sức một lần nữa vào năm sau, nhưng tác phẩm của ông không gây được ấn tượng với giáo sư.[51][52] Nhận thấy các tác phẩm được thực hiện với độ chính xác đặc biệt về kiến trúc, người giáo sư gợi ý chàng thanh niên này nên nộp đơn xin vào trường kiến trúc.[53] Tuy nhiên Hitler không thể làm theo lời khuyên này do ông thiếu chứng chỉ học tập cần thiết vì chưa tốt nghiệp chương trình trung học phổ thông.[54]

Ngày 21 tháng 12 năm 1908, bà Klara Hitler qua đời vì bệnh ung thư vú ở tuổi 47 khi Hitler mới 18 tuổi. Năm 1909, ở tuổi 19, Hitler bước vào giai đoạn khốn khó của cuộc đời vì hết tiền và buộc phải sống một cuộc sống phóng túng trong những khu nhà dành cho người vô gia cư và khu nhà tập thể dành cho nam[35][55] và phải dùng bữa ở bếp ăn từ thiện cho qua cơn đói.[56] Ông đảm nhận những công việc không thường xuyên như quét tuyết, di chuyển hành lý ở ga tàu hỏa, đôi lúc xin làm công nhân xây dựng hoặc phụ hồ. Sau đó, ông hành nghề họa sĩ tự do, bán những bức tranh màu nước vẽ phong cảnh ở Viên cho du khách.[51] Trong khoảng thời gian hành nghề bán tranh dạo tại Viên, tài nghệ hội họa Hitler đã tiến bộ rõ rệt. Ông có thể thực hiện những tác phẩm "chính xác đến nỗi có cảm giác như nó được phác họa lại từ một tấm ảnh". Tuy nhiên, các tác phẩm của Hitler cho thấy ông là một kiến trúc sư hơn là một họa sĩ vì trái hẳn với khả năng thể hiện cấu trúc thiên bẩm của mình, ông "không có kiến thức về tạo hình con người".[57] Cũng trong quãng thời gian sống tại Viên, Hitler ngày càng tỏ rõ sự đam mê dành cho các môn nghệ thuật khác, đặc biệt là kiến trúc và âm nhạc. Những nhà soạn nhạc yêu thích của Hitler gồm có Schumann, Chopin, Beethoven và đặc biệt là Wagner,[d][58] đến nỗi ông từng tham dự mười buổi biểu diễn Lohengrin, vở opera Wagner yêu thích của ông.[59][60]

Schloss Neuschwanstein. Tranh màu nước vẽ Lâu đài Neuschwanstein ở Thượng Bayern của Adolf Hitler, 1914

Cũng chính tại Viên, Hitler lần đầu tiên tiếp xúc với những luận điệu phân biệt chủng tộc.[61] Những người theo chủ nghĩa dân túy như thị trưởng Karl Lueger đã khai thác bầu không khí bài Do Thái và đôi khi ủng hộ các quan niệm dân tộc chủ nghĩa Đức nhằm thu lợi ích chính trị. Chủ nghĩa dân tộc Đức đặc biệt hiện hữu ở quận Mariahilf, nơi Hitler sống.[62] Georg Ritter von Schönerer trở thành người có ảnh hưởng lớn đối với Hitler.[63] Ảnh hưởng bởi chủ nghĩa bài Công giáo, ông dần bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhà Kháng cách Martin Luther.[64] Các tờ báo địa phương mà Hitler đọc như Deutsches Volksblatt (de) đã thổi bùng định kiến và thường đề cập đến nỗi lo sợ bị làn sóng người Do Thái từ Đông Âu lấn áp của Kitô hữu.[65] Ông cũng là độc giả thường xuyên của những tờ báo hoặc pamfơlê đăng tải tư tưởng chính trị chủ đạo của các triết gia và lý thuyết gia như Houston Stewart Chamberlain, Charles Darwin, Friedrich Nietzsche, Gustave Le BonArthur Schopenhauer.[66]

Căn nguyên và sự phát triển chủ nghĩa bài Do Thái trong con người Hitler vẫn còn là một đề tài được các học giả tranh luận.[67] Bạn của Hitler, August Kubizek, khẳng định Hitler đã là một "người bài Do Thái lâu năm" trước khi rời Linz.[68] Tuy nhiên, nữ sử gia Brigitte Hamann lại cho rằng lời tuyên bố của Kubizek là "có vấn đề".[69] Cuốn Mein Kampf viết rằng Hitler bắt đầu trở thành một người bài Do Thái khi ở Viên,[70] nhưng Reinhold Hanisch, người đã giúp ông ta bán tranh, không đồng ý với điều này. Hitler được cho là từng có những người bạn Do Thái ở ký túc xá và nhiều nơi khác tại Viên.[71][72][73] Nhà sử học Richard J. Evans phát biểu "các sử gia hiện nay nhìn chung đồng tình rằng tư tưởng bài Do Thái của Hitler phát triển sau thất bại của Đức [trong thế chiến I] như sản phẩm của cách lý giải hoang tưởng về "cú đâm sau lưng" cho thảm họa [trong Thế chiến I]".[74]

Tháng 5 năm 1913, Hitler nhận phần tài sản cuối cùng của cha và chuyển đến München, Đức sinh sống.[75] Khi nhận được giấy gọi vào Quân đội Áo-Hung,[76] ông lên đường đến Salzburg vào ngày 5 tháng 2 năm 1914 để tiến hành kiểm tra y tế. Sau khi được xem là không đủ điều kiện nhập ngũ, ông quay về München.[77] Hitler về sau tuyên bố rằng ông không muốn phục vụ Đế chế Habsburg vì sự hỗn tạp chủng tộc trong quân đội nước này, đồng thời tin rằng đế quốc Áo-Hung sắp sửa sụp đổ.[78]

Chiến tranh thế giới lần thứ nhất

Hitler (ngồi ngoài cùng bên phải) với các đồng đội quân đội thuộc Trung đoàn Bộ binh Dự bị Bayern số 16 (k. 1914–18)

Vào tháng 8 năm 1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Hitler khi ấy đang sống ở München đã tự nguyện gia nhập quân đội Vương quốc Bayern.[79] Theo một báo cáo năm 1924 của chính quyền bang Bayern, việc để cho Hitler có mặt trong quân đội gần như chắc chắn là lỗi ở khâu quản lý, bởi lẽ vì là một công dân Áo thì Hitler đáng lý phải trở về Áo.[79] Ông được gửi lên Trung đoàn Bộ binh Dự bị Bayern số 16[80][79] và phục vụ như người đưa tin trên Mặt trận phía Tây ở Pháp và Bỉ. [81] Hitler dành gần một nửa thời gian tại ngũ để hoạt động tại trụ sở trung đoàn ở Fournes-en-Weppes, ngay phía sau chiến tuyến Pháp–Đức.[82][83] Ông có mặt tại trận Ypres lần thứ nhất, trận Somme, trận Arras cũng như trận Passchendaele và bị thương tại Somme.[84] Hitler được cấp trên khen thưởng vì lòng dũng cảm, nhận huận chương Thập tự sắt (Eisernes Kreuz) vào năm 1914.[84] Theo lời giới thiệu của Trung úy người Do Thái Hugo Gutmann, cấp trên của Hitler, ông được trao tặng huân chương Thập tự sắt hạng nhất vào ngày 4 tháng 8 năm 1918, giải thưởng hiếm khi được trao cho người giữ cấp hàm Gefreiter (tương đương Binh nhất) như Hitler.[85][86] Ông nhận được Huy hiệu Thương tích Đen (Verwundetenabzeichen) vào ngày 18 tháng 5 năm 1918.[87]

Trong thời gian phục vụ tại sở chỉ huy trung đoàn, Hitler tiếp tục theo đuổi đam mê nghệ thuật, vẽ tranh biếm họa và chỉ dẫn cho một tờ báo quân đội. Trong trận Somme diễn ra vào tháng 10 năm 1916, ông bị thương ở đùi trái khi một quả đạn phát nổ trong hầm trú ẩn.[88] Hitler trải qua gần hai tháng dưỡng thương tại Beelitz trước khi trở lại trung đoàn vào ngày 5 tháng 3 năm 1917.[89] Ngày 15 tháng 10 năm 1918, ông bị mù tạm thời trong một cuộc tấn công bằng khí mù tạt và phải nhập viện ở Pasewalk. Tại đây ông hay tin nước Đức bại trận và theo lời kể của chính Hitler thì ông đã bị mù lần thứ hai sau khi nhận được tin này.[90]

Hitler mô tả cuộc chiến là trải nghiệm "vĩ đại nhất trong tất cả các trải nghiệm" và được các sĩ quan chỉ huy của mình tán dương vì lòng dũng cảm.[91] Kinh nghiệm chiến tranh của Hitler đã củng cố lòng ái quốc và sự đầu hàng của Đức vào tháng 11 năm 1918 là một cú sốc tinh thần đối với ông.[92] Cay đắng vì thất bại của nước Đức đã dần định hình nên ý thức hệ của Hitler.[93] Cũng giống như những người theo chủ nghĩa dân tộc Đức khác, ông tin vào Dolchstoßlegende (huyền thoại đâm sau lưng), cho rằng quân đội Đức "không bị đánh bại trên chiến trường" mà bị "đâm sau lưng" ở quê nhà bởi các lãnh đạo dân sự, những người Do Thái và người theo chủ nghĩa Mác. Những người đại diện Đức đứng ra ký Hiệp định đình chiến kết thúc giao tranh về sau bị mỉa mai là "những tên tội phạm tháng 11" (Novemberverbrecher).[94]

Hòa ước Versailles quy định nước Đức phải từ bỏ một vài phần lãnh thổ và phi quân sự hóa vùng Rheinland, đồng thời áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế và đòi những khoản bồi thường chiến tranh khổng lồ trên quy mô toàn quốc. Nhiều người Đức xem hòa ước này như một sự sỉ nhục bất công. Họ đặc biệt phản đối Điều 231, cho rằng điều khoản này tuyên bố Đức là thủ phạm gây ra Chiến tranh thế giới thứ nhất.[95] Hòa ước Versailles cũng như tình hình kinh tế, xã hội và chính trị nước Đức thời kỳ hậu chiến đã được Hitler khai thác để phục vụ cho các mục đích chính trị của bản thân.[96]

Tham gia hoạt động chính trị

Thẻ đảng viên Đảng Công nhân Đức (DAP) của Hitler

Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, Hitler quay trở về München.[97] Không có bằng cấp giáo dục chính thức cũng như triển vọng nghề nghiệp, ông chọn ở lại quân đội.[98] Tháng 7 năm 1919, ông được bổ nhiệm làm Verbindungsmann (mật vụ tình báo) của một Aufklärungskommando (đơn vị trinh sát) thuộc Reichswehr (Phòng vệ Quốc gia), nhận nhiệm vụ chi phối những binh sĩ khác và nằm vùng trong Đảng Công nhân Đức (DAP). Trong một buổi họp đảng DAP vào ngày 12 tháng 9 năm 1919, Chủ tịch Đảng Anton Drexler đã rất ấn tượng với tài diễn thuyết của Hitler. Drexler đã tặng cho Hitler cuốn tự truyện Mein politisches Erwachen (Sự thức tỉnh chính trị của tôi), chứa đựng những tư tưởng bài Do Thái, chủ nghĩa dân tộc, bài tư bản và bài chủ nghĩa Mác.[99] Theo lệnh của cấp trên trong quân đội, Hitler nộp đơn xin gia nhập đảng và trong vòng một tuần được chấp nhận làm đảng viên số 555 (đảng bắt đầu đếm số thành viên từ 500 nhằm tạo cảm giác ấn tượng về quy mô).[100][101]

Vào khoảng thời gian này, Hitler lần đầu thể hiện chính kiến của mình về người Do Thái trong một bức thư (nay gọi là bức thư Gemlich) gửi Adolf Gemlich vào ngày 16 tháng 9 năm 1919 với nội dung xoay quanh vấn đề Do Thái. Trong bức thư, Hitler lập luận rằng mục tiêu của chính phủ "chắc chắn phải là việc loại bỏ hoàn toàn người Do Thái".[102]

Sau khi gia nhập DAP, Hitler gặp Dietrich Eckart, một trong những nhà sáng lập đảng và thành viên của Hội Thule, một nhóm Völkisch[e] huyền bí.[103] Eckart trở thành cố vấn của Hitler, hai người cùng nhau trao đổi ý kiến và Eckart giới thiệu cho Hitler một xã hội München bao quát.[104] Để tăng sức thu hút, DAP đã đổi tên thành Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei (Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa, NSDAP; gọi tắt là Đảng Quốc Xã).[105] Hitler thiết kế cờ đảng với hình tượng một chữ vạn nằm trong hình tròn màu trắng trên nền đỏ.[106]

Ngày 31 tháng 3 năm 1920, Hitler giải ngũ và bắt đầu dành toàn bộ thời gian cho NSDAP.[107] Trụ sở chính của đảng nằm tại München, nơi tập trung những người theo dân tộc chủ nghĩa Đức chống chính phủ, quyết tâm bóp chết chủ nghĩa Mác và mưu đồ phá hoại nền dân chủ của Cộng hòa Weimar.[108] Tháng 2 năm 1921 — vốn đã rất hiệu quả trong việc lôi kéo đám đông — Hitler đứng ra phát biểu trước đám đông hơn 6.000 người.[109] Nhằm quảng bá sự kiện, đảng cho hai xe tải chạy vòng quanh München vẫy cờ chữ vạn và phân phát tờ rơi. Hitler nhanh chóng nổi tiếng nhờ những bài diễn văn luận chiến đả kích hòa ước Versailles, các chính khách đối địch và đặc biệt phản đối gay gắt những người theo chủ nghĩa Marx cũng như người Do Thái.[110]

Chân dung Hitler vào nửa đầu thập niên 1920

Tháng 6 năm 1921, khi Hitler và Eckart đang trên đường tới Berlin để gây quỹ, nội bộ đảng Quốc Xã xảy ra nội loạn. Các ủy viên ban chấp hành muốn sáp nhập với Đảng Xã hội chủ nghĩa Đức (DSP) có trụ sở ở Nürnberg.[111] Ngày 11 tháng 7, Hitler quay về München và giận dữ đòi từ chức. Các ủy viên nhận ra rằng việc từ chức của một nhân vật quần chúng và diễn giả hàng đầu của họ đồng nghĩa với dấu chấm hết của đảng.[112] Hitler tuyên bố sẽ tái gia nhập với điều kiện ông phải làm chủ tịch đảng thay Drexler và trụ sở chính của đảng vẫn nằm tại München.[113] Ban chấp hành đồng ý và Hitler tái gia nhập đảng vào ngày 26 tháng 7 với tư cách thành viên 3.680. Sau khi quay lại, Hitler tiếp tục phải đối mặt với một số chống đối từ nội bộ đảng. Đấu tranh phe phái trong giới lãnh đạo khiến Hermann Esser bị khai trừ khỏi đảng. Những địch thủ của Hitler đồng thời cho in 3.000 cuốn sách mỏng công kích gọi ông là kẻ phản bội.[113] Mấy ngày tiếp đó, Hitler liên tục diễn thuyết trong các ngôi nhà chật cứng người, lên tiếng bảo vệ bản thân và Esser trước những tiếng vỗ tay hưởng ứng vang như sấm dội. Chiến lược của ông thành công và tại kỳ đại hội đảng đặc biệt diễn ra vào ngày 29 tháng 7, Hitler được chấp thuận trao toàn quyền chủ tịch đảng thay Drexler một cách tuyệt đối, với tỉ lệ 533 phiếu thuận 1 phiếu chống.[114]

Những bài phát biểu mang tính châm chọc tại quán bia của Hitler bắt đầu thu hút nhóm khán giả thông thường. Là một kẻ mị dân,[115] Hitler trở thành bậc thầy trong việc vận dụng các chủ đề dân túy, bao gồm cả việc sử dụng vật tế thần để đổ lỗi cho những khó khăn kinh tế mà khán thính giả phải gánh chịu.[116][117][118] Hitler tận dụng sức hấp dẫn của bản thân và sự hiểu biết tâm lý đám đông làm lợi thế khi diễn thuyết trước công chúng.[119][120] Theo nhiều nhà sử học, trước đám đông lớn, Hitler sử dụng tài hùng biện để lôi kéo họ, trong khi trước một nhóm nhỏ, ông lại sử dụng ánh mắt như một hiệu ứng thôi miên.[121] Alfons Heck, một cựu đoàn viên của Đoàn Thanh niên Hitler, sau này hồi tưởng:

Chúng tôi bùng nổ cuồng nhiệt trong niềm tự hào dân tộc, tới mức cuồng loạn. Những phút cuối, chúng tôi la hét khản cả cổ, với những giọt nước mắt chảy dài trên mặt: Sieg Heil, Sieg Heil, Sieg Heil! Kể từ thời điểm đó, linh hồn và thể xác tôi thuộc về Adolf Hitler.[122]

Trong số những người đầu tiên đi theo Hitler có thể kể tới một vài gương mặt nổi bật như Rudolf Hess, cựu phi công "Ách" Hermann GöringErnst Röhm. Röhm trở thành thủ lĩnh Sturmabteilung (SA, Binh đoàn bão táp) – tổ chức bán quân sự Quốc Xã có nhiệm vụ bảo vệ các cuộc hội họp và tấn công các đối thủ chính trị. Yếu tố mang tính ảnh hưởng quyết định đến tư tưởng của Hitler trong giai đoạn này là Aufbau Vereinigung (Tổ chức tái thiết),[123] một nhóm âm mưu gồm những người Bạch vệ của Nga lưu vong và những người theo chủ nghĩa quốc xã thời kỳ đầu. Aufbau Vereinigung lạ một nhóm kín nhận tài trợ từ các nhà tư bản công nghiệp giàu có. Cũng chính họ đã giới thiệu với Hitler khái niệm "âm mưu Do Thái", liên kết nền tài chính quốc tế với chủ nghĩa Bolshevik.[124]

Cương lĩnh Đảng Quốc Xã được trình bày lần đầu trong Cương lĩnh 25 điểm vào ngày 24 tháng 2 năm 1920. Cương lĩnh Đảng Quốc Xã không đại diện cho một hệ tư tưởng nhất quán, mà là sự kết hợp của nhiều ý tưởng phổ biến của phong trào Völkisch Liên Đức, bao gồm chủ nghĩa dân tộc cực đoan, phản đối Hòa ước Versailles, sự hoài nghi về chủ nghĩa tư bản và một số ý tưởng xã hội chủ nghĩa khác. Tuy nhiên, đối với Hitler, khía cạnh quan trọng nhất của cương lĩnh này chính là lập trường bài Do Thái mạnh mẽ. Ông cũng xem nó là cơ sở để tuyên truyền và thu hút mọi người gia nhập đảng.[125]

Đảo chính quán bia và nhà tù Landsberg

Các bị cáo trong phiên tòa xử vụ đảo chính nhà hàng bia. Từ trái sang phải: Heinz Pernet, Friedrich Weber, Wilhelm Frick, Hermann Kriebel, Erich Ludendorff, Hitler, Wilhelm Brückner, Ernst RöhmRobert Wagner.

Năm 1923, Hitler tranh thủ sự giúp đỡ của danh tướng Đức thời Thế chiến I Erich Ludendorff để tiến hành một cuộc đảo chính có chủ đích, sử gọi là "Đảo chính quán bia". Đảng Quốc Xã sử dụng Chủ nghĩa Phát xít Ý làm hình mẫu cho diện mạo và chính sách của họ. Hitler muốn tái hiện "Cuộc hành quân ở Roma" năm 1922 của Benito Mussolini bằng cách dàn dựng một cuộc đảo chính tương tự ở Bayern, trước khi đi tiếp bước nữa bằng cách thách thức chính phủ Cộng hòa Weimar ở Berlin. Hitler và Ludendorff cố gắng thuyết phục Staatskommissar (ủy viên bang) Gustav Ritter von Kahr, nhà cai trị de facto của Bayern, ủng hộ mình. Tuy nhiên 3 người Kahr, chánh cảnh sát Hans Ritter von Seisser và tướng Otto von Lossow của Reichswehr đã đồng thuận ngầm với nhau và muốn thiết lập một chế độ độc tài dân tộc chủ nghĩa mà không có Hitler.[126]

Ngày 8 tháng 11 năm 1923, Hitler và SA đột kích vào một hội nghị công khai có sự góp mặt của 3.000 người do Kahr tổ chức tại Bürgerbräukeller, một quán bia ở München. Cắt ngang bài phát biểu của Kahr, Hitler thông báo trước đám đông rằng cuộc cách mạng quốc gia đã bắt đầu và tuyên bố thành lập chính phủ mới cùng Ludendorff.[127] Khi lui về hậu phòng, Hitler rút ra khẩu súng lục, ép Kahr, Seisser và Lossow phải ủng hộ mình.[127] Lực lượng của Hitler ban đầu chiếm cứ thành công trụ sở của Reichswehr và cảnh sát địa phương, nhưng nhóm người của Kahr đã nhanh chóng thay đổi thái độ. Cả quân đội lẫn cảnh sát bang đều không hiệp lực cùng Hitler.[128] Ngày hôm sau, Hitler cùng các tín đồ diễu hành từ nhà hàng bia đến Bộ Chiến tranh Bayern nhằm lật đổ chính quyền bang, song bị cảnh sát sử dụng hỏa lực ép phải giải tán.[129] Mười sáu thành viên Đảng Quốc Xã và bốn sĩ quan cảnh sát đã thiệt mạng trong cuộc đảo chính bất thành.[130]

Bìa bọc sách Mein Kampf (ấn bản năm 1926–28)

Hitler chạy trốn đến nhà của Ernst Hanfstaengl và theo một số nguồn tin là đã có dự định tự sát.[131] Ông tỏ ra chán nản nhưng bình tĩnh lúc bị bắt vào ngày 11 tháng 11 năm 1923 vì tội phản quốc.[132] Phiên xử Hitler tại Tòa án Nhân dân Đặc biệt ở München bắt đầu vào tháng 2 năm 1924[133]Alfred Rosenberg trở thành lãnh đạo tạm thời của Đảng Quốc Xã. Ngày 1 tháng 4, Hitler bị kết án 5 năm tù và được đưa tới nhà tù Landsberg thi hành án.[134] Trong thời gian thụ án, Hitler được các cai ngục đối xử thân thiện, được phép nhận bưu phẩm từ những người ủng hộ và thường xuyên được các đồng chí trong đảng ghé thăm. Trước sự phản đối của các công tố viên bang, Hitler được Tối cao Pháp viện Bayern ân xá và chính thức được tại ngoại vào ngày 20 tháng 12 năm 1924.[135] Tính cả thời gian tạm giam, Hitler chỉ ngồi tù có hơn một năm.[136]

Trong thời gian thi hành án ở Landsberg, Hitler đã sáng tác phần lớn đoạn đầu của Mein Kampf (Cuộc đấu tranh của tôi; ban đầu có tựa đề Bốn năm rưỡi đấu tranh chống lại sự dối trá, ngu ngốc và hèn nhát). Ông không đích thân chép lại tác phẩm, mà đứng đọc cho Emil Maurice và sau đó là cấp phó Rudolf Hess chép lại.[136][137] Tác phẩm này được Hitler đề tặng thành viên Dietrich Eckart của Hội Thule, là một cuốn tự truyện thể hiện tư tưởng, quan điểm chính trị của ông. Cuốn sách đưa ra kế hoạch của Hitler trong việc biến đổi xã hội Đức thành một xã hội dựa trên chủng tộc. Xuyên suốt cuốn sách, người Do Thái bị đánh đồng với "mầm bệnh" và bị coi là "kẻ đầu độc quốc tế" của xã hội. Hitler cho rằng giải pháp duy nhất để giải quyết triệt để vấn đề Do Thái chính là tiêu diệt họ. Theo sử gia Ian Kershaw, mặc dù Hitler không mô tả chính xác cách thức thực hiện điều này, nhưng "cái suy nghĩ tận diệt [người Do Thái] hiện hữu trong con người y là không thể chối cãi".[138]

Mein Kampf được xuất bản thành hai cuốn vào các năm 1925–1926 và bán được 228.000 bản giai đoạn 1925–1932. Tổng cộng có một triệu bản được bán ra vào năm 1933, năm đầu tiên Hitler nắm quyền thủ tướng.[139]

Ngay trước khi Hitler đủ điều kiện để được ân xá, chính phủ Bayern đã cố gắng trục xuất ông ta trở lại Áo.[140] Thủ tướng Liên bang Áo từ chối yêu cầu này với lý do là Hitler đã phục vụ trong Lục quân Đức nên không còn tư cách công dân Áo.[141] Đáp trả, Hitler chính thức từ bỏ quốc tịch Áo vào ngày 7 tháng 4 năm 1925.[141]

Tái thiết Đảng Quốc Xã

Vào thời điểm Hitler ra tù, tình hình chính trị ở Đức đã dần mất tính cạnh tranh. Nền kinh tế đã được cải thiện khiến cơ hội kích động chính trị của ông bị hạn chế. Sau sự thất bại của cuộc Đảo chính quán bia, Đảng Quốc Xã cùng các tổ chức liên đới bị cấm hoạt động ở Bayern. Trong cuộc gặp với Thống đốc Bayern Heinrich Held vào ngày 4 tháng 1 năm 1925, Hitler đồng ý tôn trọng thẩm quyền của nhà nước và hứa sẽ chỉ mưu cầu quyền lực chính trị thông qua tiến trình dân chủ. Cuộc gặp mặt này mở đường giúp xóa lệnh cấm Đảng Quốc Xã hôm 16 tháng 2.[142] Tuy nhiên, sau một bài diễn văn có tính kích động vào ngày 27 tháng 2, Hitler đã bị chính quyền Bayern cấm phát biểu trước công chúng, một lệnh cấm có hiệu lực tới năm 1927.[143][144] Để xúc tiến tham vọng chính trị, Hitler giao phó nhiệm vụ tổ chức và phát triển đảng ở miền bắc cho Gregor Strasser, Otto StrasserJoseph Goebbels. Trong ba nhân vật này, Gregor Strasser đi theo đường lối chính trị độc lập hơn và thường cố gắng thúc đẩy các yếu tố xã hội chủ nghĩa của cương lĩnh đảng.[145]

Ngày 24 tháng 10 năm 1929, thị trường chứng khoán ở Hoa Kỳ sụp đổ gây ra tác động cực kỳ nghiêm trọng ở Đức khiến hàng triệu người mất việc làm và một vài ngân hàng lớn bị phá sản. Hitler và Đảng Quốc Xã lúc bấy giờ đã sẵn sàng để khai thác tình cảnh để thu hút sự ủng hộ của quần chúng. Họ hứa sẽ giải phóng Đức khỏi xiềng xích của Hòa ước Versailles, củng cố nền kinh tế và tạo công ăn việc làm cho người dân.[146]

Lên nắm quyền

Kết quả bầu cử của Đảng Quốc Xã[147]
Cuộc bầu cử Tổng số phiếu % phiếu Số ghế trong Reichstag Ghi chú
Tháng 5 năm 1924 &00000000019183000000001.918.300 &Lỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràng6,5 &000000000000003200000032 Hitler trong tù
Tháng 12 năm 1924 &0000000000907300000000907.300 &Lỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràng3,0 &000000000000001400000014 Hitler ra tù
Tháng 5 năm 1928 &0000000000810100000000810.100 &Lỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràng2,6 &000000000000001200000012  
Tháng 9 năm 1930 &00000000064096000000006.409.600 &Lỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràng18,3 &0000000000000107000000107 Sau cuộc khủng hoảng tài chính
Tháng 7 năm 1932 &000000001374500000000013.745.000 &Lỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràng37,3 &0000000000000230000000230 Sau khi Hitler là ứng cử viên tổng thống
Tháng 11 năm 1932 &000000001173700000000011.737.000 &Lỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràng33,1 &0000000000000196000000196  
Tháng 3 năm 1933 &000000001727718000000017.277.180 &Lỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràng43,9 &0000000000000288000000288 Cuộc bầu cử chỉ tự do một phần trong nhiệm kỳ Thủ tướng Đức của Hitler

Chính quyền Brüning

Cuộc Đại suy thoái mang đến thời cơ chính trị cho Hitler. Người Đức tỏ ra mâu thuẫn với thể thức cộng hòa đại nghị vốn đang phải đối mặt với những thách thức từ những thành phần cực đoan từ cả cánh hữu lẫn cánh tả. Các đảng chính trị ôn hòa ngày càng bất lực trước làn sóng chủ nghĩa cực đoan và cuộc trưng cầu dân ý năm 1929 đã góp phần nâng tầm ý thức hệ Quốc Xã.[148] Sau các cuộc bầu cử diễn ra vào tháng 9 năm 1930, đại liên minh cầm quyền trong Quốc hội tan rã và được thay thế bởi một nội các thiểu số. Đứng đầu là thủ tướng Heinrich Brüning của Đảng Trung tâm, nội các mới điều hành thông qua các sắc lệnh khẩn cấp của tổng thống Paul von Hindenburg. Cai trị bằng sắc lệnh đã trở thành quy phạm mới, mở đường cho các dạng chính quyền chuyên chế.[149] Từ chỗ ít tên tuổi, Đảng Quốc Xã nổi lên giành 18.3% số phiếu và 107 ghế trong cuộc bầu cử năm 1930, trở thành chính đảng lớn thứ hai Quốc hội Đức.[150]

Hitler và thủ quỹ đảng Franz Xaver Schwarz tại lễ khởi công nâng cấp Palais Barlow trên phố Brienner Straße ở München thành tổng hành dinh Nhà Nâu, tháng 12 năm 1930

Cuối năm 1930, Hitler xuất hiện nổi bật tại phiên tòa xét xử hai sĩ quan Reichswehr, trung úy Richard Scheringer và Hans Ludin. Cả hai đều bị buộc tội vì kết nạp Đảng Quốc Xã, một điều vốn bất hợp pháp đối với người của Reichswehr tại thời điểm đó.[151] Bên khởi tố cho rằng Đảng Quốc Xã là một đảng cực đoan, yêu cầu luật sư bào chữa Hans Frank[f] mời Hitler ra điều trần.[152] Ngày 25 tháng 9 năm 1930, Hitler xác nhận đảng của ông sẽ chỉ theo đuổi quyền lực thông qua bầu cử dân chủ,[153] qua đó giành được nhiều sự ủng hộ trong giới sĩ quan.[154]

Các biện pháp thắt lưng buộc bụng của Brüning không những không cải thiện tình hình kinh tế một cách đáng kể mà còn cực kỳ không được lòng dân.[155] Hitler đã khai thác điều này bằng cách nhắm thông điệp chính trị cụ thể tới những đối tượng chịu tác động bởi cuộc lạm phát thập niên 1920 và thời kỳ suy thoái, chẳng hạn như nông dân, cựu chiến binh và tầng lớp trung lưu.[156]

Mặc dù đã từ bỏ quốc tịch Áo vào năm 1925, Hitler vô quốc tịch trong gần 7 năm do không nhập quốc tịch Đức. Điều này có nghĩa rằng ông không thể ứng cử vào chức vụ nhà nước một cách hợp pháp và phải đối mặt với nguy cơ bị trục xuất.[157] Ngày 25 tháng 2 năm 1932, Dietrich Klagges, Bộ trưởng Nội vụ Braunschweig và một thành viên của Đảng Quốc Xã, đã bổ nhiệm Hitler làm quản lý viên phái đoàn bang tới Reichsrat ở Berlin, giúp Hitler trở thành công dân của Braunschweig[158] và qua đó cũng là công dân Đức.[159] Sau khi nhận quyền công dân, Hitler được đặc cách nghỉ phép vô thời hạn nhằm giành thời gian cho "mưu cầu chính trị", nhưng trên danh nghĩa vẫn là viên chức Braunschweig cho đến khi nhậm chức thủ tướng Đức.[160]

Kết quả vòng cuối cuộc bầu cử tổng thống năm 1932. Màu xanh tượng trưng cho các địa phương nơi Hindenburg giành chiến thắng, màu nâu tượng trưng cho Hitler.

Hitler ra tranh cử với Hindenburg trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1932. Bài phát biểu của ông trước Hiệp hội Công nghiệp ở Düsseldorf vào ngày 27 tháng 1 đã giành được sự ủng hộ từ nhiều nhà tư bản công nghiệp quyền lực nhất nước Đức.[161] Hindenburg ngược lại nhận được sự ủng hộ từ các đảng dân tộc chủ nghĩa, quân chủ, công giáo và cộng hòa, cũng như một số đảng viên Dân chủ Xã hội. Hitler sử dụng khẩu hiệu "Hitler über Deutschland" (Hitler phía trên nước Đức), ám chỉ tới tham vọng chính trị và chiến dịch vận động tranh cử bằng máy bay của mình.[162] Ông là một trong những chính trị gia đầu tiên sử dụng máy bay cho mục đích chính trị và đã sử dụng nó một cách hiệu quả.[163] Hitler về nhì trong cả hai vòng bầu cử, chỉ giành được hơn 35% số phiếu ở vòng cuối so với 53 % phiếu của Hindenburg. Nhiều cử tri đảng SPD đã "nhắm mắt" bỏ phiếu cho Hindenburg sau khi được Brüning thuyết phục, mục đích ngăn Hitler chiến thắng và cũng để bảo toàn nền dân chủ Weimar. Tuy tái đắc cử, Hindenburg vẫn bổ nhiệm Franz von Papen lên thay Brüning làm tân thủ tướng, đồng thời giải tán quốc hội một lần nữa.[164] Dù thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống lần này, Hitler đã xác lập vị thế của mình như một thế lực trong giới chính trị nước Đức.[165]

Trở thành thủ tướng

Phân chia ghế trong Reichstag sau cuộc bầu cử vào tháng 11 năm 1932. Đảng Quốc Xã tuy vẫn là đảng mạnh nhất, nhưng chỉ giành 196 ghế, sụt giảm đáng kể so với 230 ghế tại cuộc bầu cử trước đó vào tháng 7.

Trong cuộc bầu cử quốc hội tháng 7 năm 1932, Đảng Quốc Xã trở thành đảng mạnh nhất với 37,3% phiếu. Tuy nhiên, vì những lục đục chính trị nên chỉ sau buổi họp quốc hội lần hai vào ngày 12 tháng 9, Hindenburg một lần nữa giải tán quốc hội và cai trị chuyên chế thông qua Nghị định khẩn cấp (Notverordnung).[g] Tại cuộc bầu cử tháng 11 năm 1932, Đảng Quốc Xã tuy mất đi một lượng lớn phiếu bầu khi chỉ còn 33,1% nhưng vẫn là đảng mạnh nhất quốc hội.[167] Trong số các đảng đối lập, Đảng Cộng sản Đức giành thêm ghế với 16,9% số phiếu, trở thành đảng lớn thứ ba. Việc hai đảng cực hữu và cực tả chiếm 50% số phiếu khiến các đảng có lập trường ủng hộ dân chủ, bao gồm SPD và Trung tâm, không thể tạo dựng liên minh đa số. Trước tình hình trên, Papen tuyên bố từ chức và thiết lập một chính phủ tạm quyền.[167] Papen phát biểu trước nội các của mình rằng ông muốn áp đặt thiết quân luật và lợi dụng Nghị định khẩn cấp để biến mình thành độc tài.[167] Tuy nhiên, ông nhanh chóng được cấp dưới khuyên can rằng điều đó là bất khả thi, bởi lẽ quân đội Đức khi đó không tài nào duy trì trật tự trước phe quốc xã và cộng sản.[h][168][169]

Hitler trong mắt nhiều người — mà trong đó có nhiều nhà tư bản công nghiệp có tiếng nói theo tư tưởng bảo thủ — là một người phù hợp cho vị trí thủ tướng. Hjalmar Schacht cùng nhiều nhân vật có tiếng nói trong nghành công nghiệp, kinh tế và nông nghiệp đã gửi đơn kiến nghị Hindenburg bổ nhiệm Hitler.[170] Những nguyên nhân khiến những người này ủng hộ Hitler là vì họ muốn dựa vào Đảng Quốc Xã để phục vụ cho tham vọng riêng, bao gồm "loại bỏ vĩnh viễn KPD, SPD và các tổ chức công đoàn", giải phóng nước Đức khỏi cách áp đặt của Hòa ước Versailles và cuối cùng chính là tái khởi động chương trình sản xuất vũ khí để thu lợi nhuận. Những nhân vật thuộc giới tinh hoa này cho rằng họ có thể "kiềm chế" và "thuần hóa" Hitler.[171] Hindenburg không phê chuẩn lời đề nghị trên và để phòng ngừa nội chiến xảy ra, cũng như lo ngại Reichswehr sẽ không thể áp chế các lực lượng dân quân của Đảng Quốc Xã lẫn Đảng Cộng Sản, ông đã bổ nhiệm Kurt von Schleicher làm thủ tướng vào ngày 3 tháng 12 năm 1932.[172]

Ngay sau khi nhậm chức, Schleicher muốn chia rẽ Đảng Quốc Xã bằng sách lược Querfront (Mặt trận chéo).[i][173] Lãnh đạo phe cánh tả của Đảng Quốc Xã là Gregor Strasser đã đồng ý với lời đề nghị gia nhập nội các của Schleicher để trở thành phó thủ tướng. Tuy nhiên, Hitler từ chối từ bỏ yêu sách đối với chức vị thủ tướng. Trong một cuộc họp đảng, Hitler đã sử dụng nước mắt và đe dọa tự tử, qua đó thành công thuyết phục các thành viên trong đảng ủng hộ mình.[174] Trước sức ép, Strasser phải từ chức vào ngày 8 tháng 12. Và như vậy các cố vấn bảo thủ của Hindenburg đã thất bại trong nỗ lực lôi kéo Đảng Quốc Xã vào chính phủ mà không trao chức vị thủ tướng cho Hitler.

Hitler đón nhận sự tung hô từ đám đông trong buổi tối ngày nhậm chức, 30 tháng 1 năm 1933

Cuộc gặp giữa Hitler và Papen hôm 4 tháng 1 năm 1933 được xem là "giây phút khai sinh Đệ tam Đế chế".[175] Hitler thành công thuyết phục Papen ủng hộ mình sau khi đề nghị ông ta trở thành phó thủ tướng, sở hữu đặc quyền được phép phản đối mọi đề xuất từ phía văn phòng thủ tướng đệ trình lên Hindenburg, trong khi các vị trí bộ trưởng cổ điển[j] vẫn sẽ do các chính khách bảo thủ nắm giữ.[176] Cả Papen lẫn Hugenberg của Đảng Nhân dân Quốc gia Đức (DNVP) đều tự tin rằng họ có thể "kiểm soát" và "thuần hóa" thủ tướng Hitler khi mà người của họ đều giữ các vị trí quan trọng của chính phủ.[177] Chính quyền của Schleicher dần bị cô lập,[178] đặc biệt là khi thiếu đi sự chống lưng từ Reichswehr sau khi Tướng Werner von Blomberg, một nhân vật thân Quốc Xã, trở thành Bộ trưởng Quân đội.[179] Sau khi lời đề nghị mở một cuộc bầu cử mới bị Hindenburg từ chối, Schleicher đã xin từ chức. Hitler – lúc này đã có sự ủng hộ từ Papen, Hugenberg – được Hindenburg miễn cưỡng chấp nhận bổ nhiệm làm thủ tướng.[180]

Ngày 30 tháng 1 năm 1933, nội các mới tuyên thệ nhậm chức trong một buổi lễ ngắn gọn tại văn phòng của Hindenburg. Theo thỏa thuận, gần như toàn bộ mọi vị trí trong nội các Hitler đều là đảng viên DNVP. Ngoài bản thân Hitler ra, Đảng Quốc Xã còn có Wilhelm Frick trở thành Bộ trưởng Nội vụ Đức còn Hermann Göring trở thành Bộ trưởng Nội vụ Phổ,[181] nắm trong tay quyền chỉ huy lực lượng cảnh sát của quốc gia lớn nhất trực thuộc Cộng hòa Weimar.[182] Sở hữu những vị trí then chốt,[171] Đảng Quốc Xã tuy không chiếm đa số trong nội các nhưng lại nắm quyền kiểm soát nền chính trị trong nước.[183]

Vụ hỏa hoạn Reichstag và các cuộc bầu cử tháng 3

Trên cương vị thủ tướng, Hitler ngăn cản nỗ lực tạo dựng một chính phủ đa số của các đảng phái đối lập. Bởi tình hình chính trị bế tắc, Hitler yêu cầu Hindenburg giải tán Reichstag một lần nữa và lên kế hoạch tiến hành các cuộc bầu cử mới vào đầu tháng 3. Ngày 27 tháng 2 năm 1933, tòa nhà Reichstag bị cháy. Göring đổ lỗi cho phe Cộng sản do việc đảng viên Cộng sản người Hà Lan Marinus van der Lubbe bị phát hiện là có mặt tại hiện trường trong lúc tòa nhà đang cháy.[184] Theo Ian Kershaw, gần như tất cả các sử gia đều nhất trí rằng van der Lubbe thực sự là người phóng hỏa.[185] Tuy nhiên, một số sử gia khác, trong đó có William L. ShirerAlan Bullock, thì cho rằng Đảng Quốc Xã mới là người đứng sau hành động này.[186][187] Trước sự thúc giục của Hitler, Hindenburg phản ứng bằng Nghị định Hỏa hoạn Reichstag ngày 28 tháng 2, trong đó đình chỉ các quyền cơ bản và cho phép giam giữ mà không cần xét xử. Sắc lệnh trên được ban hành chiếu theo Điều 48 của Hiến pháp Weimar, cho phép tổng thống thực hiện các biện pháp khẩn cấp để bảo vệ trật tự và an toàn công cộng.[188] Đảng Cộng sản Đức (KPD) bị đình chỉ mọi hoạt động và khoảng 4.000 đảng viên của đảng này đã bị bắt giữ.[189]

Ngoài vận động chính trị, Đảng Quốc Xã còn tham gia vào các hoạt động bạo lực bán quân sự và đẩy mạnh tuyên truyền chống cộng trong những ngày trước bầu cử. Tại ngày bầu cử 6 tháng 3 năm 1933, tỷ lệ phiếu bầu của Đảng Quốc Xã tăng lên 43,9%, trở thành đảng nắm giữ nhiều ghế nhất trong Quốc hội. Tuy nhiên, do không thể đảm bảo đa số tuyệt đối (2/3) nên Đảng Quốc Xã buộc phải tiếp tục liên minh với Đảng Nhân dân Quốc gia Đức.[190]

Ngày Potsdam và Đạo luật trao quyền

Paul von Hindenburg và Adolf Hitler trong ngày Potsdam, 21 tháng 3 năm 1933

Ngày 21 tháng 3 năm 1933, Reichstag (Quốc hội) mới được thành lập với một buổi lễ khai mạc tại Garnisonkirche (Nhà thờ Đồn lính) ở Potsdam. Ngày hôm đó, còn gọi là "ngày Potsdam", được tổ chức nhằm phô diễn sự hòa hợp giữa phong trào Quốc Xã với giới tinh hoa và quân đội nước Phổ cũ. Hitler xuất hiện trong áo đuôi tôm, cung kính đón tiếp Hindenburg.[191][192]

Nhằm thâu tóm quyền kiểm soát chính trị mà không sở hữu đa số tuyệt đối trong quốc hội, chính phủ Hitler kiến nghị quốc hội mới bầu tiến hành bỏ phiếu cho Ermächtigungsgesetz (Đạo luật Cho quyền). Luật này — tên chính thức là Gesetz zur Behebung der Not von Volk und Reich (Luật khắc phục tai họa của Nhân dân và Quốc gia) — trao cho nội các Hitler quyền ban hành các đạo luật mà không cần quốc hội thông qua trong vòng bốn năm. Những đạo luật trên (với một số ngoại lệ nhất định) có thể đi chệch khỏi hiến pháp.[193] Vì ảnh hưởng tới hiến pháp nên Đạo luật Cho quyền yêu cầu phải đạt 2/3 số phiếu trong cuộc bỏ phiếu mới có thể thông qua. Để nắm chắc phần thắng, Đảng Quốc Xã lợi dụng các điều khoản của Nghị định Hỏa hoạn Reichstag để bỏ tù toàn bộ 81 nghị sĩ của Đảng Cộng sản (bất chấp chiến dịch tàn bạo chống lại đảng KPD trước đó, Đức Quốc Xã vẫn cho phép họ tranh cử)[194] và ngăn không cho một số đảng viên Dân chủ Xã hội tham dự.[195]

Ngày 23 tháng 3 năm 1933, Reichstag nhóm họp tại Nhà hát Opera Kroll trong tình cảnh hỗn loạn. Hàng loạt lính SA canh phòng trong tòa nhà, trong khi bên ngoài là một đám người hô vang khẩu hiệu phản đối dự luật và đe dọa các đại biểu quốc hội đến muộn.[196] Trong bối cảnh lúc bấy giờ, lập trường của Đảng Trung tâm, đảng lớn thứ ba trong Reichstag, mang ý nghĩa quyết định. Sau khi Hitler thành công thuyết phục nhà lãnh đạo đảng Trung tâm Ludwig Kaas rằng Hindenburg sẽ vẫn giữ quyền phủ quyết, Kaas tuyên bố rằng đảng của ông sẽ ủng hộ dự luật này. Mọi đảng phái, với ngoại lệ là Đảng Đảng Dân chủ Xã hội, đều bỏ phiếu ủng hộ. Với tỉ lệ phiếu 441–84, dự luật được thông qua. Và như vậy, thông qua đạo luật Cho quyền cùng Nghị định Hỏa hoạn Reichstag, chính quyền của Hitler de facto trở thành một thể chế độc tài hợp pháp.[197]

Chế độ độc tài

Trước nguy cơ thốt ra những điều có vẻ vô nghĩa, tôi xin được nói với anh rằng phong trào quốc gia xã hội chủ nghĩa sẽ tiếp diễn trong 1000 năm nữa! [...] Đừng quên 15 năm trước người ta cười tôi thế nào khi tôi khẳng định rồi một ngày tôi sẽ cai trị nước Đức. Giờ họ lại một lần nữa cười tôi một cách ngu ngốc khi tôi tuyên bố mình sẽ giữ vững quyền lực![198]

—  Adolf Hitler trao đổi với một phóng viên người Anh ở Berlin, tháng 6 năm 1934

Sau khi giành được toàn quyền kiểm soát các nhánh lập pháp và hành pháp của chính phủ, Hitler cùng bè phái bắt đầu trấn áp phe đối lập còn lại. Đảng Dân chủ Xã hội bị cấm và tịch thu mọi tài sản.[199] Trong lúc nhiều đại biểu công đoàn có mặt ở Berlin để tham gia các hoạt động nhân Ngày Quốc tế Lao động, lực lượng xung kích (Sturmtruppe) của SA đã tấn công, đập phá văn phòng nghiệp đoàn trên phạm vi cả nước. Ngày 2 tháng 5 năm 1933, toàn bộ công đoàn bị ép phải giải tán, các nhà lãnh đạo bị bắt giam, một số bị đưa đến giam cầm tại trại tập trung.[200] Mặt trận Lao động Đức (DAF) được thành lập như một tổ chức bảo trở đại diện cho mọi công nhân, nhà quản lý, và chủ sở hữu công ty, qua đó phản ánh khái niệm chủ nghĩa quốc gia xã hội theo tinh thần Volksgemeinschaft (cộng đồng nhân dân) của Hitler.[201]

Năm 1934, Hitler trở thành người đứng đầu nước Đức với danh nghĩa Führer und Reichskanzler (Lãnh tụ và Thủ tướng Quốc gia)

Cuối tháng 6, các đảng phái khác bị đe dọa giải tán, trong đó có Đảng Nhân dân Quốc gia Đức (DNVP) – đối tác liên minh trên danh nghĩa của Đảng Quốc Xã. Với sự trợ giúp từ SA, Hitler đã buộc thủ lĩnh đảng này là Hugenberg từ chức vào ngày 29 tháng 6. Đến ngày 14 tháng 7 năm 1933, Đảng Quốc Xã tuyên bố là chính đảng hợp pháp duy nhất tại Đức.[201][199] Các yêu sách đòi quyền lực chính trị và quân sự của SA đã làm dấy lên nỗi lo cho giới lãnh đạo chính trị, quân sự và công nghiệp. Để đối phó nguy cơ này, Hitler cho thanh trừng toàn bộ ban lãnh đạo SA trong Đêm của những con dao dài, diễn ra từ ngày 30 tháng 6 đến ngày 2 tháng 7 năm 1934.[202] Các đối tượng rơi vào tầm ngắm bao gồm Ernst Röhm và các quan chức cấp cao trong hàng ngũ SA, cũng như các địch thủ chính trị khác của Hitler (như Gregor Strasser hay cựu thủ tướng Kurt von Schleicher), đã bị vây bắt, bỏ tù hoặc xử bắn.[203] Trong khi cộng đồng quốc tế và một số người Đức bị sốc trước các vụ giết người thì nhiều người ở Đức lại tin rằng Hitler đang cố gắng khôi phục trật tự.[204]

Hindenburg qua đời vào ngày 2 tháng 8 năm 1934. Ngay hôm trước đó, nội các đã cho ban hành "Luật Liên quan tới Chức vụ Nhà nước Cao nhất của Quốc gia".[205] Luật này quy định rằng sau khi Hindenburg mất, văn phòng tổng thống sẽ bị bãi bỏ và quyền hạn của nó được hợp nhất với quyền hạn thủ tướng. Hitler thông qua đó sẽ trở thành người đứng đầu nhà nước cũng như chính phủ dưới cương vị mới mang tên Führer und Reichskanzler (lãnh tụ và thủ tướng),[206] dù chức vụ Reichskanzler về sau đã lặng lẽ bị loại bỏ và chỉ còn hư danh.[207] Với hành động này, Hitler đã thủ tiêu biện pháp hợp pháp cuối cùng có thể lật đổ ông khỏi vị trí nguyên thủ quốc gia.[208]

Trên cương vị nguyên thủ quốc gia, Hitler trở thành tư lệnh tối cao của các lực lượng vũ trang. Ngay sau cái chết của Hindenburg, theo sự xúi giục của giới lãnh đạo Reichswehr, lời tuyên thệ trung thành truyền thống của quân nhân đã được thay đổi. Kể từ đó, quân nhân phải tuyên thệ lòng trung thành với cá nhân Hitler, chứ không phải với nhà nước hay văn phòng tổng tư lệnh (sau này được đổi tên thành Bộ Chỉ huy Tối cao).[209] Ngày 19 tháng 8, việc sáp nhập các chức vụ chỉ huy lại làm một được phê chuẩn bởi 88% phiếu cử tri trong một cuộc trưng cầu.[210]

Kỳ hiệu cá nhân của Hitler

Vào đầu năm 1938, nhằm chỉnh đốn quân đội, Hitler sử dụng thủ đoạn hăm dọa để mở cuộc điều tra vụ Blomberg–Fritsch. Hitler ép Bộ trưởng Chiến tranh, thống chế Werner von Blomberg, từ chức bằng cách trưng một hồ sơ cảnh sát cho thấy vợ mới của Blomberg từng là gái mại dâm.[211][212] Tư lệnh lục quân, Đại tá-Tướng Werner von Fritsch bị cách chức sau khi Schutzstaffel (SS) trình ra những cáo buộc cho rằng ông ta có quan hệ đồng tính luyến ái.[213] Hai người này không còn được trọng dụng bởi họ phản đối ý định muốn đặt Wehrmacht vào tư thế sẵn sàng cho chiến tranh ngay từ năm 1938 của Hitler.[214] Hitler tiếp nhận chức danh Tổng tư lệnh của Blomberg, do đó đích thân nắm quyền chỉ huy lực lượng vũ trang. Ngày 4 tháng 2 năm 1938, ông thay Bộ Chiến tranh bằng Oberkommando der Wehrmacht (Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực Đức: OKW) do Tướng Wilhelm Keitel đứng đầu.[215] Cùng ngày, 16 tướng lĩnh bị tước quyền chỉ huy và 44 người khác bị thuyên chuyển công tác vì bị nghi ngờ là không đủ thành tâm với Đảng Quốc Xã. Đến đầu tháng 2 năm 1938 có thêm 12 tướng lĩnh khác bị cách chức.[216]

Hitler cẩn thận khoác lên cho chế độ độc tài của mình một diện mạo hợp pháp. Nhiều sắc lệnh của ông đều dùng cái mác là dựa theo Nghị định Hỏa hoạn Reichstag và qua đó là điều 48 của Hiến pháp Weimar. Reichstag đã gia hạn Đạo luật trao quyền hai lần, mỗi lần có thời hạn bốn năm.[217] Mặc dù các cuộc tuyển cử Reichstag vẫn được tổ chức (vào các năm 1933, 1936 và 1938), cử tri tham gia bỏ phiếu chỉ được phép bầu chọn những cái tên nằm trong danh sách chỉ gồm đảng viên Quốc Xã và những "khách mời" của Đảng Quốc Xã.[218] Các cuộc bầu cử này đều được tổ chức trong điều kiện "chẳng có gì bí mật" và Đảng Quốc Xã ngang nhiên đe dọa trả đũa tàn bạo bất kỳ ai không bỏ phiếu hoặc dám bỏ phiếu chống.[219]

Đức Quốc Xã

Kinh tế và văn hóa

Nghi lễ tưởng niệm người chết (Totenehrung) trên nền đất cao phía trước Hội trường Danh dự (Ehrenhalle) tại Khu Đại hội Đảng Quốc Xã, Nürnberg, tháng 9 năm 1934

Tháng 8 năm 1934, Hitler bổ nhiệm chủ tịch Reichsbank (Ngân hàng Quốc gia) Hjalmar Schacht làm Bộ trưởng Kinh tế và Đặc mệnh toàn quyền về Kinh tế Chiến tranh trong năm kế tiếp, phụ trách việc chuẩn bị nền kinh tế cho chiến tranh.[220] Hoạt động tái thiết và tái vũ trang được cung cấp vốn thông qua hối phiếu Mefo, in tiền và chiếm đoạt tài sản của những người bị bắt thuộc nhóm kẻ thù của nhà nước, trong đó có người Do Thái.[221] Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 6 triệu năm 1932 xuống còn 1 triệu năm 1936.[222] Hitler giám sát một trong những chiến dịch cải thiện cơ sở hạ tầng lớn nhất lịch sử nước Đức, dẫn tới việc xây dựng một loạt đập ngăn nước, autobahn, đường sắt, và những công trình dân dụng khác. Ở khoảng giữa đến cuối thập niên 1930, mức thu nhập bình quân của người Đức đã giảm chút ít so với hơn thời Cộng hòa Weimar trong khi chi phí sinh hoạt tăng 25%.[223] Số giờ lao động trung bình một tuần tăng lên trong giai đoạn chuyển dịch sang nền kinh tế chiến tranh. Vào năm 1939, người Đức trung bình làm việc từ 47 đến 50 giờ một tuần.[224]

Chính quyền Hitler bảo trợ kiến trúc trên một quy mô rất lớn. Albert Speer, người có công trong việc thực hiện diễn giải lại văn hóa Đức theo chủ nghĩa cổ điển của Hitler, được giao trọng trách đề ra các phương án cải tạo kiến trúc thủ đô Berlin.[225] Bất chấp bị nhiều quốc gia đe dọa tẩy chay, Đức vẫn đăng cai Thế vận hội năm 1936. Hitler cử hành lễ khai mạc và dự khán các môn thi đấu của cả Thế vận hội mùa đông ở Garmisch-PartenkirchenThế vận hội mùa hè ở Berlin.[226]

Tái vũ trang và các liên minh mới

Trong cuộc gặp với các nhà lãnh đạo quân sự Đức vào ngày 3 tháng 2 năm 1933, Hitler đã làm một bài phát biểu về "cuộc chinh phục Không gian sống ở phía Đông và công cuộc Đức hóa tàn bạo của nó" và xem đây là mục tiêu cuối cùng của chính sách đối ngoại.[227] Tháng 3 cùng năm, Thân vương Bernhard Wilhelm von Bülow, thư ký Auswärtiges Amt (Văn phòng Đối ngoại), đã ban hành một bản tuyên bố về các mục tiêu lớn trong chính sách đối ngoại của Đức: Anschluss đối với Áo, khôi phục lại đường biên giới quốc gia năm 1914, xóa bỏ những ràng buộc quân sự của Hòa ước Versailles, tái lập các thuộc địa trước đây ở châu Phi và tạo một vùng ảnh hưởng của Đức ở Đông Âu. Hitler cho rằng những mục tiêu mà Bülow đưa ra quá khiêm tốn.[228] Trong nhiều bài phát biểu trong giai đoạn này, ông nhấn mạnh mục tiêu hòa bình trong các chính sách của mình và sẵn sàng hành động trong khuôn khổ hiệp ước quốc tế.[229] Tại cuộc họp nội các đầu tiên vào năm 1933, Hitler ưu tiên chi tiêu cho quân sự hơn là hỗ trợ thất nghiệp.[230]

Benito Mussolini cùng Hitler vào ngày 25 tháng 10 năm 1936 khi Trục Đức – Ý được tuyên bố.

Tháng 10 năm 1933, Đức rút khỏi Hội Quốc LiênHội nghị Giải trừ Quân bị Thế giới.[231] Tháng 1 năm 1935, hơn 90% dân số Saarland, khi đó nằm dưới quyền quản lý của Hội Quốc Liên, đã bỏ phiếu thống nhất với Đức.[232] Tháng 3 năm đó, Hitler tuyên bố mở rộng Wehrmacht lên mốc 600.000 người – gấp 6 lần giới hạn Hòa ước Versailles cho phép – bao gồm cả việc phát triển không quân (Luftwaffe) và mở rộng quy mô hải quân (Kriegsmarine). Các nước Anh, Pháp, Ý và Hội Quốc Liên đều lên án những hành vi vi phạm hiệp ước của Đức, song không làm gì để ngăn chặn.[233][234] Hiệp ước Hải quân Anh – Đức (AGNA) ngày 18 tháng 6 cho phép tăng trọng tải của hải quân Đức tăng lên mức 35% của Hải quân Hoàng gia Anh. Hitler gọi việc ký kết AGNA là "ngày hạnh phúc nhất trong đời", tin rằng hiệp ước đã đánh dấu sự khởi đầu của liên minh Anh – Đức mà ông từng tiên đoán trong cuốn Mein Kampf.[235] Việc Anh ký kết hiệp ước mà không bàn bạc trước với Pháp và Ý đã trực tiếp làm tổn hại Hội Quốc Liên và dần khiến Hòa ước Versailles trở nên vô hiệu.[236]

Tháng 3 năm 1936, Đức tái chiếm khu phi quân sự ở Rheinland, vi phạm Hòa ước Versailles. Hitler còn gửi quân đến Tây Ban Nha đễ hỗ trợ Tướng Francisco Franco trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha sau khi nhận được lời kêu gọi giúp đỡ vào tháng 7 năm 1936. Hitler đồng thời tiếp tục những nỗ lực nhằm tạo dựng liên minh Anh – Đức.[237] Tháng 8 năm 1936, để đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế đang leo thang do nỗ lực tái vũ trang gây nên, Hitler lệnh cho Göring triển khai thực hiện Kế hoạch Bốn Năm nhằm chuẩn bị cho nước Đức sẵn sàng tham chiến trong vòng bốn năm tới.[238] Kế hoạch dự đoán một cuộc chiến toàn lực giữa chủ nghĩa "Do Thái – Bolshevik" và chủ nghĩa Quốc gia Xã hội Đức, cuộc chiến mà theo Hitler đòi hỏi một cuộc tái vũ trang toàn diện bất chấp mọi tổn thất kinh tế.[239]

Bá tước Galeazzo Ciano, ngoại trưởng của chính phủ Mussolini, đã tuyên bố về một liên minh giữa Đức và Ý. Ngày 25 tháng 11, Đức ký Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản với Nhật. Các nước Anh, Trung Quốc, Ý và Ba Lan đều được mời gia nhập hiệp ước này song chỉ có Ý đồng ý ký vào năm 1937. Hitler từ bỏ kế hoạch liên minh với Anh, chỉ trích giới lãnh đạo Anh "không xứng".[240] Tại một cuộc họp với các ngoại trưởng và tư lệnh quân đội ở phủ thủ tướng vào tháng 11, Hitler tái phát biểu ý định chiếm đánh Không gian sống cho dân tộc Đức. Ông ra lệnh chuẩn bị để khởi động chiến tranh ở phía đông, sớm nhất là vào năm 1938 và không được muộn quá năm 1943. Trong trường hợp Hitler qua đời đột ngột, biên bản của một cuộc họp, gọi là Biên bản ghi nhớ Hossbach, được xem là "chúc thư chính trị" của ông.[241] Hitler thấy rằng sự sụt giảm nghiêm trọng trong mức sống tại Đức do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế chỉ có thế khắc phục bằng cuộc xâm lược Áo và Tiệp Khắc.[242][243] Hitler kêu gọi hành động nhanh chóng trước khi Anh và Pháp giành thế dẫn đầu trong cuộc chạy đua vũ trang.[242] Vào đầu năm 1938, sau vụ Blomberg-Fritsch, Hitler đòi quyền kiểm soát bộ máy chính sách ngoại giao – quân sự. Ông cách chức ngoại trưởng của Neurath và tự bổ nhiệm bản thân làm Bộ trưởng Chiến tranh.[238] Từ đầu năm 1938 trở đi, Hitler thực thi một chính sách đối ngoại hướng đến một cuộc chiến.[244]

Chiến tranh thế giới thứ hai

Hitler và ngoại trưởng Nhật Bản Matsuoka Yōsuke trong cuộc gặp ở Berlin vào tháng 3 năm 1941. Ở phía sau là Joachim von Ribbentrop.

Những thành tựu ngoại giao ban đầu

Liên minh với Nhật

Là một người cực kỳ thân Nhật, tân ngoại trưởng Joachim von Ribbentrop thành công thuyết phục Hitler chấm dứt liên minh với một Trung Hoa Dân Quốc bất ổn, chia năm xẻ bảy, để thay vào đó là một liên minh với một Đế quốc Nhật Bản hiện đại và hùng mạnh hơn. Ngày 12 tháng 5 năm 1938, Hitler tuyên bố Đức công nhận Mãn Châu quốc, quốc gia bù nhìn đứng đầu bởi cựu hoàng Phổ Nghi do Nhật thành lập sau khi chiếm đóng Mãn Châu, đồng thời dứt bỏ yêu sách đối với những thuộc địa trước kia của Đức ở Thái Bình Dương được chuyển giao cho Nhật sau Thế chiến I.[245] Hitler ra lệnh chấm dứt vận chuyển vũ khí đến Trung Quốc và triệu hồi tất cả các sĩ quan Đức đang làm việc với Quốc dân Cách mệnh Quân.[245] Để đáp trả, Tưởng Giới Thạch đã hủy bỏ mọi hiệp ước kinh tế Trung – Đức khiến Đức mất đi nhiều nguồn nguyên liệu thô nhập khẩu từ Trung Quốc.[246]

Áo và Tiệp Khắc

Tháng 10 năm 1938: Hitle đi qua đám đông ở Cheb (tiếng Đức: Eger), thuộc Sudetenland

Ngày 12 tháng 3 năm 1938, Hitler tuyên bố thống nhất Áo với Đức Quốc Xã trong sự kiện Anschluss.[247][248] Hitler sau đó chuyển sự chú ý của mình sang cộng đồng dân tộc Đức ở vùng Sudetenland của Tiệp Khắc.[249] Trong hai ngày 28 và 29 tháng 3 năm 1938, Hitler chủ trì một loạt cuộc họp bí mật tại Berlin với Konrad Henlein của Sudetendeutsche Partei (Đảng Đức Sudeten), đảng lớn nhất trong số các đảng phái của người Đức ở Sudetenland. Các bên đi đến thống nhất rằng Henlein sẽ yêu cầu tăng quyền tự trị cho người Đức Sudeten, từ đó tạo ra cái cớ để Đức động binh với Tiệp Khắc. Tháng 4 năm 1938, Henlein nói với ngoại trưởng Hungary rằng "bất kể chính quyền Tiệp Khắc có đưa ra đề nghị gì đi nữa, ông ta sẽ luôn đưa ra những yêu cầu cao hơn […] ông ta muốn phá hoại thỏa thuận bằng bất kỳ biện pháp nào vì đây là phương pháp duy nhất để thổi bay Tiệp Khắc một cách nhanh chóng".[250] Về mặt cá nhân, Hitler không coi trọng vấn đề Sudetenland. Ý định thực sự của ông là sáp nhập toàn cõi Tiệp Khắc vào nước Đức.[251]

Vào tháng 4, Hitler lệnh cho OKW chuẩn bị cho Fall Grün (Kế hoạch màu lục), mật danh của cuộc xâm lược Tiệp Khắc.[252] Trước áp lực ngoại giao dữ dội của Pháp và Anh, vào ngày 5 tháng 9, Tổng thống Tiệp Khắc Edvard Beneš công bố "Kế hoạch Thứ tư" nhằm tái cơ cấu hiến pháp nước nhà, trong đó chấp thuận hầu hết yêu sách của Henlein đối với người Sudeten.[253] Đảng của Henlein đáp trả lời đề nghị của Beneš bằng cách kích động một loạt những vụ xung đột ác liệt với cảnh sát Tiệp Khắc dẫn tới việc ban bố tình trạng thiết quân luật ở một số khu vực nhất định trong địa phận Sudetenland.[254][255]

Nước Đức vốn phụ thuộc vào dầu nhập khẩu, mà một cuộc đối đầu với Anh do những bất đồng xoay quanh vấn đề Tiệp Khắc có thể cắt giảm nguồn cung dầu của Đức. Điều này buộc Hitler phải hoãn lại Fall Grün vốn được lên kế hoạch vào ngày 1 tháng 10 năm 1938.[256] Ngày 29 tháng 9, Hitler, Neville Chamberlain, Édouard Daladier và Mussolini đã tham dự một hội nghị kéo dài một ngày ở München, kết quả là các bên đã cùng nhau ký kế Thỏa thuận München bàn giao Sudetenland cho Đức.[257][258]

Chamberlain hài lòng với hội nghị München, gọi thành quả đạt được là "hòa bình cho thời đại chúng ta", trong khi Hitler tỏ ra giận dữ vì đánh mất thời cơ phát động chiến tranh trong năm 1938.[259][260] Ông bày tỏ sự thất vọng trong một bài phát biểu vào ngày 9 tháng 10 ở Saarbrücken.[261] Theo quan điểm của Hitler, nền hòa bình do Anh trung gian dù nhìn bề ngoài có vẻ có lợi cho Đức nhưng lại là một thất bại ngoại giao khiến ông ta có ý định hạn chế quyền lực của Anh để mở đường cho kế hoạch bành trướng về phía Đông.[262][263] Một hệ quả của hội nghị thượng đỉnh tại München là Hitler được tạp chí Time bình chọn là Nhân vật của năm 1938.[264]

Cuối năm 1938 đầu năm 1939, khủng hoảng kinh tế tiếp diễn do hoạt động tái vũ trang buộc Hitler phải cắt giảm mạnh chi tiêu quốc phòng.[265] Trong bài phát biểu "Xuất khẩu hay là chết" ngày 30 tháng 1 năm 1939, ông kêu gọi một cuộc tấn công trên mặt trận kinh tế nhằm tăng lượng ngoại hối để thanh toán các loại nguyên liệu thô như sắt cao cấp cần thiết cho khí tài quân sự.[265]

Vào ngày 14 tháng 3 năm 1939, dưới sự đe dọa từ Hungary, Slovakia tuyên bố độc lập và nhận được sự bảo hộ từ Đức.[266] Ngày hôm sau, Hitler lệnh cho Wehrmacht tiến vào vùng lãnh thổ còn lại Tiệp Khắc, vi phạm hiệp ước München. Nguyên nhân có thể là do những hệ quả của cuộc khủng hoảng kinh tế leo thang khiến nước Đức cần gấp những nguồn của cải bổ sung.[267] Từ lâu đài Praha, Hitler tuyên bố hai xứ BöhmenMähren trở thành vùng bảo hộ của Đức.[268]

Thế chiến II bắt đầu

Trong các cuộc thảo luận bí mật năm 1939, Hitler tuyên bố Anh là kẻ thù chính và việc xóa sổ Ba Lan là bước mở đầu cần làm cho mục tiêu đó.[269] Cánh phía đông sẽ được đảm bảo và sẽ được bổ sung vào Không gian sống của dân tộc Đức.[270] Ngày 31 tháng 3 năm 1939, khó chịu vì "sự bảo lãnh" của Anh dành cho nền độc lập Ba Lan, Hitler tuyên bố "sẽ pha cho chúng món đồ uống của quỷ".[271] Trong bài phát biểu tại Wilhelmshaven nhân sự kiện hạ thủy thiết giáp hạm Tirpitz ngày 1 tháng 4, Hitler đe dọa hủy bỏ Hiệp ước Hải quân Anh – Đức nếu Anh vẫn tiếp tục "cố chấp" bảo lãnh nền độc lập của Ba Lan, cái mà ông gọi là chính sách "bao vây".[271] Đối với vấn đề Ba Lan, Hitler có hai phương án, hoặc nước này trở thành một quốc gia vệ tinh của Đức hoặc cần giữ trung lập để biên giới phía đông của Đức được đảm bảo, ngăn chặn nguy cơ nước Đức bị Anh phong tỏa từ hai phía.[272] Hitler ban đầu ủng hộ ý tưởng quốc gia vệ tinh, nhưng khi đề nghị này bị chính quyền Ba Lan khước từ, ông quyết định xâm lược và coi đây là mục tiêu ngoại giao chính của năm 1939.[273] Ngày 3 tháng 4, Hitler chỉ thị quân đội chuẩn bị cho Fall Weiss (Kế hoạch Trắng), kế hoạch xâm lược Ba Lan được dự định sẽ tiến hành trong ngày 25 tháng 8 tới.[273] Trong bài phát biểu trước Reichstag hôm 28 tháng 4, Hitler tuyên bố rút khỏi Hiệp ước Hải quân Anh – Đức và Hiệp ước bất tương xâm Đức – Ba Lan.[274] Các nhà sử học như William Carr, Gerhard WeinbergIan Kershaw cho rằng một trong những lý do khiến Hitler vội vã lao vào cuộc chiến là vì sợ mình chết sớm. Ông nhiều lần khẳng định phải dẫn dắt nước Đức vào chiến tranh trước khi trở nên quá già, vì lo ngại rằng những người kế vị có thể không có ý chí kiên cường như ông.[275][276][277]

Hitler lo ngại việc tấn công Ba Lan có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh sớm với nước Anh.[272][278] Tuy nhiên ngoại trưởng Joachim von Ribbentrop cam đoan cả Anh và Pháp sẽ không tôn trọng những cam kết của họ với Ba Lan.[279][280] Theo đó, vào ngày 22 tháng 8 năm 1939, Hitler đã huy động quân đội chuẩn bị tấn công Ba Lan.[281]

Để kế hoạch này diễn ra suôn sẻ, nó đòi hỏi sự ủng hộ từ phía Liên Xô. Hai nước Xô – Đức sau đó đã ký kết một hiệp ước bất tương xâm (hiệp ước Molotov–Ribbentrop), trong đó có thỏa thuận bí mật phân chia Ba Lan giữa Đức và Liên Xô do Iosif Stalin lãnh đạo.[282] Trái với dự đoán của Ribbentrop, hai nước Anh, Ba Lan đã ký kết hiệp ước liên minh vào ngày 25 tháng 8 năm 1939. Tin tức này, cùng với suy nghĩ rằng Mussolini sẽ không tôn trọng Hiệp ước Thép, khiến Hitler phải trì hoãn cuộc tấn công Ba Lan từ ngày 25 tháng 8 tới ngày 1 tháng 9.[283] Ngày 25 tháng 8, nhằm đưa Anh vào thế trung lập, Hitler đề nghị nước này cam kết không xâm lược Đức nhưng không thành công. Sau đó ông chỉ dẫn Ribbentrop trình bày kế hoạch hòa bình phút chót với một giới hạn thời gian cực kỳ ngắn nhằm khiến Anh và Ba Lan phải chịu trách nhiệm cho cuộc chiến vì hai nước này không làm gì để cứu vãn hòa bình.[284][285]

Vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, Đức Quốc Xã phát động xâm lược miền Tây Ba Lan với lý do bị phía Ba Lan từ chối các yêu sách liên quan tới thành phố tự do Danzig và quyền lợi đối với các tuyến đường băng qua hành lang Ba Lan, những thứ mà Đức bị buộc phải nhượng lại theo Hòa ước Versailles.[286] Đáp trả hành động trên, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức vào ngày 3 tháng 9, khiến Hitler ngạc nhiên và giận dữ hỏi Ribbentrop: "Giờ thì sao?"[287] Tuy nhiên, dù tuyên chiến với Đức nhưng cả Anh lẫn Pháp đều không làm gì để giúp Ba Lan. Tiếp đó, vào ngày 17 tháng 9, Liên Xô tiến hành xâm lược miền Đông Ba Lan.[288]

Hitler vẫy chào binh sĩ trên đường hành quân tới Ba Lan, tháng 9 năm 1939

Sự kiện Ba Lan thất thủ được tiếp nối bởi một giai đoạn mà các ký giả đương thời gọi là "Cuộc chiến tranh kỳ quặc" hay Sitzkrieg (Chiến tranh ngồi). Hitler chỉ thị hai Gauleiter (Thống đốc) mới được bổ nhiệm của vùng Tây Bắc Ba Lan, Albert Forster của Reichsgau Danzig-Tây PhổArthur Greiser của Reichsgau Wartheland, tiến hành Đức hóa những khu vực do họ quản lý, nhưng không chỉ thị phải thực hiện quá trình này như thế nào.[289] Tại địa bàn của Forster, người dân tộc Ba Lan chỉ việc ký vào đơn xác nhận rằng họ mang dòng máu Đức.[290] Ngược lại, Greiser ủng hộ chính sách chủng tộc của Himmler và thực hiện chiến dịch thanh lọc sắc tộc đối với người Ba Lan. Greiser phàn nàn rằng Forster dễ dãi chấp nhận hàng ngàn người Ba Lan trở thành người Đức, gây nguy hại đến "sự thuần khiết chủng tộc" của người Đức.[289] Dù là người ra lệnh ban đầu nhưng Hitler cố gắng không can dự tới vụ việc lần này. Đây là một ví dụ minh họa cho lý thuyết "làm việc theo ý lãnh tụ" khi mà Hitler ban hành những chỉ thị mơ hồ và mong chờ cấp dưới tự đưa ra các chính sách của riêng họ.[289][291]

Một cuộc tranh luận khác nổ ra giữa một bên đại diện bởi Heinrich Himmler và Greiser ủng hộ việc thanh lọc chủng tộc ở Ba Lan và bên kia đại diện bởi Göring và toàn quyền Ba Lan Hans Frank, những người kêu gọi biến Ba Lan thành "vựa lúa" của Đức.[292] Đến ngày 12 tháng 2 năm 1940, tranh cãi bước đầu dịu đi nghiêng về phía Göring – Frank và điều này đã chấm dứt những đợt trục xuất hàng loạt gây tổn hại về kinh tế.[292] Ngày 15 tháng 10, Himmler phát hành một báo cáo có tựa "Một vài suy nghĩ về cách xử lý dân ngoại chủng ở phía đông" kêu gọi trục xuất toàn bộ số dân Do Thái châu Âu đến châu Phi và làm giảm dân số Ba Lan xuống còn "giai cấp lao động không có người lãnh đạo",[292] được Hitler khen ngợi là "hay và đúng".[292] Hitler sau đó phớt lờ ý kiến của Göring và Frank và cho thi hành chính sách của Himmler và Greiser ở Ba Lan.

Hitler thăm Paris với kiến trúc sư Albert Speer (trái) và nhà điêu khắc Arno Breker (phải), ngày 23 tháng 6 năm 1940

Ngày 9 tháng 4 năm 1940, quân Đức tiến hành xâm lăng Đan Mạch và Na Uy. Cùng ngày, Hitler tuyên bố sự ra đời của Đế chế Đại Đức, một đế quốc thống nhất của các dân tộc German ở châu Âu, nơi mà người Hà Lan, Vlaanderen và Scandinavia cùng gia nhập một chính thể "thuần khiết về chủng tộc" dưới sự lãnh đạo của người Đức.[293] Tháng 5 năm 1940, Đức tấn công Phápchinh phạt Luxembourg, Hà Lan, Bỉ. Những thắng lợi này đã thúc đẩy Mussolini tham chiến theo phe Hitler vào ngày 10 tháng 6.[294] Ngày 22 tháng 6, Pháp và Đức ký hiệp định đình chiến. Kershaw lưu ý rằng sự tín nhiệm của nhân dân dành cho Hitler – và sự ủng hộ của người Đức đối với cuộc chiến – đạt đỉnh tại thời điểm ông quay trở về Berlin vào ngày 6 tháng 7 sau chuyến công du Paris.[295] Sau chiến thắng chóng vánh bất ngờ trước Pháp, Hitler đã thăng mười hai tướng lĩnh lên cấp thống chế trong Lễ phong chức Thống chế năm 1940.[296][297]

Dù phải sơ tán binh lính khỏi Pháp từ Dunkerque bằng đường biển,[298] Anh cùng các thuộc địa vẫn tiếp tục đối đầu với Đức trong trận Đại Tây Dương. Hitler đã đưa ra lời đề nghị hòa bình với vị lãnh đạo mới của nước Anh, Winston Churchill, nhưng khi bị khước từ. Trước sự chống trả của người Anh, Hitler ra lệnh tiến hành một loạt các cuộc không kích nhằm vào các căn cứ của Không quân Hoàng gia Anh và các trạm ra-đa ở miền Đông Nam nước này. Vào ngày 7 tháng 9, cuộc ném bom hàng đêm có hệ thống nhằm vào thủ đô Luân Đôn bắt đầu. Tuy nhiên, Luftwaffe cuối cùng cũng thất bại trước Không quân Hoàng gia Anh trong trận chiến nước Anh.[299] Đến cuối tháng 9, Hitler nhận ra rằng ông không thể đạt được ưu thế trên không để phục vụ cho cuộc xâm lược Anh (trong Chiến dịch Sư tử biển) và ra lệnh hoãn chiến dịch. Các cuộc không kích ban đêm nhằm vào các thành phố lớn của Anh, bao gồm cả Luân Đôn, PlymouthCoventry, tăng dần và tiếp diễn trong vòng nhiều tháng.[300]

Ngày 27 tháng 9 năm 1940, nhà ngoại giao Kurusu Saburō của Đế quốc Nhật Bản, ngoại trưởng Ý Ciano và Hitler cùng ký Hiệp ước Ba bên.[301] Về sau hiệp ước có thêm Hungary, Rumani, và Bulgari gia nhập tạo thành phe Trục. Nỗ lực kéo Liên Xô vào khối chống Anh của Hitler thất bại sau cuộc đàm phán bất phân thắng bại giữa Hitler và Molotov ở Berlin trong tháng 11. Không kéo được Liên Xô về phe mình, Hitler hạ lệnh cho quân đội chuẩn bị xâm lược Liên Xô.[302]

Lãnh thổ của Đế quốc Đại Đức mà Đức Quốc Xã lên kế hoạch

Mùa xuân năm 1941, quân Đức được triển khai ở Bắc Phi, Balkan và Trung Đông. Tháng 2 năm 1941, quân Đức tới Libya để tăng viện cho Ý. Tháng 4, Hitler phát động cuộc xâm lược Nam Tư và nhanh chóng sau đó là Hy Lạp.[303] Tháng 5 năm đó, Hitler xua quân chiếm đóng đảo Crete và gửi quân tới Iraq hỗ trợ lực lượng nổi dậy chống lại Anh.[304]

Con đường dẫn tới thất bại

Ngày 22 tháng 6 năm 1941, vi phạm hiệp ước Molotov–Ribbentrop, 3 triệu quân phe Trục tấn công Liên bang Xô Viết.[305] Cuộc tấn công này (mật danh chiến dịch Barbarossa) được phát động với ý đồ tiêu diệt Liên Xô và chiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ các cuộc xâm lược sắp tới nhắm vào các nước phương Tây.[306][307] Người Đức nhanh chóng chinh phục một vùng rộng lớn, bao gồm các nước cộng hòa Baltic, Belarus và miền tây Ukraina. Đến đầu tháng 8, quân đội phe Trục đã tiến sâu 500 km (310 dặm) vào lãnh thổ Liên Xô và giành chiến thắng trong trận Smolensk. Hitler lệnh Cụm tập đoàn quân Trung tâm tạm thời dừng tấn công thủ đô Moskva và điều các đội xe tăng đến hỗ trợ bao vây LeningradKiev.[308] Các tướng lĩnh phản đối sự thay đổi này, do lúc đó quân Đức chỉ còn cách thủ đô Liên Xô 400 km (250 mi). Quyết định này của Hitler đã tạo nên một cuộc khủng hoảng trong giới lãnh đạo quân đội.[309][310] Sự ngưng trệ đã cho Hồng quân Liên Xô cơ hội huy động lực lượng dự bị mới; nhà sử học Russel Stolfi nhận định đây là một trong những yếu tố chính dẫn đến thất bại trong cuộc tấn công Moskva được tái khởi động vào tháng 10 năm 1941 và kết thúc thảm hại trong tháng 12.[308] Trong thời gian xảy ra cuộc khủng hoảng, Hitler tự bổ nhiệm bản thân làm người đứng đầu Oberkommando des Heeres (Bộ Tổng tư lệnh Lục quân).[311]

Hitler tuyên bố về việc tuyên chiến với Hoa Kỳ trước Reichstag vào ngày 11 tháng 12 năm 1941

Vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, Hải quân Đế quốc Nhật Bản tấn công hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ đóng tại Trân Châu Cảng, Hawaii. Bốn ngày sau, trong một bài phát biểu trước Reichstag, Hitler tuyên chiến với Hoa Kỳ.[312]

Ngày 18 tháng 12 năm 1941, Himmler hỏi Hitler: "Giờ nên làm gì với bọn Do Thái ở Nga?" Hitler trả lời: "als Partisanen auszurotten" ("tiêu diệt chúng như những tên kháng chiến").[313] Nhà sử học người Israel Yehuda Bauer nhận xét rằng trong số những dữ kiện mà các nhà sử học nắm được thì câu nói này của Hitler có thể được xem là mệnh lệnh tối hậu liên quan tới cuộc diệt chủng người Do Thái.[313]

Cuối năm 1942, quân Đức bị đánh bại trong trận El Alamein thứ hai khiến kế hoạch đánh chiếm kênh đào Suez và Trung Đông của Hitler phá sản.[314] Quá tự tin với chuyên môn quân sự của bản thân sau những chiến thắng thần tốc trước đó vào năm 1940, Hitler dần trở nên nghi ngờ Bộ tư lệnh Tối cao và bắt đầu tự ý can thiệp vào việc lên kế hoạch quân sự và chiến thuật, dẫn tới những hậu quả tai hại.[315] Vào tháng 12 năm 1942 và tháng 1 năm 1943, việc Hitler liên tục từ chối không cho lui binh trong trận Stalingrad dẫn đến việc Tập đoàn quân số 6 bị tiêu diệt gần như toàn bộ, với hơn 200.000 lính phe Trục tử trận và 235.000 người bị bắt làm tù binh.[316] Tiếp đến là một thất bại chiến lược có tính quyết định trong trận Kursk.[317] Đầu óc phán đoán quân sự của Hitler ngày càng trở nên thất thường trong khi tình trạng sức khỏe của ông cũng như tình hình kinh tế và quân đội Đức ngày một xuống dốc.[318]

Căn phòng bản đồ tại Wolfsschanze bị phá hủy sau vụ âm mưu 20 tháng 7

Sau khi quân Đồng Minh xâm lược Sicilia vào năm 1943, Mussolini bị Quốc vương Victor Emmanuel III tước bỏ quyền lực sau một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm của Đại Hội đồng Ý. Thống chế Pietro Badoglio, người được giao quyền điều hành chính phủ, đã nhanh chóng đầu hàng phe Đồng Minh.[319] Trong suốt các năm 1943 và 1944, Liên Xô đã lật ngược thế cờ và khiến quân đội của Hitler phải rút lui trên toàn mặt trận phía đông. Ngày 6 tháng 6 năm 1944, Đồng Minh phương Tây đổ bộ vào miền bắc nước Pháp trong một trong những chiến dịch đổ bộ lớn nhất lịch sử – chiến dịch Overlord.[320] Trước tình cảnh trên, nhiều sĩ quan Đức kết luận rằng thất bại là không thể tránh khỏi và đất nước sẽ bị hủy diệt hoàn toàn nếu Hitler vẫn tiếp tục nắm quyền.[321]

Từ năm 1939 cho đến 1945, Hitler trở thành mục tiêu của nhiều kế hoạch ám sát, với một số kế hoạch tiến triển ở mức độ đáng kể.[322] Vụ ám sát nổi tiếng nhất, Âm mưu 20 tháng 7, không do bất kỳ thế lực ngoại quốc nào giật dây mà xuất phát từ bên trong nước Đức, có lẽ một phần được thúc đẩy bởi viễn cảnh quân Đức bại trận đang ngày một rõ rệt.[323] Trong Chiến dịch Valkyrie, Đại tá Claus von Stauffenberg đặt một quả bom trong sở chỉ huy Wolfsschanze (Hang Sói) của Hitler tại Rastenburg (nay là Kętrzyn). Hitler may mắn thoát chết trong gang tấc vì sĩ quan tham mưu Heinz Brandt đã di chuyển chiếc cặp chứa bom ra sau một chân của bàn hội thảo lớn, làm chệch hướng phần lớn vụ nổ. Sau vụ ám sát hụt lần này, Hitler ra lệnh trả thù tàn bạo, dẫn đến hơn 4.900 người đã bị hành quyết.[324]

Thất bại và cái chết

Cuối năm 1944, cả Hồng quân Liên Xô lẫn Đồng Minh phương Tây đều trên đường tiến vào lãnh thổ Đức. Nhận thấy sức mạnh và sự quyết tâm của Hồng quân, Hitler quyết định sử dụng lực lượng dự bị cơ động còn lại để đối đầu với quân Anh, Mỹ mà ông cho là yếu hơn nhiều.[325] Vào ngày 16 tháng 12, Hitler phát động chiến dịch Ardennes nhằm kích động sự chia rẽ trong khối Đồng Minh phương Tây và có thể là thuyết phục họ tham gia cuộc chiến chống Liên Xô của ông.[326] Cuộc tấn công thất bại dù đã đạt được một số thắng lợi nhất thời. Tháng 1 năm 1945, trong bối cảnh toàn nước Đức chỉ còn là đống đổ nát, Hitler phát biểu trên đài phát thanh: "Tuy cuộc khủng hoảng nghiêm trọng đến nhường nào trong lúc này, nhưng bất chấp tất cả, [cuộc khủng hoảng] vẫn sẽ được kiểm soát bởi ý chí kiên định của chúng ta."[327] Cho rằng thất bại quân sự đồng nghĩa với việc nước Đức sẽ không còn quyền tồn tại, Hitler ra lệnh phá hủy tất cả cơ sở hạ tầng công nghiệp trong nước trước khi nó có thể rơi vào tay quân Đồng Minh.[328] Bộ trưởng Vũ trang Albert Speer được giao phó nhiệm vụ thực thi chính sách tiêu thổ, nhưng ông đã bí mật không tuân lệnh.[328][329] Hy vọng đàm phán hòa bình với Anh và Mỹ của Hitler được cổ vũ bởi cái chết của Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt vào ngày 12 tháng 4 năm 1945. Thế nhưng trái với kỳ vọng của ông, sự kiện này không gây ra rạn nứt giữa các nước Đồng Minh.[326][330]

Vào ngày 20 tháng 4 và cũng là sinh nhật thứ 56 của mình, Hitler đã lần cuối rời Führerbunker (boongke của lãnh tụ) lên mặt đất. Trong khu vườn đổ nát của Phủ thủ tướng, ông trao huân chương Thập tự Sắt cho các người lính nhỏ tuổi thuộc Đoàn Thanh niên Hitler, những người đang chiến đấu chống lại Hồng quân tại mặt trận gần Berlin.[331] Đến ngày 21 tháng 4, Phương diện quân Belorussia 1 của Nguyên soái Georgy Zhukov đã phá vỡ tuyến phòng thủ của Cụm tập đoàn quân Vistula trong trận Đồi Seelow và tiến vào ngoại ô Berlin.[332] Không chấp nhận tình cảnh tồi tệ, Hitler đặt hy vọng vào Armeeabteilung Steiner (Biệt đội quân Steiner), một đội quân thiếu hụt cả quân số lẫn khí tài do tướng Felix Steiner chỉ huy. Steiner được lệnh phối hợp tấn công gọng kìm với Tập đoàn quân số 9. Hitler lệnh cho Steiner tấn công sườn bắc chỗ lồi của chiến tuyến bên phía Liên Xô, trong khi Tập đoàn quân 9 của Đức được lệnh đánh lên phía bắc để thực hiện một cuộc tấn công gọng kìm.[333]

Trang nhất của báo Lực lượng vũ trang Hoa Kỳ, Stars and Stripes, số ngày 2 tháng 5 năm 1945, đăng tin về cái chết của Hitler

Trong một hội nghị quân sự vào ngày 22 tháng 4, Hitler đã hỏi về cuộc tấn công của Steiner. Ông được thông báo rằng cuộc tấn công chưa được phát động và quân Liên Xô đã tiến vào Berlin. Hitler yêu cầu tất cả mọi người ra khỏi phòng ngoại trừ Wilhelm Keitel, Alfred Jodl, Hans KrebsWilhelm Burgdorf,[334] rồi cho ra một tràng các câu chửi rủa sự phản bội và bất tài của các tướng lĩnh, đỉnh điểm là khi ông lần đầu tiên chấp nhận hoàn cảnh và tuyên bố rằng "mọi thứ đã mất".[335] Hitler thông báo rằng mình sẽ ở lại Berlin cho đến cùng rồi sẽ dùng súng tự sát.[336]

Đến ngày 23 tháng 4, Hồng quân Liên Xô đã bao vây Berlin,[337] Goebbels phát đi thông điệp kêu gọi người dân cố thủ thành phố.[334] Cũng trong ngày hôm đó, Göring gửi một bức điện từ Berchtesgaden, viết rằng vì Hitler đã bị cô lập ở Berlin nên Göring sẽ đảm trách cương vị lãnh đạo nước Đức. Göring đặt ra một hạn chót, sau thời hạn ấy ông sẽ coi như Hitler đã không còn năng lực.[338] Hitler phản ứng bằng cách cho bắt giam Göring và trong di chúc và tuyên cáo chính trị cuối cùng viết ngày 29 tháng 4, ông đã tước bỏ tất cả chức vụ chính phủ của Göring.[339][340] Vào ngày 28 tháng 4, Hitler phát hiện ra rằng Himmler, người đã rời Berlin từ ngày 20, đang cố gắng thương thảo đầu hàng với Đồng Minh phương Tây.[341][342] Ông ra lệnh bắt giữ Himmler và xử bắn Hermann Fegelein (đại diện SS của Himmler tại Bộ chỉ huy của Hitler ở Berlin).[343]

Qua nửa đêm ngày 29 tháng 4, Hitler kết hôn với Eva Braun trong một buổi lễ dân sự nhỏ tại Führerbunker.[344] Cuối buổi chiều hôm đó, Hitler hay tin Mussolini đã bị phong trào kháng chiến Ý hành quyết ngày hôm trước. Điều này có lẽ đã khiến ông thêm quyết tâm không để bị bắt.[345]

Vào ngày 30 tháng 4 năm 1945, khi Hồng quân Liên Xô chỉ còn cách Phủ thủ tướng một đến hai khu nhà, Hitler dùng súng tự bắn vào đầu còn Braun thì cắn một viên nang xyanua tự tử.[346][347] Thi thể của họ được đem ra khu vườn phía sau Phủ Thủ tướng, đặt vào một hố bom rồi tưới xăng lên.[348] Hai thi thể được thiêu trong lúc Hồng quân tái khởi động các đợt pháo kích.[349][350] Đại đô đốc Karl Dönitz và Joseph Goebbels lần lượt tiếp nhận vai trò nguyên thủ quốc gia và thủ tướng của Hitler.[351]

Berlin đầu hàng vào ngày 2 tháng 5. Hồ sơ trong kho lưu trữ của Liên Xô thu được sau khi Liên bang Xô Viết sụp đổ cho thấy hài cốt của Hitler, Braun, Joseph và Magda Goebbels, sáu đứa con của Goebbels, tướng Hans Krebs và con chó của Hitler, bị chôn và khai quật lại nhiều lần.[352] Năm 1946, hài cốt được khai quật một lần nữa và chuyển đến cơ sở mới ở Magdeburg của Tổng cục Phản gián SMERSH, nơi họ được chôn cất trong năm hộp gỗ vào ngày 21 tháng 2.[353][354] Đến năm 1970, cơ sở này lúc đó đã rơi vào tay KGB và dự kiến ​​sẽ được chuyển giao cho Đông Đức. Một đội KGB sau khi được cấp trên cung cấp bản đồ chôn cất chi tiết đã bí mật tiến hành khai quật hài cốt của mười hoặc mười một thi thể "trong tình trạng phân hủy nặng" vào ngày 4 tháng 4 năm 1970. Những hài cốt này đã bị thiêu rụi và nghiền nát hoàn toàn, tro được ném xuống sông Biederitz, một phụ lưu của sông Elbe gần đó.[355] Theo Kershaw, lúc mà Hồng quân phát hiện ra, thi thể của Braun và Hitler đã thiêu rụi hoàn toàn, chỉ còn hàm dưới (răng được làm lại) mới có thể giúp nhận dạng chủ nhân của nó là Hitler.[356]

Holocaust

Nếu bọn tài phiệt Do Thái trong và ngoài châu Âu một lần nữa thành công trong việc đẩy các quốc gia vào một cuộc chiến tranh thế giới thì kết quả sẽ không phải là chủ nghĩa Bolshevik thống trị Trái Đất, với những kẻ thắng lợi thực sự là lũ Do Thái, mà là sự hủy diệt giống nòi Do Thái ở châu Âu!

— Adolf Hitler trong phát biểu trước Reichstag vào ngày 30 tháng 1 năm 1939
Tử thi chất đống trên một toa xe phía ngoài lò thiêu của trại tập trung Buchenwald sau khi được giải phóng, tháng 4 năm 1945

Holocaustcuộc chiến của Đức Quốc Xã ở phía đông khởi nguồn từ quan điểm đã có từ lâu của Hitler rằng người Do Thái là kẻ thù của dân tộc Đức và Lebensraum (không gian sống) là mục tiêu mà nhà nước quốc xã cần phải đạt được. Hitler chú tâm bành trướng sang phía Đông Âu, nhắm mục tiêu đánh bại Ba Lan và Liên Xô rồi sau đó xua đuổi hoặc tàn sát các dân tộc bản địa.[357] Generalplan Ost (Kế hoạch tổng thể phía đông) lên kế hoạch trục xuất dân chúng tại các vùng đất bị chiếm đóng ở Đông Âu và Liên Xô tới miền Tây Siberia làm lao động nô lệ hoặc giết bỏ.[358] Các lãnh thổ bị chinh phạt sẽ trở thành nơi định cư mới của người Đức hoặc người đã bị Đức hóa.[359] Mục tiêu là triển khai kế hoạch sau khi Đức đánh bại Liên Xô, nhưng khi mà điều này trở nên vô vọng khi quân Đức liên tiếp bại trận, Hitler đã đẩy mạnh kế hoạch diệt chủng.[358][360] Tháng 1 năm 1942, ông quyết định rằng người Do Thái, Slav và những đối tượng bị trục xuất khác được coi là không mong muốn phải bị tận diệt triệt để.[361]

Chỉ thị của Hitler về Aktion T4 ngày 1 tháng 9 năm 1939

Himmler và Heydrich là hai người đảm nhận công tác tổ chức và thực hiện cuộc diệt chủng. Các ghi chép về hội nghị Wannsee diễn ra ngày 20 tháng 1 năm 1942 do Heydrich chủ trì với sự góp mặt của 15 quan chức cấp cao đã cung cấp chứng cứ rõ ràng nhất về một kế hoạch có hệ thống của Holocaust. Ngày 22 tháng 2, Hitler phát biểu: "Cách duy nhất để phục hồi sức mạnh của chúng ta là tiêu diệt bè lũ Do Thái".[362] Tháng 7 năm 1941, trong một cuộc họp với các lãnh đạo lãnh thổ phía đông, Hitler nói cách dễ và nhanh nhất để bình định địa bàn là "bắn bỏ bất kỳ đứa nào nhìn khác" (ám chỉ ngoại hình).[363] Tuy không có mệnh lệnh trực tiếp nào của Hitler cho phép giết người hàng loạt được tìm thấy,[364] song những lần phát biểu trước công chúng, những chỉ thị tới tướng lĩnh, và những cuốn sổ nhật ký của các quan chức quốc xã chứng minh ông đã hình thành ý nghĩ tiêu diệt dân tộc Do Thái Âu châu.[365][366] Trong thời chiến, Hitler liên tục phát biểu rằng lời tiên tri năm 1939 của ông đang trở thành sự thực, cụ thể là một cuộc chiến tranh thế giới sẽ đưa dân tộc Do Thái tới chỗ diệt vong.[367] Hitler phê chuẩn cho phép Einsatzgruppen – những toán nã súng theo chân Wehrmacht tiến vào Ba Lan, các nước Baltic, Liên Xô[368] – hoạt động và nghe báo cáo chi tiết về hoạt động của họ.[365][369] Tính đến mùa hè năm 1942, trại tập trung Auschwitz đã mở rộng quy mô nhằm cung cấp nơi chứa đựng số lượng lớn người bị trục xuất được dùng làm nô lệ hoặc sát hại.[370] Rất nhiều trại tập trung và trại vệ tinh được Đức Quốc Xã dựng lên trên khắp châu Âu, một vài trong số đó chỉ dành riêng cho công tác diệt chủng.[371]

Trong khoảng giai đoạn từ 1939 đến 1945, Schutzstaffel (SS) – với sự hỗ trợ của các chính phủ hợp với phe Trục tác – là thủ phạm gây ra cái chết của ít nhất 11 triệu thường dân,[372][358] trong đó có 5,5 đến 6 triệu người Do Thái (tương đương khoảng 2/3 số dân Do Thái châu Âu)[373][k] và từ 200.000 đến 1.500.000 người Di-gan.[375][373] Cái chết diễn ra trong các trại tập trung và trại hủy diệt, trong các ghetto hoặc được gây ra bởi những vụ hành quyết hàng loạt.[376] Các nạn nhân của Holocaust phần nhiều bị giết bằng khí độc, số khác thì chết vì đói, bệnh tật, hoặc do làm việc quá sức. Ngoài diệt trừ người Do Thái, chính quyền quốc xã còn lên kế hoạch làm giảm số dân ở những lãnh thổ chinh phạt xuống 30 triệu người bằng biện pháp bỏ đói với Hungerplan (Kế hoạch bỏ đói). Lương thực sẽ được chuyển giao cho quân đội và thường dân Đức. Các thành phố sẽ bị san phẳng và đất đai dùng để trồng cây gây rừng hoặc để người Đức định cư.[377] Kết hợp lại, hai kế hoạch HungerplanGeneralplan Ost dự kiến sẽ khiến 80 triệu người dân Liên Xô chết đói.[378] Tuy nhiên, tới năm 1945 hai kế hoạch này mới chỉ hoàn thành một phần, số thường dân và tù binh bỏ mạng ước tính vào khoảng 19,3 triệu.[379]

Các nạn nhân khác bị giết hại bởi những chính sách của Hitler gồm gần hai triệu thường dân Ba Lan không phải là người Do Thái,[380] hơn ba triệu tù binh Liên Xô,[381] những địch thủ chính trị, người đồng tính, người khiếm khuyết về trí tuệ và thể trạng, tín hữu Nhân chứng Jehovah, tín hữu Cơ đốc Phục lâm và thành viên công đoàn.[382][383] Hitler chưa từng phát biểu công khai về hoạt động tàn sát và có lẽ cũng chưa bao giờ đến thăm các trại tập trung.[384]

Những người quốc xã đón nhận và áp dụng khái niệm thanh lọc chủng tộc. Vào ngày 15 tháng 9 năm 1935, Hitler trình hai dự luật – gọi là các luật Nürnberg – trước Quốc hội Đức. Hai luật này ngăn cấm các hành vi quan hệ tình dục và hôn nhân giữa người Do Thái và người Aryan, về sau mở rộng thêm sang các đối tượng "người Di-gan, người da đen hoặc con hoang của bọn họ".[385] Luật còn tước bỏ tư cách công dân Đức của tất cả những người phi Aryan và cấm phụ nữ phi Do Thái dưới 45 tuổi vào làm việc trong các gia đình Do Thái.[386] Các chính sách ưu sinh thưở đầu của Hitler nhắm đến những đứa trẻ khiếm khuyết về phát triển và thể trạng trong chương trình Aktion Brandt. Sau này ông ủy quyền tiến hành một chương trình an tử dành cho những người trưởng thành khiếm khuyết nghiêm trọng về trí lực và thể trạng mà nay gọi là Aktion T4.[387]

Phong cách lãnh đạo

Hitler trong một buổi mít tinh tại đại bản doanh Cụm tập đoàn quân Nam vào tháng 6 năm 1942

Áp dụng cái gọi là Führerprinzip (Nguyên tắc lãnh tụ), Hitler cai trị Đảng Quốc Xã một cách chuyên chế. Nguyên tắc này dựa vào sự phục tùng tuyệt đối của mọi cấp dưới đối với cấp trên. Hitler xem cấu trúc chính phủ như một kim tự tháp với ông – nhà lãnh đạo không thể chối cãi – đứng trên đỉnh của nó. Chức vụ trong đảng không được định hình thông qua các cuộc bầu cử, mà các vị trí đều do một cấp trên đề bạt và bổ nhiệm. Những người này được yêu cầu chấp hành mọi mệnh lệnh, ý chí của Hitler trong mọi hoàn cảnh.[388] Phong cách lãnh đạo của Hitler là đưa ra những mệnh lệnh trái ngược nhau. Cũng chính vì vậy cho nên nhiệm vụ và trách nhiệm của nhiều người thường có sự trùng lặp nào với người khác.[389] Thông qua phương châm "kẻ mạnh hơn [làm] công việc", Hitler nuôi dưỡng sự ngờ vực, cạnh tranh và đấu đá nội bộ giữa các cấp dưới để củng cố và tối đa hóa quyền lực của chính bản thân. Sau năm 1938, Nội các Hitler không hội họp bất kỳ một lần nào nữa và bản thân ông không khuyến khích các bộ trưởng nhóm họp riêng với nhau.[390][391] Hitler thường không đưa ra mệnh lệnh bằng văn bản mà trực tiếp bằng lời nói, hoặc thông qua người cộng sự thân cận của mình, Martin Bormann.[392] Ông giao cho Bormann phụ trách công việc bàn giấy, sắp xếp các cuộc hẹn và quản lý tài chính cá nhân của ông. Với vị trí của mình, mọi luồng thông tin và việc tiếp cận Hitler đều do một tay Bormann kiểm soát.[393]

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, không một nhà lãnh đạo nào kiểm soát nỗ lực tham chiến nước nhà nhiều như Hitler. Ông giành quyền kiểm soát lực lượng vũ trang vào năm 1938 sau khi loại bỏ Thống chế Werner von Blomberg và kể từ đó tự mình đưa ra tất cả các quyết định quan trọng liên quan đến chiến lược quân sự của Đức. Nhiều quyết định của ông, bao gồm việc thực hiện một loạt các cuộc tấn công mạo hiểm vào Na Uy, Pháp và các nước Vùng đất thấp trái với lời khuyên của bộ chỉ huy quân đội, đều tỏ ra thành công. Tuy nhiên, những chiến lược ngoại giao và quân sự mà ông sử dụng nhằm giữ Vương quốc Anh ra khỏi cuộc chiến đều đã thất bại.[394] Hitler can thiệp sâu hơn vào nỗ lực tham chiến bằng cách tự bổ nhiệm mình làm Tổng tư lệnh quân đội vào tháng 12 năm 1941. Kể từ thời điểm này trở đi, Hitler đích thân chỉ đạo cuộc chiến với Liên Xô trong khi các tướng tá quân sự vẫn giữ quyền tự quyết nhất định trong cuộc chiến với Anh và Hoa Kỳ.[395] Mệnh lệnh của Hitler ngày càng trở nên xa rời thực tế khi cục diện của cuộc chiến đảo chiều. Việc ra quyết định chập chạp hoặc ra lệnh cố thủ ở những vị trí bất lợi của Hitler khiến chiến lược phòng thủ của quân đội Đức bị cản trở. Dẫu vậy Hitler vẫn luôn tin rằng chỉ có sự lãnh đạo của mình mới có thể mang lại chiến thắng chung cuộc cho nước Đức.[394] Trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến, Hitler từ chối đàm phán hòa bình, cho rằng việc nước Đức bị hủy diệt là quyết định thích hợp hơn so với đầu hàng.[396] Quân đội Đức không những không phản đối cố gắng kiểm soát nỗ lực chiến tranh của Hitler mà các sĩ quan cấp cao thường ủng hộ và ban hành những mệnh lệnh của ông.[397]

Đời tư

Gia đình

Hitler bên người tình Eva Braun vào năm 1942.

Trước công chúng, Hitler đã tạo dựng hình ảnh một người đàn ông độc thân không màng tới chuyện gia đình, dành cả sự nghiệp cống hiến cho sứ mệnh chính trị của bản thân và quốc gia.[157][398] Giữa những năm 1926 và 1931, Hitler có mối quan hệ tốt với Maria Reiter nhưng ông đã từ chối lời tỏ tình của bà.[399]

Năm 1928, ông đã thuê một căn nhà ở phường Obersalzberg thuộc thị xã Berchtesgaden và đưa chị gái cùng cha khác mẹ là Angela Raubal cùng hai người cháu gái là Geli và Elfriede tới sống. Năm 1929, Hitler chuyển Geli tới sống trong căn hộ của ông ở München và ép cô phải cắt đứt mối quan hệ yêu đương với Emil Maurice, tài xế riêng của Hitler.[399] Vào tháng 9 năm 1931, Geli đã tự kết liễu đời mình bằng khẩu súng cá nhân của Hitler. Nhiều người đương thời cho rằng hai chú cháu có mối quan hệ tình ái, và cái chết của cô đã khiến Hitler phải đau khổ trong suốt một quãng thời gian dài.[400] Người em gái Paula Hitler là thành viên cuối cùng còn sống trong gia đình trực hệ của Hitler, đã qua đời vào tháng 6 năm 1960.[18]

Hitler gặp một nửa đời mình – Eva Braun – lần đầu vào năm 1929.[401] Kể từ tháng 1 năm 1932, hai người được cho là bắt đầu yêu nhau. Tuy nhiên, Hitler đã từ chối kết hôn với Braun khiến bà trở nên đau khổ và cố gắng tự sát không lâu sau đó. Sau sự kiện đó, Hitler và Braun chính thức trở thành một cặp, nhưng ông vẫn giữ kín chuyện yêu đương trước công chúng cho tới tận lúc chết.[402] Hitler kết hôn với Braun vào ngày 29 tháng 4 năm 1945, chỉ một ngày trước khi cả hai tự sát.[403]

Quan điểm tôn giáo

Hitler sinh ra trong gia đình có mẹ là tín đồ Công giáo sùng đạo còn cha là một người chống giáo hội. Kể từ khi rời khỏi nhà, ông không còn dự thánh lễ hay nhận bí tích.[404][405][406] Albert Speer nói rằng Hitler thường đưa ra những luận điệu chống giáo hội trước những người cộng sự chính trị. Mặc dù chưa bao giờ chính thức rời khỏi giáo hội nhưng ông không có sự gắn kết với tổ chức này.[407] Speer nói thêm rằng Hitler có cảm giác nếu thiếu đi một tôn giáo có tổ chức thì mọi người sẽ chuyển sang chủ nghĩa thần bí – điều mà ông cho là một bước thụt lùi.[407] Cũng theo Speer, Hitler tin rằng tín ngưỡng tôn giáo Nhật Bản hoặc Hồi giáo sẽ phù hợp cho người Đức hơn là một Kitô giáo "nhu mì và uỷ mị".[408]

Nhà sử học John S. Conway phát biểu rằng Hitler về cơ bản chống lại các giáo hội Thiên Chúa giáo.[409] Theo Bullock, Hitler không tin vào Chúa. Ông là một người chống giáo hội và khinh miệt đạo lý Thiên Chúa giáo vì cho rằng những thứ này đi ngược lại quan niệm "kẻ sống sót phù hợp nhất" mà ông ưa thích.[410] Hitler ủng hộ các khía cạnh của đạo Tin Lành phù hợp với quan điểm của bản thân và chấp nhận một số yếu tố của giáo hội Công giáo, bao gồm một tổ chức có thứ bực, sự phụng vụ và ngữ cú.[411]

Hitler bắt tay với các chức sắc Công giáo ở Đức những năm 1930.

Đối với Hitler, giáo hội như một tác nhân chính trị bảo thủ quan trọng tạo nên những ảnh hưởng đến xã hội.[412] Ông chấp nhận một mối quan hệ chiến lược giữa đôi bên, "phù hợp cho những mục tiêu chính trị trước mắt".[409] Trước công chúng, Hitler thường ca ngợi giáo hội Thiên Chúa giáo và văn hóa Thiên Chúa giáo Đức, nhưng lại bày tỏ niềm tin vào một "Giê-su người Aryan" chiến đấu chống lại người Do Thái.[413] Mọi luận điệu công khai ủng hộ Thiên Chúa giáo của Hitler đều mâu thuẫn với những phát biểu riêng tư của ông, vốn mô tả tôn giáo này là "ngu xuẩn"[414] và vô nghĩa dựa trên sự dối trá.[415]

Theo bản báo cáo "The Nazi Master Plan" của Cơ quan Tình báo chiến lược Hoa Kỳ (OSS), Hitler dự định triệt tiêu ảnh hưởng của các giáo hội Thiên Chúa giáo trong phạm vi nước Đức.[416][417] Mục tiêu cuối cùng mà Hitler hướng đến là xóa bỏ hoàn toàn tôn giáo này.[418] Mục tiêu này đã định hướng những bước đi của Hitler từ rất sớm, tuy nhiên ông thấy rằng việc bày tỏ quan điểm cực đoan này một cách công khai là không thích hợp.[419] Theo Bullock, Hitler muốn chờ chiến tranh kết thúc trước khi thực thi kế hoạch này.[420]

Speer viết rằng Hitler có cái nhìn tiêu cực về ý niệm thần bí của Alfred Rosenberg và Himmler, đặc biệt đối với nỗ lực thần bí hóa SS của Himmler. Hitler thực tế hơn và chú trọng vào những vấn đề thiết thực hơn.[421][422]

Sức khỏe

Các nhà nghiên cứu đưa ra những đề xuất khác nhau cho rằng Hitler mắc phải một số loại bệnh như hội chứng ruột kích thích, bệnh da liễu, rối loạn nhịp tim, xơ vữa động mạch,[423] bệnh Parkinson,[318][424] giang mai,[424] viêm động mạch tế bào khổng lồ[425]ù tai.[426] Trong bản báo cáo sửa soạn cho Cơ quan Tình báo chiến lược Hoa Kỳ năm 1943, nhà phân tích tâm lý Walter C. Langer của Đại học Harvard đã mô tả Hitler là một "gã tâm thần rối loạn thần kinh". Sử gia Robert G. L. Waite trong cuốn The Psychopathic God: Adolf Hitler cho rằng Hitler có thể bị rối loạn nhân cách ranh giới.[427] Các nhà sử học Henrik Eberle và Hans-Joachim Neumann cho rằng tuy mắc một số bệnh, bao gồm cả bệnh Parkinson, nhưng Hitler không cảm nhận ảo giác bệnh lý, luôn nhận thức đầy đủ và do đó chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình.[428][335] Các giả thuyết về tình trạng sức khỏe của Hitler đều rất khó để chứng minh. Việc đặt quá nhiều trọng lượng vào chúng có thể khiến người ta cho rằng việc sức khỏe thể chất của Hitler giảm sút là tác nhân của những sự kiện và hậu quả do Đức Quốc Xã gây ra.[429] Kershaw cảm thấy rằng mọi người nên nhìn nhận lịch sử nước Đức một cách bao quát hơn, bằng cách nghiên cứu các chính sách của chế độ Quốc Xã và xem xét, liệu những sức mạnh xã hội nào đã đặt nền móng cho chế độ độc tài của nó. Điều này sẽ tốt hơn là theo đuổi những cách thức lý giải hạn hẹp cho Holocaust và Chiến tranh thế giới thứ hai căn cứ vào chỉ một cá nhân duy nhân.[430]

Tại thời điểm nào đó trong thập niên 1930, Hitler bắt đầu chuyển sang chế độ ăn mới mà chủ yếu là thức ăn chay.[431][432] Kể từ năm 1942 trở đi, ông tránh tất cả các món thịt và cá. Tại các sự kiện xã hội, ông đôi lúc đem đến những mô tả bằng hình ảnh về hành vi giết mổ, sát hại động vật nhằm khiến các khách mời dự tiệc xa lánh các món thịt.[433] Bormann có một ngôi nhà kính gần Berghof (gần Berchtesgaden) để đảm bảo nguồn trái cây và rau quả tươi ổn định cho Hitler.[434]

Hitler từ bỏ thức uống có cồn vào khoảng thời gian ông chuyển sang chế độ ăn chay và sau đó chỉ thỉnh thoảng uống bia hoặc rượu vào những dịp xã giao.[435][436] Thời trẻ, Hitler từng là một người hút rất nhiều thuốc (25 đến 40 điếu mỗi ngày). Tuy nhiên, ông đã từ bỏ hút thuốc, gọi thói quen này là "một sự lãng phí tiền bạc".[437] Ông khuyến khích những cộng sự thân cận của mình bỏ thuốc bằng cách trao tặng một chiếc đồng hồ vàng cho bất kỳ ai có thể từ bỏ thói quen này.[438] Hitler bắt đầu sử dụng hồng phiến (amphetamin) một cách hạn chế từ sau năm 1937 và đến cuối năm 1942 thì đã trở nên phụ thuộc vào chất kích thích này.[439] Speer liên hệ việc sử dụng hồng phiến với lối hành xử ngày một thất thường và những quyết định cứng nhắc mà Hitler đề ra (chẳng hạn ông hiếm khi cho phép quân đội rút lui).[440]

Trong những năm chiến tranh, Hitler được bác sĩ riêng là Theodor Morell kê tới 90 loại thuốc khác nhau. Ông uống nhiều viên mỗi ngày để điều trị các bệnh mãn tính về dạ dày và các chứng bệnh khác.[441] Ông thường xuyên tiêu thụ các chất kích thích như hồng phiến, barbiturat, thuốc có thuốc phiện và cocain,[442][443] cũng như kali bromuaatropa belladonna.[444] Vụ đánh bom ám sát ngày 20 tháng 7 năm 1944 khiến Hitler bị vỡ màng nhĩ và bị 200 mảnh gỗ vụn găm vào chân.[445] Các thước phim thời sự về Hitler cho thấy tay trái ông bị run và dáng đi lê chân. Những biểu hiện này bắt đầu xuất hiện từ những năm trước chiến tranh và trở nên tồi tệ trong những ngày tháng cuối đời.[441] Ernst-Günther Schenck và một số bác sĩ từng gặp Hitler trong những tuần cuối cùng trước khi chết đều đưa ra chẩn đoán chẩn đoán về căn bệnh Parkinson.[446]

Di sản

Việc Hitler tự sát được người đường thời ví như "bùa mê" được giải.[447][448] Sự ủng hộ của quần chúng dành cho Hitler đã sụp đổ vào thời điểm ông qua đời và không nhiều người Đức tiếc thương sự ra đi của ông. Kershaw lập luận rằng hầu hết thường dân và quân nhân quá bận rộn với việc giải quyết hậu quả chiến tranh hoặc trốn chạy trước bom đạn chứ không rảnh để lo nghĩ đến chuyện đó.[449] Theo nhà sử học John Toland, chủ nghĩa quốc gia xã hội đã "vỡ tung như bong bóng" khi mất đi người lãnh đạo.[450]

Kershaw mô tả Hitler là "hiện thân của cái ác chính trị hiện đại"[451] và bổ sung thêm rằng "chưa bao giờ trong lịch sử, sự hủy diệt – [về mặt] thể chất lẫn đạo đức – lại gắn liền với tên tuổi của một con người như vậy".[2] Chương trình chính trị của Hitler đã dẫn đến một cuộc chiến tranh thế giới, để lại một vùng Đông và Trung Âu bị tàn phá và kiệt quệ. Bản thân nước Đức bị tàn phá nặng nề, phác họa bằng Stunde Null (Lúc 0 giờ).[452] Các chính sách của Hitler mang tới cảnh đau thương tang tóc cho nhân loại ở quy mô chưa từng thấy.[453] Theo nhà chính trị học R. J. Rummel, chế độ Quốc Xã là thủ phạm diệt chủng ước tính 19.3 triệu thường dân và tù binh.[372] Bên cạnh đó, 28,7 triệu binh lính và dân thường đã thiệt mạng bởi tác động trực tiếp của các hoạt động quân sự ở chiến trường châu Âu của Thế chiến II.[372] Số dân thường thiệt mạng trong Chiến tranh thế giới thứ hai là chưa từng có trong lịch sử chiến tranh.[454] Các sử gia, triết gia, và chính trị gia thường dùng từ "ác quỷ" để mô tả chế độ Quốc Xã.[455] Trong thời đại ngày nay, mọi hành vi cổ xúy chủ nghĩa quốc xã lẫn phủ nhận Holocaust đều bị nhiều nước châu Âu coi là phạm pháp và có thể bị truy tố hình sự.[456]

Sử gia người Đức Friedrich Meinecke mô tả Hitler là "một trong những ví dụ tiêu biểu nhất về sức mạnh phi thường và khôn lường của nhân cách trong đời sống lịch sử".[457] Sử gia người Anh Hugh Trevor-Roper xem ông như một trong số "những kẻ đơn giản hóa khủng khiếp nhất" lịch sử, là một "kẻ chinh phạt có hệ thống nhất, biến thiên nhất, triết lý nhất, nhưng đồng thời bất nhã nhất, hung tàn nhất, kém cao thượng nhất mà nhân loại từng biết đến".[458] Theo nhà sử học John M. Roberts, thất bại của Hitler đã đánh dấu chấm hết của một giai đoạn lịch sử châu Âu do Đức thống trị.[459] Thế giới bước vào kỷ nguyên mới, Chiến tranh lạnh, một cuộc đối đầu giữa Khối phía Tây dẫn đầu bởi Hoa Kỳ và các nước NATO khác và Khối phía Đông do Liên Xô chi phối.[460] Sử gia Sebastian Haffner quả quyết rằng nếu không có Hitler và hoạt động chuyển dịch dân Do Thái thì nhà nước Israel ngày nay sẽ không tồn tại.[461] Ông cũng cho rằng nếu không có Hitler, quá trình phi thực dân hóa các vùng ảnh hưởng của châu Âu trước đây sẽ bị trì hoãn. Thêm vào đó Haffner còn khẳng định rằng ngoài Alexandros Đại đế ra, tầm ảnh hưởng của Hitler lớn hơn bất kỳ nhân vật lịch sử nào khác khi mà ông đã gây ra một loạt thay đổi trên toàn thế giới chỉ trong một quãng thời gian tương đối ngắn.[462]

Hitler trong văn hóa đại chúng

Adolf Hitler đã xuất hiện nhiều tập phim, do nhiều diễn viên thủ vai cũng như nhiều phim tài liệu:

  • Charlie Chaplin trong The Great Dictator (1940)
  • Fritz Diez trong bộ phim Đông Đức Ernst Thälmann – Lãnh đạo của Giai cấp mình năm 1955.
  • Rainer von Artenfels trong bộ phim Tây Đức Karl May năm 1955.
  • Anthony Hopkins trong bộ phim Đức The Bunker năm 1981.
  • Bruno Ganz trong bộ phim Đức Der Untergang (Downfall) năm 2004.
  • Helge Schneider trong bộ phim Đức My Führer – The Really Truest Truth about Adolf Hitler năm 2007.
  • David Bamber trong bộ phim Mỹ Điệp vụ Valkyrie năm 2008.
  • Taika Waititi trong bộ phim Jojo Rabbit năm 2009, với phiên bản người bạn tưởng tượng của Jojo Rabbit.

Xem thêm

Ghi chú

  1. ^ Theo sử gia John Toland, nguyên nhân một cái tên có thể có nhiều cách viết là vì "chính tả [thời đó] là một vấn đề không quan trọng và là việc được chăng hay chớ kiểu như ở Anh thời Shakespeare vậy".[7]
  2. ^ Klara Pölzl là cháu ngoại của Johann Nepomuk Hiedler, anh trai của dượng Alois.
  3. ^ Cả hai ca khúc "Deutschlandlied" của Đức và "Gott erhalte Franz den Kaiser" (Thiên Chúa phù hộ Hoàng đế Franz) của Áo đều sử dụng chung một giai điệu do Joseph Haydn sáng tác.
  4. ^ Hitler từng nói rằng ông không thích BachMozart lắm.[58]
  5. ^ Trong tiếng Đức, völkisch là tính từ của danh từ Volk, có nghĩa là dân tộc. Đây là một phong trào chủ nghĩa dân tộc Đức xuất hiện ở cuối thế kỷ 19 và có nền tảng là Ý thức hệ máu và đất.
  6. ^ Không nên nhầm lẫn với Toàn quyền Ba Lan cũng tên là Hans Frank.
  7. ^ Việc lòng người vẫn còn hướng về hoàng đế khiến các nhà lập pháp Cộng hòa Weimar cần một nhà lãnh đạo mạnh mẽ, một Ersatzkaiser (Hoàng đế thay thế), để thay thế cho vị trí và quyền lực của hoàng đế. Chính vì vậy nên Hiến pháp Weimar chứa đựng các điều lệ gia tăng quyền hạn của tổng thống. Điều 48 Hiến pháp Weimar cho phép tổng thống – trong một số trường hợp nhất định – có thể thông qua các biện pháp khẩn cấp mà không cần sự đồng ý của Reichstag. Điều 48 kết hợp với điều 25 (cho phép tổng thống quyền giải tán quốc hội) và điều 53 (quy định thủ tướng là do tổng thống bổ nhiệm), tạo thành 3 điểm mù chí mạng bóp chết nền dân chủ non trẻ của Đức.[166]
  8. ^ Tại thời điểm năm 1932, các lực lượng bán quân sự bao gồm "lực lượng du côn" (Schlägertruppe) Sturmabteilung (SA) của Đảng Quốc Xã và Roter Frontkämpferbund (RFB) của Đảng Cộng Sản sở hữu quân số đông gấp nhiều lần Reichswehr, vốn bị giới hạn ở mức 100.000 người.
  9. ^ Thuật ngữ "Querfront" dùng để chỉ tới sự hợp tác giữa các nhóm cánh tả và cánh hữu, chẳng hạn khi phe cộng sản hợp tác với các lực lượng phát xít và chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Sách lược "Querfront" của Schleicher bao gồm đe dọa sáp nhập phe thiên tả của Đảng Quốc Xã và các tổ chức công đoàn như một cách để buộc Hitler ủng hộ chính phủ, song kế hoạch thất bại.
  10. ^ Bao gồm các bộ ngoại giao, tài chính, kinh tế, lao động, tư pháp, thông tin, giao thông và nông nghiệp.
  11. ^ Sir Richard Evans tuyên bố, "rõ ràng là tổng số có [người bị hại] phải lên tới khoảng 6 triệu"[374]

Chú thích

  1. ^ Evans 2003, tr. 180.
  2. ^ a b Kershaw 2000b, tr. 841.
  3. ^ Bullock 1999, tr. 24.
  4. ^ Maser 1973, tr. 4.
  5. ^ Maser 1973, tr. 15.
  6. ^ a b Kershaw 1999, tr. 5.
  7. ^ a b Toland 2018, tr. 9.
  8. ^ Jetzinger 1976, tr. 32.
  9. ^ Toland 2018, tr. 6.
  10. ^ Toland 2018, tr. 7.
  11. ^ Rosenbaum 1999, tr. 21.
  12. ^ a b Hamann 2010, tr. 50.
  13. ^ McKale 2011, tr. 147.
  14. ^ Toland 1992, tr. 246–247.
  15. ^ Kershaw 1999, tr. 8–9.
  16. ^ House of Responsibility.
  17. ^ Shirer 1960, tr. 9.
  18. ^ a b Kershaw 2008, tr. 4.
  19. ^ Toland 1976, tr. 6.
  20. ^ Rosmus 2004, tr. 33.
  21. ^ Toland 2018, tr. 14.
  22. ^ Keller 2010, tr. 15.
  23. ^ Hamann 2010, tr. 7–8.
  24. ^ Kubizek 2006, tr. 37.
  25. ^ Toland 2018, tr. 15.
  26. ^ Kubizek 2006, tr. 92.
  27. ^ Hitler 1999, tr. 6.
  28. ^ a b Toland 2018, tr. 16.
  29. ^ Fromm 1977, tr. 493–498.
  30. ^ Diver 2005.
  31. ^ Shirer 1960, tr. 10–11.
  32. ^ a b Toland 2018, tr. 22.
  33. ^ Payne 1990, tr. 22.
  34. ^ Kershaw 2008, tr. 9.
  35. ^ a b Bullock 1999, tr. 30–33.
  36. ^ Hitler 1999, tr. 8.
  37. ^ Keller 2010, tr. 33–34.
  38. ^ Fest 1977, tr. 32.
  39. ^ Toland 2018, tr. 23.
  40. ^ Kershaw 2008, tr. 8.
  41. ^ Hitler 1999, tr. 10.
  42. ^ Toland 2018, tr. 24.
  43. ^ Evans 2003, tr. 163–164.
  44. ^ Toland 2018, tr. 25.
  45. ^ Bendersky 2000, tr. 26.
  46. ^ Ryschka 2008, tr. 35.
  47. ^ Hamann 2010, tr. 13.
  48. ^ Kershaw 2008, tr. 10.
  49. ^ Kershaw 1999, tr. 19.
  50. ^ Kershaw 1999, tr. 20.
  51. ^ a b Hitler 1999, tr. 20.
  52. ^ Bullock 1962, tr. 30–31.
  53. ^ Toland 2018, tr. 87–88.
  54. ^ Bullock 1962, tr. 31.
  55. ^ Hamann 2010, tr. 157.
  56. ^ Bullock 1999, tr. 34–36.
  57. ^ Toland 2018, tr. 91.
  58. ^ a b Toland 2018, tr. 242.
  59. ^ Kershaw 1999, tr. 41, 42.
  60. ^ Toland 2018, tr. 58.
  61. ^ Shirer 1960, tr. 26.
  62. ^ Hamann 2010, tr. 243–246.
  63. ^ Nicholls 2000, tr. 236, 237, 274.
  64. ^ Hamann 2010, tr. 250.
  65. ^ Hamann 2010, tr. 341–345.
  66. ^ Hamann 2010, tr. 233.
  67. ^ Kershaw 1999, tr. 60–67.
  68. ^ Shirer 1960, tr. 25.
  69. ^ Hamann 2010, tr. 58.
  70. ^ Hitler 1999, tr. 52.
  71. ^ Toland 1992, tr. 45.
  72. ^ Kershaw 1999, tr. 55, 63.
  73. ^ Hamann 2010, tr. 174.
  74. ^ Evans 2011.
  75. ^ Shirer 1960, tr. 27.
  76. ^ Weber 2010, tr. 13.
  77. ^ Kershaw 1999, tr. 86.
  78. ^ Kershaw 1999, tr. 49.
  79. ^ a b c Kershaw 1999, tr. 90.
  80. ^ Weber 2010, tr. 12–13.
  81. ^ Kershaw 2008, tr. 53.
  82. ^ Kershaw 2008, tr. 54.
  83. ^ Weber 2010, tr. 100.
  84. ^ a b Shirer 1960, tr. 30.
  85. ^ Kershaw 2008, tr. 59.
  86. ^ Weber 2010a.
  87. ^ Steiner 1976, tr. 392.
  88. ^ Kershaw 2008, tr. 57.
  89. ^ Kershaw 2008, tr. 58.
  90. ^ Kershaw 1999, tr. 97, 102.
  91. ^ Keegan 1987, tr. 238–240.
  92. ^ Bullock 1962, tr. 60.
  93. ^ Kershaw 2008, tr. 61, 62.
  94. ^ Kershaw 2008, tr. 61–63.
  95. ^ Kershaw 2008, tr. 96.
  96. ^ Kershaw 2008, tr. 80, 90, 92.
  97. ^ Bullock 1999, tr. 61.
  98. ^ Kershaw 1999, tr. 109.
  99. ^ Kershaw 2008, tr. 82.
  100. ^ Kershaw 2008, tr. 75, 76.
  101. ^ Mitcham 1996, tr. 67.
  102. ^ Kershaw 1999, tr. 125–126.
  103. ^ Fest 1970, tr. 21.
  104. ^ Kershaw 2008, tr. 94, 95, 100.
  105. ^ Kershaw 2008, tr. 87.
  106. ^ Kershaw 2008, tr. 88.
  107. ^ Kershaw 2008, tr. 93.
  108. ^ Kershaw 2008, tr. 81.
  109. ^ Kershaw 2008, tr. 89.
  110. ^ Kershaw 2008, tr. 89–92.
  111. ^ Kershaw 2008, tr. 100, 101.
  112. ^ Kershaw 2008, tr. 102.
  113. ^ a b Kershaw 2008, tr. 103.
  114. ^ Kershaw 2008, tr. 83, 103.
  115. ^ Kershaw 2000b, tr. xv.
  116. ^ Bullock 1999, tr. 376.
  117. ^ Frauenfeld 1937.
  118. ^ Goebbels 1936.
  119. ^ Kershaw 2008, tr. 105–106.
  120. ^ Bullock 1999, tr. 377.
  121. ^ Kressel 2002, tr. 121.
  122. ^ Heck 2001, tr. 23.
  123. ^ Kellogg 2005, tr. 275.
  124. ^ Kellogg 2005, tr. 203.
  125. ^ Bracher 1970, tr. 115–116.
  126. ^ Kershaw 2008, tr. 126.
  127. ^ a b Kershaw 2008, tr. 128.
  128. ^ Kershaw 2008, tr. 129.
  129. ^ Kershaw 2008, tr. 130–131.
  130. ^ Shirer 1960, tr. 73–74.
  131. ^ Kershaw 2008, tr. 132.
  132. ^ Kershaw 2008, tr. 131.
  133. ^ Munich Court, 1924.
  134. ^ Fulda 2009, tr. 68–69.
  135. ^ Kershaw 1999, tr. 239.
  136. ^ a b Bullock 1962, tr. 121.
  137. ^ Kershaw 2008, tr. 147.
  138. ^ Kershaw 2008, tr. 148–150.
  139. ^ Shirer 1960, tr. 80–81.
  140. ^ Kershaw 1999, tr. 237.
  141. ^ a b Kershaw 1999, tr. 238.
  142. ^ Kershaw 2008, tr. 158, 161, 162.
  143. ^ Kershaw 2008, tr. 162, 166.
  144. ^ Shirer 1960, tr. 129.
  145. ^ Kershaw 2008, tr. 166, 167.
  146. ^ Shirer 1960, tr. 136–137.
  147. ^ Kolb 2005, tr. 224–225.
  148. ^ Kolb 1988, tr. 105.
  149. ^ Halperin 1965, tr. 403 và tiếp theo.
  150. ^ Halperin 1965, tr. 434–446 và tiếp theo.
  151. ^ Wheeler-Bennett 1967, tr. 218.
  152. ^ Wheeler-Bennett 1967, tr. 216.
  153. ^ Wheeler-Bennett 1967, tr. 218–219.
  154. ^ Wheeler-Bennett 1967, tr. 222.
  155. ^ Halperin 1965, tr. 449 và tiếp theo.
  156. ^ Halperin 1965, tr. 434–436, 471.
  157. ^ a b Shirer 1960, tr. 130.
  158. ^ Hinrichs 2007.
  159. ^ Halperin 1965, tr. 476.
  160. ^ Morsey 1960, tr. 419–448.
  161. ^ Halperin 1965, tr. 468–471.
  162. ^ Bullock 1962, tr. 201.
  163. ^ Kershaw 2008, tr. 227.
  164. ^ Winkler 2012, tr. 504.
  165. ^ Halperin 1965, tr. 477–479.
  166. ^ Kellerhoff 2019.
  167. ^ a b c Kolb 1988, tr. 122.
  168. ^ Longerich 2019, tr. 264.
  169. ^ Kershaw 1999, tr. 395–396, 417.
  170. ^ Schildt 1995, tr. 425.
  171. ^ a b Sturm 2011.
  172. ^ Schulz 1992, tr. 1028.
  173. ^ Schildt 1995, tr. 403–413.
  174. ^ Fest 2002, tr. 256.
  175. ^ Fest 2002, tr. 497.
  176. ^ Bracher, Schulz & Sauer 1962, tr. 408.
  177. ^ Schulz 1999, tr. 122.
  178. ^ Schildt 1995, tr. 415.
  179. ^ Schildt 1995, tr. 417.
  180. ^ Pyta 2004, tr. 154.
  181. ^ Shirer 1960, tr. 184.
  182. ^ Evans 2003, tr. 307.
  183. ^ Evans 2003, tr. 316.
  184. ^ Bullock 1962, tr. 262.
  185. ^ Kershaw 1999, tr. 456–458, 731–732.
  186. ^ Shirer 1960, tr. 192.
  187. ^ Bullock 1999, tr. 262.
  188. ^ Shirer 1960, tr. 194, 274.
  189. ^ Shirer 1960, tr. 194.
  190. ^ Bullock 1962, tr. 265.
  191. ^ Thành phố Potsdam.
  192. ^ Shirer 1960, tr. 196–197.
  193. ^ Shirer 1960, tr. 198.
  194. ^ Evans 2003, tr. 335.
  195. ^ Shirer 1960, tr. 196.
  196. ^ Bullock 1999, tr. 269.
  197. ^ Shirer 1960, tr. 199.
  198. ^ Time, 1934.
  199. ^ a b Shirer 1960, tr. 201.
  200. ^ Shirer 1960, tr. 202.
  201. ^ a b Evans 2003, tr. 350–374.
  202. ^ Kershaw 2008, tr. 309–314.
  203. ^ Tames 2008, tr. 4–5.
  204. ^ Kershaw 2008, tr. 313–315.
  205. ^ Overy 2005, tr. 63.
  206. ^ Shirer 1960, tr. 226–227.
  207. ^ Evans 2005, tr. 44.
  208. ^ Shirer 1960, tr. 229.
  209. ^ Bullock 1962, tr. 309.
  210. ^ Evans 2005, tr. 110.
  211. ^ Kershaw 2008, tr. 392, 393.
  212. ^ Shirer 1960, tr. 312.
  213. ^ Kershaw 2008, tr. 393–397.
  214. ^ Shirer 1960, tr. 308.
  215. ^ Shirer 1960, tr. 318–319.
  216. ^ Kershaw 2008, tr. 397–398.
  217. ^ Shirer 1960, tr. 274.
  218. ^ Read 2004, tr. 344.
  219. ^ Evans 2005, tr. 109–111.
  220. ^ McNab 2009, tr. 54.
  221. ^ Shirer 1960, tr. 259–260.
  222. ^ Shirer 1960, tr. 258.
  223. ^ Shirer 1960, tr. 262.
  224. ^ McNab 2009, tr. 54–57.
  225. ^ Speer 1971, tr. 118–119.
  226. ^ Evans 2005, tr. 570–572.
  227. ^ Weinberg 1970, tr. 26–27.
  228. ^ Kershaw 1999, tr. 490–491.
  229. ^ Kershaw 1999, tr. 492, 555–556, 586–587.
  230. ^ Carr 1972, tr. 23.
  231. ^ Kershaw 2008, tr. 297.
  232. ^ Shirer 1960, tr. 283.
  233. ^ Messerschmidt 1990, tr. 601–602.
  234. ^ Martin 2008.
  235. ^ Hildebrand 1973, tr. 39.
  236. ^ Roberts 1975.
  237. ^ Messerschmidt 1990, tr. 630–631.
  238. ^ a b Overy, Origins of WWII Reconsidered 1999.
  239. ^ Carr 1972, tr. 56–57.
  240. ^ Messerschmidt 1990, tr. 642.
  241. ^ Aigner 1985, tr. 264.
  242. ^ a b Messerschmidt 1990, tr. 636–637.
  243. ^ Carr 1972, tr. 73–78.
  244. ^ Messerschmidt 1990, tr. 638.
  245. ^ a b Bloch 1992, tr. 178–179.
  246. ^ Plating 2011, tr. 21.
  247. ^ Butler & Young 1989, tr. 159.
  248. ^ Bullock 1962, tr. 434.
  249. ^ Overy 2005, tr. 425.
  250. ^ Weinberg 1980, tr. 334–335.
  251. ^ Weinberg 1980, tr. 338–340.
  252. ^ Weinberg 1980, tr. 366.
  253. ^ Weinberg 1980, tr. 418–419.
  254. ^ Kee 1988, tr. 149–150.
  255. ^ Weinberg 1980, tr. 419.
  256. ^ Murray 1984, tr. 256–260.
  257. ^ Bullock 1962, tr. 469.
  258. ^ Overy, The Munich Crisis 1999, tr. 207.
  259. ^ Kee 1988, tr. 202–203.
  260. ^ Weinberg 1980, tr. 462–463.
  261. ^ Messerschmidt 1990, tr. 672.
  262. ^ Messerschmidt 1990, tr. 671, 682–683.
  263. ^ Rothwell 2001, tr. 90–91.
  264. ^ Time, Số tháng 1 năm 1939.
  265. ^ a b Murray 1984, tr. 268.
  266. ^ Evans 2005, tr. 682.
  267. ^ Murray 1984, tr. 268–269.
  268. ^ Shirer 1960, tr. 448.
  269. ^ Weinberg 1980, tr. 562.
  270. ^ Weinberg 1980, tr. 579–581.
  271. ^ a b Maiolo 1998, tr. 178.
  272. ^ a b Messerschmidt 1990, tr. 688–690.
  273. ^ a b Weinberg 1980, tr. 537–539, 557–560.
  274. ^ Weinberg 1980, tr. 558.
  275. ^ Carr 1972, tr. 76–77.
  276. ^ Kershaw 2000b, tr. 36–37, 92.
  277. ^ Weinberg 2010, tr. 792.
  278. ^ Robertson 1985, tr. 212.
  279. ^ Bloch 1992, tr. 228.
  280. ^ Overy & Wheatcroft 1989, tr. 56.
  281. ^ Kershaw 2008, tr. 497.
  282. ^ Robertson 1963, tr. 181–187.
  283. ^ Bloch 1992, tr. 252–253.
  284. ^ Weinberg 1995, tr. 85–94.
  285. ^ Bloch 1992, tr. 255–257.
  286. ^ Weinberg 1980, tr. 561–562, 583–584.
  287. ^ Bloch 1992, tr. 260.
  288. ^ Hakim 1995.
  289. ^ a b c Rees 1997, tr. 141–145.
  290. ^ Kershaw 2008, tr. 527.
  291. ^ Welch 2001, tr. 88–89.
  292. ^ a b c d Rees 1997, tr. 148–149.
  293. ^ Winkler 2007, tr. 74.
  294. ^ Shirer 1960, tr. 696–730.
  295. ^ Kershaw 2008, tr. 562.
  296. ^ Deighton 2008, tr. 7–9.
  297. ^ Ellis 1993, tr. 94.
  298. ^ Shirer 1960, tr. 731–737.
  299. ^ Shirer 1960, tr. 774–782.
  300. ^ Kershaw 2008, tr. 563, 569, 570.
  301. ^ Kershaw 2008, tr. 580.
  302. ^ Roberts 2006, tr. 58–60.
  303. ^ Kershaw 2008, tr. 604–605.
  304. ^ Kurowski 2005, tr. 141–142.
  305. ^ Mineau 2004, tr. 1.
  306. ^ Glantz 2001, tr. 9.
  307. ^ Koch 1988.
  308. ^ a b Stolfi 1982.
  309. ^ Wilt 1981.
  310. ^ Evans 2008, tr. 202.
  311. ^ Evans 2008, tr. 210.
  312. ^ Shirer 1960, tr. 900–901.
  313. ^ a b Bauer 2000, tr. 5.
  314. ^ Shirer 1960, tr. 921.
  315. ^ Kershaw 2000b, tr. 417.
  316. ^ Evans 2008, tr. 419–420.
  317. ^ Shirer 1960, tr. 1006.
  318. ^ a b BBC News, 1999.
  319. ^ Shirer 1960, tr. 996–1000.
  320. ^ Shirer 1960, tr. 1036.
  321. ^ Speer 1971, tr. 513–514.
  322. ^ Kershaw 2008, tr. 544–547, 821–822, 827–828.
  323. ^ Kershaw 2008, tr. 816–818.
  324. ^ Shirer 1960, tr. 1048–1072.
  325. ^ Weinberg 1964.
  326. ^ a b Crandell 1987.
  327. ^ Rees & Kershaw 2012.
  328. ^ a b Bullock 1962, tr. 774–775.
  329. ^ Sereny 1996, tr. 497–498.
  330. ^ Bullock 1962, tr. 753, 763, 780–781.
  331. ^ Beevor 2002, tr. 251.
  332. ^ Beevor 2002, tr. 255–256.
  333. ^ Le Tissier 2010, tr. 45.
  334. ^ a b Dollinger 1995, tr. 231.
  335. ^ a b Jones 1989.
  336. ^ Beevor 2002, tr. 275.
  337. ^ Ziemke 1969, tr. 92.
  338. ^ Bullock 1962, tr. 787.
  339. ^ Bullock 1962, tr. 787, 795.
  340. ^ Butler & Young 1989, tr. 227–228.
  341. ^ Kershaw 2008, tr. 923–925, 943.
  342. ^ Bullock 1962, tr. 791.
  343. ^ Bullock 1962, tr. 792, 795.
  344. ^ Beevor 2002, tr. 343.
  345. ^ Bullock 1962, tr. 798.
  346. ^ Linge 2009, tr. 199.
  347. ^ Joachimsthaler 1999, tr. 160–182.
  348. ^ Joachimsthaler 1999, tr. 217–220.
  349. ^ Linge 2009, tr. 200.
  350. ^ Bullock 1962, tr. 799–800.
  351. ^ Kershaw 2008, tr. 949–950.
  352. ^ Vinogradov 2005, tr. 111, 333.
  353. ^ Kershaw 2008, tr. 958.
  354. ^ Vinogradov 2005, tr. 111–116.
  355. ^ Vinogradov 2005, tr. 335–336.
  356. ^ Kershaw 2000b, tr. 1110.
  357. ^ Gellately 1996.
  358. ^ a b c Snyder 2010, tr. 416.
  359. ^ Steinberg 1995.
  360. ^ Kershaw 2008, tr. 683.
  361. ^ Shirer 1960, tr. 965.
  362. ^ Naimark 2002, tr. 81.
  363. ^ Longerich 2005, tr. 116.
  364. ^ Megargee 2007, tr. 146.
  365. ^ a b Longerich, Chapter 15 2003.
  366. ^ Longerich, Chapter 17 2003.
  367. ^ Kershaw 2000b, tr. 459–462.
  368. ^ Kershaw 2008, tr. 670–675.
  369. ^ Megargee 2007, tr. 144.
  370. ^ Kershaw 2008, tr. 687.
  371. ^ Evans 2008, bản đồ, tr. 366.
  372. ^ a b c Rummel 1994, tr. 112.
  373. ^ a b Holocaust Memorial Museum.
  374. ^ Evans 2008, tr. 318.
  375. ^ Hancock 2004, tr. 383–396.
  376. ^ Shirer 1960, tr. 946.
  377. ^ Snyder 2010, tr. 162–163, 416.
  378. ^ Dorland 2009, tr. 6.
  379. ^ Rummel 1994, table, tr. 112.
  380. ^ US Holocaust Memorial Museum.
  381. ^ Snyder 2010, tr. 184.
  382. ^ Niewyk & Nicosia 2000, tr. 45.
  383. ^ Goldhagen 1996, tr. 290.
  384. ^ Downing 2005, tr. 33.
  385. ^ Gellately 2001, tr. 216.
  386. ^ Kershaw 1999, tr. 567–568.
  387. ^ Overy 2005, tr. 252.
  388. ^ Kershaw 2008, tr. 170, 172, 181.
  389. ^ Speer 1971, tr. 281.
  390. ^ Manvell & Fraenkel 2007, tr. 29.
  391. ^ Kershaw 2008, tr. 323.
  392. ^ Kershaw 2008, tr. 377.
  393. ^ Speer 1971, tr. 333.
  394. ^ a b Overy 2005a, tr. 421–425.
  395. ^ Kershaw 2012, tr. 169–170.
  396. ^ Kershaw 2012, tr. 396–397.
  397. ^ Kershaw 2008, tr. 171–395.
  398. ^ Bullock 1999, tr. 563.
  399. ^ a b Ullrich 2013, tr. 318.
  400. ^ Bullock 1962, tr. 393–394.
  401. ^ Kershaw 2008, tr. 378.
  402. ^ Görtemaker 2010, tr. 51–63.
  403. ^ Kershaw 2008, tr. 947–948.
  404. ^ Kershaw 2008, tr. 5.
  405. ^ Rißmann 2001, tr. 94–96.
  406. ^ Toland 1992, tr. 9–10.
  407. ^ a b Speer 1971, tr. 141–142.
  408. ^ Speer 1971, tr. 143.
  409. ^ a b Conway 1968, tr. 3.
  410. ^ Bullock 1999, tr. 385, 389.
  411. ^ Rißmann 2001, tr. 96.
  412. ^ Speer 1971, tr. 141.
  413. ^ Steigmann-Gall 2003, tr. 27, 108.
  414. ^ Hitler 2000, tr. 59.
  415. ^ Hitler 2000, tr. 342.
  416. ^ Sharkey 2002.
  417. ^ Bonney 2001, tr. 2–3.
  418. ^ Phayer 2000.
  419. ^ Bonney 2001, tr. 2.
  420. ^ Bullock 1962, tr. 219, 389.
  421. ^ Speer 1971, tr. 141, 171, 174.
  422. ^ Bullock 1999, tr. 729.
  423. ^ Evans 2008, tr. 508.
  424. ^ a b Bullock 1962, tr. 717.
  425. ^ Redlich 1993.
  426. ^ Redlich 2000, tr. 129–190.
  427. ^ Waite 1993, tr. 356.
  428. ^ Gunkel 2010.
  429. ^ Kershaw 2000a, tr. 72.
  430. ^ Kershaw 2008, tr. xxxv–xxxvi.
  431. ^ Bullock 1999, tr. 388.
  432. ^ Toland 1992, tr. 256.
  433. ^ Wilson 1998.
  434. ^ McGovern 1968, tr. 32–33.
  435. ^ Linge 2009, tr. 38.
  436. ^ Hitler & Trevor-Roper 1988, tr. 176, 22 January 1942.
  437. ^ Proctor 1999, tr. 219.
  438. ^ Toland 1992, tr. 741.
  439. ^ Heston & Heston 1980, tr. 125–142.
  440. ^ Heston & Heston 1980, tr. 11–20.
  441. ^ a b Kershaw 2008, tr. 782.
  442. ^ Ghaemi 2011, tr. 190–191.
  443. ^ Porter 2013.
  444. ^ Doyle 2005, tr. 8.
  445. ^ Linge 2009, tr. 156.
  446. ^ O'Donnell 2001, tr. 37.
  447. ^ Fest 1974, tr. 753.
  448. ^ Speer 1971, tr. 617.
  449. ^ Kershaw 2012, tr. 348–350.
  450. ^ Toland 2018, tr. 1445.
  451. ^ Kershaw 2000b, tr. xvii.
  452. ^ Fischer 1995, tr. 569.
  453. ^ Del Testa, Lemoine & Strickland 2003, tr. 83.
  454. ^ Murray & Millett 2001, tr. 554.
  455. ^ Welch 2001, tr. 2.
  456. ^ Bazyler 2006, tr. 1.
  457. ^ Shirer 1960, tr. 6.
  458. ^ Hitler & Trevor-Roper 1988, tr. xxxv.
  459. ^ Roberts 1996, tr. 501.
  460. ^ Lichtheim 1974, tr. 366.
  461. ^ Haffner 1979, tr. 100–101.
  462. ^ Haffner 1979, tr. 100.

Tham khảo

Sách

Online

Liên kết ngoài