Cổng thông tin:Nghệ thuật/Bài viết/Lưu trữ/1

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trang trước | Trang 1/9 | Trang sau

Queen

Queen là một ban nhạc rock người Anh được thành lập tại London vào năm 1970. Đội hình kinh điển của họ bao gồm Freddie Mercury, Brian May, Roger TaylorJohn Deacon. Những sản phẩm âm nhạc đầu tay của Queen mang nhiều ảnh hưởng từ progressive rock, hard rockheavy metal, nhưng sau này họ ngày càng phát triển theo phong cách gần gũi với công chúng hơn và kết hợp với nhiều thể loại khác, bao gồm cả arena rockpop rock.

Trước khi thành lập Queen, May và Taylor đã chơi cùng nhau trong ban nhạc Smile. Mercury rất hâm mộ Smile, khuyến khích họ thử nghiệm những kỹ thuật sân khấu và thu âm phức tạp hơn. Ông vào nhóm năm 1970 và gợi ý cái tên "Queen". Deacon tham gia ban nhạc vào tháng 2 năm 1971, trước khi họ phát hành album đầu tay cùng tên vào năm 1973. Queen lần đầu tiên được xếp hạng tại Vương quốc Anh với album thứ hai, Queen II, vào năm 1974. Sheer Heart Attack phát hành vào cuối năm đó và A Night at the Opera ra mắt năm 1975 đã mang lại cho họ thành công quốc tế. Đĩa đơn "Bohemian Rhapsody", giữ vị trí quán quân tại Anh trong chín tuần và giúp phổ biến định dạng video âm nhạc.

Red (album của Taylor Swift)

Redalbum phòng thu thứ tư của nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Taylor Swift, do hãng thu âm Big Machine Records phát hành vào ngày 22 tháng 10 năm 2012. Được Swift bắt tay thực hiện từ năm 2010, album là thành quả hợp tác giữa cô và các nhạc sĩ như Dan Wilson, Max Martin, Shellback, Gary Lightbody, Ed SheeranPatrick Warren. Kết cấu và tựa đề của album lấy cảm hứng từ những trải nghiệm tình cảm mà Swift đúc kết được trong thời gian thu âm, với thể loại pop đồng quêpop rock.

Các nhà phê bình âm nhạc đương đại đón nhận Red một cách nồng nhiệt, khi đề cao tính linh hoạt của Swift ở cương vị nhạc sĩ cùng phần sản xuất mang tính thử nghiệm. Album mang về cho cô 2 đề cử "Album nhạc đồng quê xuất sắc nhất" và "Album của năm" tại mùa Giải Grammy lần thứ 56, trong khi giành giải "Album nhạc đồng quê được yêu thích nhất" tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2013. Red gặt hái thành công rực rỡ về mặt thương mại, khi giành ngôi đầu bảng tại Hoa Kỳ, Anh Quốc, Úc, Canada, IrelandNew Zealand, là album bán chạy thứ hai trên toàn cầu trong năm 2012, với doanh số đến nay đã chạm mốc 15 triệu bản.

Ringo Starr

Richard Starkey (7 tháng 7 năm 1940), thường được biết đến với nghệ danh Ringo Starr, là một nam nhạc công, ca sĩ, nhạc sĩdiễn viên người Anh, tay trống của ban nhạc The Beatles. Ông thỉnh thoảng giữ vai trò hát chính của nhóm, thường cho một bài hát trong mỗi album, bao gồm "Yellow Submarine", "With a Little Help from My Friends" và bản cover "Act Natural" của họ. Ông cũng đã viết và thể hiện các bài hát của The Beatles "Don't Pass Me By" và "Octopus's Garden", và đồng sáng tác ca khúc cùng nhiều người khác.

Starr bị ảnh hưởng bởi những căn bệnh đe dọa đến tính mạng của ông trong suốt thời thơ ấu, cùng với thời gian nằm viện kéo dài. Ông làm một công việc trong thời gian ngắn tại Đường sắt Anh trước khi theo học nghề thợ máy tại một nhà sản xuất thiết bị ở Liverpool. Ngay sau đó, ông bắt đầu quan tâm đến làn sóng skiffle ở Anh và dần phát triển lòng đam mê nhiệt thành đối với thể loại này. Năm 1957, ông đồng sáng lập ban nhạc đầu tiên của mình, The Eddie Clayton Skiffle Group, ban nhạc đã có được một chút thành công tại địa phương trước khi bị mất hút do dòng nhạc rock and roll đang thịnh hành của Mỹ vào khoảng đầu năm 1958. Khi The Beatles thành lập vào năm 1960, Starr là thành viên của một nhóm nhạc ở Liverpool khác, Rory Storm and the Hurricanes. Sau khi đạt được thành công vừa phải ở Vương quốc AnhHamburg, ông rời Hurricanes khi nhận được đề nghị gia nhập The Beatles vào tháng 8 năm 1962, thay thế Pete Best.

Rumours

Rumours là album phòng thu thứ 11 của ban nhạc rock người Anh-Mỹ Fleetwood Mac. Được chủ yếu thực hiện tại California trong năm 1976, album được hợp tác sản xuất với Ken CaillatRichard Dashut và được phát hành vào ngày 4 tháng 2 năm 1977 bởi Warner Bros. Records. Album dễ dàng có được vị trí quán quân ở cả Billboard 200 lẫn UK Albums Chart, theo kèm là các đĩa đơn "Go Your Own Way", "The Chain", "Don't Stop", "Dreams" và "You Make Loving Fun". Đây chính là sản phẩm thành công nhất sự nghiệp ban nhạc, đặc biệt với việc giành Giải Grammy cho Album của năm vào năm 1978 và trở thành một trong số những album bán chạy nhất mọi thời đại với khoảng 45 triệu đĩa đã bán. Rumours cũng nhận được chứng chỉ Kim cương tại nhiều quốc gia, trong đó có Mỹ, Canada và Úc.

Ban nhạc thực tế muốn ngay lập tức tiếp tục những thành công từ album trước đó của họ là Fleetwood Mac, song những rắc rối trong quan hệ cá nhân của từng thành viên đã cản trở quá trình thu âm bắt đầu. Quá trình thực hiện Rumours được đánh dấu bởi thái độ hợp tác cũng như đối đầu giữa các thành viên trong nhóm; và những câu chuyện của họ đã xuất hiện trong ca từ của mỗi ca khúc. Bị ảnh hưởng lớn từ nhạc pop, album sử dụng pha trộn các nhạc cụ mộc lẫn nhạc cụ điện. Công đoạn chỉnh âm cũng khiến việc phát hành Rumours bị trì hoãn, và cuối cùng được hoàn tất vào cuối năm 1976. Sau khi album được ra mắt vào năm 1977, Fleetwood Mac liền tiến hành một tour diễn vòng quanh thế giới.

Stripped (album của Christina Aguilera)

Strippedalbum phòng thu thứ tư trong sự nghiệp âm nhạc của nữ ca sĩ người Mỹ Christina Aguilera, được hãng đĩa RCA Records phát hành vào ngày 26 tháng 10 năm 2002. Khác với album Christina Aguilera mang thể loại bubblegum pop, Stripped là sự kết hợp các thể loại hoàn toàn mới bao gồm R&B, phúc âm, soul, pop rock, Latinhip hop. Album được chính cô và các nhà sản xuất lâu năm khác sản xuất, gồm Scott StorchLinda Perry. Trong suốt quá trình quảng bá cho album, cô đã sử dụng nghệ danh "Xtina" cùng những video khêu gợi đã bị cấm và bị chỉ trích nặng nề tại Mỹ, trong đó có video âm nhạc của đĩa đơn "Dirrty". Mặc dù vậy, album vẫn được phát hành với tư cách là "album lành mạnh" và không bị mang biển "Khuyến cáo cho cha mẹ". Từ một hình tượng "Công chúa nhạc Pop" trước kia, Stripped đã làm cho Aguilera trở thành một "Biểu tượng sex".

Stripped ra mắt tại vị trí á quân trên bảng xếp hạng Billboard 200 và tiêu thụ được 330.000 bản trong tuần đầu tiên. Mặc dù Aguilera bị chỉ trích trong việc sáng tác các ca khúc, song album đã mang về cho cô nhiều giải thưởng danh giá, bao gồm một giải Grammy. Album là một thành công thương mại, xếp hạng á quân tại Liên hiệp Anh và trở thành album bán chạy thứ 73 tại nước này. Tới nay, album đã tiêu thụ được 4,3 triệu bản tại Mỹ và 12 triệu bản trên toàn thế giới. Christina Aguilera đã thực hiện hai chuyến lưu diễn nhằm quảng bá cho album, bao gồm Justified/Stripped TourStripped World Tour. Các đĩa đơn trích từ Stripped bao gồm "Dirrty", "Beautiful", "Fighter", "Can't Hold Us Down" và "The Voice Within".

The Beatles

The Beatles là một ban nhạc rock người Anh được thành lập tại Liverpool vào năm 1960. Với 4 thành viên John Lennon, Paul McCartney, George HarrisonRingo Starr, họ được coi là ban nhạc có ảnh hưởng nhất mọi thời đại. Ban nhạc là một phần không thể thiếu trong sự phát triển của văn hóa phản kháng những năm 1960 và sự công nhận của âm nhạc đại chúng như một loại hình nghệ thuật. Khởi đầu từ skiffle, beatrock and roll những năm 1950, âm nhạc của họ kết hợp với các yếu tố của nhạc cổ điểnnhạc pop truyền thống theo nhiều cách sáng tạo; ban nhạc sau đó đã thử nghiệm những phong cách âm nhạc khác nhau, từ balladâm nhạc Ấn Độ đến psychedeliahard rock. Là những người tiên phong trong việc thu âm, sáng tác và trình bày ca khúc, The Beatles đã cách mạng hóa nhiều khía cạnh của ngành công nghiệp âm nhạc và thường được công chúng coi là nhà lãnh đạo của các phong trào văn hóa xã hội và thanh niên thời đại này.

Được dẫn dắt bởi bộ đôi sáng tác chính Lennon-McCartney, The Beatles bắt đầu xây dựng danh tiếng của mình khi chơi nhạc tại các câu lạc bộ ở Liverpool và Hamburg trong hơn ba năm kể từ năm 1960, ban đầu với Stuart Sutcliffe chơi bass. Bộ ba cốt lõi Lennon, McCartney và Harrison, sát cánh cùng nhau kể từ năm 1958, đã trải qua sự thay đổi về vị trí tay trống, bao gồm cả Pete Best, trước khi đề nghị Starr tham gia cùng họ vào năm 1962. Quản lý Brian Epstein đã đưa họ thành những nghệ sĩ chuyên nghiệp, và nhà sản xuất George Martin đã hướng dẫn và phối khí các ca khúc của họ, mở rộng thành công đáng kể trong nước sau bản hit đầu tiên, "Love Me Do", vào cuối năm 1962. Khi họ ngày càng trở nên nổi tiếng với cộng đồng người hâm mộ được mệnh danh là "Beatlemania", ban nhạc được đặt cho biệt danh "Fab Four", với Epstein, Martin và các người khác trong đoàn quản lý của ban nhạc đôi khi được đặt cho danh hiệu không chính thức là "Beatle thứ năm".

The Red Tour

The Red Tour là chuyến lưu diễn thứ ba của nữ ca sĩ-nhạc sĩ người Mỹ Taylor Swift nhằm quảng bá cho album phòng thu thứ tư của cô, Red. Chuyến lưu diễn diễn ra ở 4 châu lục, bắt đầu tại Omaha vào ngày 13 tháng 3 năm 2013 và kết thúc tại Singapore vào ngày 12 tháng 6 năm 2014. Đây là lần đầu tiên Swift trình diễn tại những nước Hồi giáo như MalaysiaIndonesia.

Swift biểu diễn trên hai sân khấu khác nhau, thay đổi nhiều trang phục và trình diễn bằng nhiều loại nhạc cụ như guitar điện, guitar acoustic, piano và băng cầm trong suốt chương trình. Danh sách tiết mục phần lớn lấy từ Red kết hợp với một số ca khúc nằm trong các album phòng thu trước đây của Swift. Tại nhiều thành phố, nữ ca sĩ còn gây bất ngờ cho khán giả bằng việc mời nhiều nghệ sĩ lên sân khấu và song ca cùng cô. Chuyến lưu diễn nhận được nhiều phản hồi chuyên môn rất tích cực, một số nhà phê bình âm nhạc còn nhận thấy sự biến chuyển trong phong cách của Swift từ dòng nhạc đồng quê sang dòng nhạc pop.

Do lượng yêu cầu cao từ phía khán giả sau khi vé tại nhiều đấu trường và sân vận động được bán hết, Swift bổ sung thêm nhiều đêm diễn vào lịch trình. Doanh thu của The Red Tour tại Hoa KỳCanada đạt 115,3 triệu USD, trở thành chuyến lưu diễn thành công nhất về mặt thương mại tại khu vực Bắc Mỹ năm 2013. Tổng cộng, chuyến lưu diễn đã phục vụ hơn 1,7 triệu khán giả tại 12 quốc gia, thu về 150,2 triệu USD từ 86 buổi diễn cháy vé, vượt qua kỉ lục doanh thu của Soul2Soul II Tour do Tim McGrawFaith Hill khởi xướng để trở thành chuyến lưu diễn có doanh thu cao nhất mọi thời đại bởi một nghệ sĩ nhạc đồng quê.

The Long and Winding Road

"The Long and Winding Road" là bản ballad do Paul McCartney sáng tác. Đây là ca khúc thứ 10 trong album Let It Be của The Beatles. Bài hát trở thành ca khúc thứ 20 và cũng là ca khúc cuối cùng của nhóm nhạc này leo lên vị trí số 1 trên bảng xếp hạng của Hoa Kỳ vào ngày 13 tháng 6 năm 1970, và là đĩa đơn cuối cùng do nhóm phát hành khi cả bốn thành viên đều còn sống. "The Long and Winding Road" cùng với "For You Blue" trở thành những bản hit khi đĩa đơn 2-mặt này leo lên vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Hoa Kỳ vào năm 1970.

Tuy bản phát hành sau cùng của ca khúc này rất thành công, nhưng những thay đổi khi thực hiện hậu kỳ của nhà sản xuất Phil Spector khiến McCartney tức giận tới mức khi đưa vấn đề giải tán ban nhạc the Beatles ra toà, McCartney đã nêu việc xử lý ca khúc "The Long and Winding Road" là một trong 6 nguyên nhân dẫn đến quyết định đó. Các bản phối mới của ca khúc với ít nhạc cụ hơn sau đó đã được phát hành dưới tên của The Beatles và McCartney.

We Are the World

"We Are the World" là một ca khúc và đĩa đơn từ thiện do siêu nhóm nhạc USA for Africa thu âm năm 1985. Ca khúc do Michael JacksonLionel Richie sáng tác và được Quincy Jones cùng Michael Omartian sản xuất cho album We Are the World. Với doanh số bán trên 20 triệu bản, đây là một trong số 10 đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại trên toàn cầu.

Sau dự án "Do They Know It's Christmas?" của siêu nhóm nhạc Band Aid ở Anh, nhạc sĩ và nhà hoạt động xã hội Harry Belafonte nảy ra ý tưởng làm một đĩa đơn từ thiện của Mỹ để hỗ trợ công tác giảm thiểu nạn đói ở châu Phi. Ông, cùng với nhà gây quỹ Ken Kragen, là những người đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ý tưởng này trở thành hiện thực. Hai người sau đó đã liên hệ với một số nhạc sĩ, và cuối cùng giao cho Jackson và Richie sáng tác ca khúc này. Cặp đôi này viết xong ca khúc "We Are the World" chỉ bảy tuần sau khi "Do They Know Its Christmas" được phát hành, và ngay ngày hôm sau, buổi thu âm đầu tiên của ca khúc được thực hiện. Sự kiện mang tính lịch sử này quy tụ một vài trong số những ca sĩ nổi tiếng nhất của nền công nghiệp âm nhạc thời bấy giờ.

Wish You Were Here (album của Pink Floyd)

Wish You Were Herealbum phòng thu thứ chín của ban nhạc progressive rock người Anh, Pink Floyd, phát hành vào tháng 9 năm 1975. Album lần này khai thác chủ đề về sự trống vắng, nền công nghiệp âm nhạc cũng như các vấn đề tâm thần của cựu thủ lĩnh Syd Barrett. Được viết từ những phần sáng tác nhỏ khi ban nhạc lưu diễn châu Âu, Wish You Were Here được thu âm qua rất nhiều giai đoạn ở Abbey Road Studios. Quá trình thực hiện album gặp một vài trục trặc, song chính điều đó giúp Roger Waters quyết định tách ca khúc "Shine On You Crazy Diamond" thành hai phần riêng biệt và xen vào giữa đó ba ca khúc mới. "Shine On" là ca khúc để dành tặng Barrett sau khi anh đột nhiên tới thăm ban nhạc trong quá trình thu âm.

Tương tự album trước đó, The Dark Side of the Moon, ban nhạc tiếp tục sử dụng nhiều hiệu ứng âm thanh cũng như máy chỉnh âm. Roy Harper được mời tới hát chính trong ca khúc "Have a Cigar". Phần thiết kế được Storm Thorgerson phụ trách khi bọc toàn bộ bên ngoài một lớp giấy bóng màu đen nhằm giấu phần bìa chính. Wish You Were Here thành công vang dội và thực tế EMI đã không phát hành đủ lượng đĩa yêu cầu. Cho dù những đánh giá ban đầu khá trái chiều, song cuối cùng album vẫn có mặt trong danh sách "500 album vĩ đại nhất" của tạp chí Rolling Stone. Cả hai thành viên Richard WrightDavid Gilmour đều coi Wish You Were Here là album yêu thích của họ.

Angelina Jolie

Angelina Jolie (4 tháng 6 năm 1975) là một nữ diễn viên, nhà làm phimnhà nhân đạo người Mỹ. Trong suốt sự nghiệp, cô đã nhận được một giải Oscar và ba giải Quả cầu vàng, cô cũng nhiều lần được vinh danh là nữ diễn viên kiếm tiền nhiều nhất Hollywood.

Jolie xuất hiện lần đầu trên màn ảnh khi còn nhỏ cùng với cha cô, Jon Voight, trong Lookin' to Get Out, và sự nghiệp điện ảnh của cô chính thức bắt đầu một thập kỷ sau đó với Cyborg 2, tiếp theo là vai chính đầu tiên trong Hackers. Cô đóng vai chính trong các bộ phim được giới phê bình đánh giá cao là George WallaceGia, đồng thời giành Giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất nhờ diễn xuất trong bộ phim truyền hình Girl, Interrupt năm 1999. Với vai nữ chính trong Lara Croft: Tomb Raider đã giúp cô trở thành nữ diễn viên hàng đầu Hollywood. Cô tiếp tục sự nghiệp ngôi sao hành động của mình với Mr. & Mrs. Smith, WantedSalt, nhận được lời đánh giá cao của giới phê bình cho màn thể hiện của cô trong các bộ phim truyền hình A Mighty HeartChangeling, mang về cho cô một đề cử cho Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Thành công thương mại lớn nhất của cô đến từ bộ phim giả tưởng Maleficent. Cô cũng được biết đến với vai trò lồng tiếng trong loạt phim hoạt hình Kung Fu Panda. Jolie còn là đạo diễn và nhà biên kịch cho một số bộ phim truyền hình như In the Land of Blood and Honey, UnbrokenFirst They Killed My Father.

Audrey Hepburn

Audrey Hepburn (4 tháng 5 năm 1929 – 20 tháng 1 năm 1993) là một nữ diễn viên người Anh. Là biểu tượng của điện ảnhthời trang, Hepburn hoạt động trong thời Hoàng kim của Hollywood. Bà xếp ở vị trí thứ 3 trong danh sách những huyền thoại vĩ đại nhất lịch sử chiếu bóng Hoa Kỳ do Viện phim Mỹ bình chọn và được vinh danh tại Đại lộ Danh vọng Hollywood. Sinh ra tại Ixelles, một quận của Brussels, Hepburn trưởng thành tại Bỉ, AnhHà Lan, bao gồm khu vực Arnhem bị Đức chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nơi bà làm việc chuyển phát nhanh trong cuộc kháng chiến chống Đức và hỗ trợ gây quỹ. Tại Amsterdam, bà theo học bộ môn kịch múa với Sonia Gaskell, trước khi chuyển đến Luân Đôn vào năm 1948 để tiếp tục chương trình luyện tập cùng Marie Rambert và hát bè tại các chương trình nhạc kịch West End.

Sau khi tham gia nhiều vai phụ trong các bộ phim, Hepburn được tiểu thuyết gia người Pháp Colette chú ý và sắm vai chính trong vở kịch Broadway Gigi. Bà bứt phá bằng vai chính trong Roman Holiday, đem lại cho bà giải Oscar, giải Quả cầu vànggiải BAFTA. Cùng năm đó, Hepburn thắng giải Tony cho "Nữ diễn viên chính kịch xuất sắc nhất" với diễn xuất trong Ondine. Bà tiếp tục xuất hiện trong nhiều bộ phim thành công, như Sabrina, The Nun's Story, Breakfast at Tiffany's, Charade, My Fair LadyWait Until Dark. Bà lập kỷ lục khi thắng 3 giải BAFTA cho "Nữ diễn viên chính Anh Quốc xuất sắc nhất". Trong sự nghiệp điện ảnh, bà được vinh danh bằng Giải BAFTA Thành tựu trọn đời, giải Quả cầu vàng Cecil B. DeMille, giải thưởng Thành tựu trọn đời của Hội Diễn viên Điện ảnhgiải thưởng Tony đặc biệt. Bà là một trong số ít nghệ sĩ đã giành giải Oscar, Emmy, Grammy và Tony.

Avengers: Cuộc chiến vô cực

Avengers: Cuộc chiến vô cực là một bộ phim điện ảnh đề tài siêu anh hùng của Mỹ năm 2018 dựa trên biệt đội siêu anh hùng Avengers của Marvel Comics. Phim do Marvel Studios sản xuất và Walt Disney Studios Motion Pictures chịu trách nhiệm phân phối, là phần phim tiếp theo của Biệt đội siêu anh hùngAvengers: Đế chế Ultron, đồng thời cũng là phim điện ảnh thứ 19 trong loạt phim điện ảnh thuộc Vũ trụ Điện ảnh Marvel. Tác phẩm do bộ đôi anh em Anthony và Joe Russo đạo diễn, với phần kịch bản được chắp bút bởi Christopher Markus và Stephen McFeely. Phim có sự tham gia của dàn diễn viên gồm Robert Downey Jr., Chris Hemsworth, Mark Ruffalo, Chris Evans, Scarlett Johansson, Benedict Cumberbatch, Don Cheadle, Tom Holland, Chadwick Boseman, Paul Bettany, Elizabeth Olsen, Anthony Mackie, Sebastian Stan, Danai Gurira, Letitia Wright, Dave Bautista, Zoe Saldana, Josh BrolinChris Pratt. Trong Avengers: Cuộc chiến vô cực, Biệt đội Avengers hợp tác với nhóm Vệ binh dải Ngân Hà để ngăn chặn Thanos khỏi việc thu thập đầy đủ 6 Viên đá Vô cực và hủy diệt một nửa số sinh vật trong vũ trụ.

Avengers: Cuộc chiến vô cực được công bố vào tháng 10 năm 2014 dưới tựa đề Avengers: Cuộc chiến vô cực – Phần 1. Tháng 4 năm 2015, anh em nhà Russo nhận lời ngồi vào ghế đạo diễn của phim; một tháng sau, bộ đôi Christopher Markus và Stephen McFeely ký hợp đồng mới dưới vai trò nhà biên kịch của phim, với phần cốt truyện lấy ý tưởng từ nguyên tác truyện tranh The Infinity Gauntlet của Jim Starlin xuất bản năm 1991 và Infinity của Jonathan Hickman xuất bản năm 2013. Năm 2016, Marvel rút ngắn tựa đề phim thành Avengers: Cuộc chiến vô cực. Phim được khởi quay vào tháng 1 năm 2017 tại Pinewood Atlanta StudiosQuận Fayette, Georgia, chính thức đóng máy vào tháng 7 năm 2017 và sau đó tiếp tục được quay liền mạch với phần phim tiếp nối, Avengers: Hồi kết. Những cảnh quay bổ sung được thực hiện tại Scotland, vùng Downtown AtlantaThành phố New York. Với kinh phí trong khoảng từ 316–400 triệu USD, Avengers: Cuộc chiến vô cựcmột trong những phim điện ảnh có kinh phí cao nhất mọi thời đại.

Bản danh sách của Schindler

Bản danh sách của Schindler là một bộ phim điện ảnh chính kịch cổ trang sử thi của Hoa Kỳ sản xuất và phát hành năm 1993 do Steven Spielberg làm đạo diễn kiêm đồng sản xuất và Steven Zaillian viết kịch bản. Phim dựa theo cuốn tiểu thuyết Schindler's Ark của Thomas Keneally, một tiểu thuyết gia người Úc. Bộ phim dựa trên cuộc đời của Oskar Schindler, một doanh nhân người Đức đã cứu sống hơn một 1000 người Do Thái gốc Ba Lan tị nạn trong thời kỳ Đức Quốc Xã tàn sát người Do Thái bằng cách tuyển họ vào làm trong các nhà máy của mình. Phim có sự tham gia của Liam Neeson trong vai Schindler, Ralph Fiennes trong vai sĩ quan Schutzstaffel Amon Goeth, và Ben Kingsley trong vai kế toán người Do Thái của Schindler, Itzhak Stern.

Ý tưởng sản xuất một bộ phim nói về Schindlerjuden được đề xuất lần đầu tiên vào năm 1963. Poldek Pfefferberg, một trong số những người Schindlerjuden, xác định rằng sứ mệnh của cuộc đời mình là phải kể lại câu chuyện của Schindler cho hậu thế. Spielberg tỏ ra hứng thú với kịch bản này sau khi nhà điều hành Sid Sheinberg gửi cho ông một bản nhận xét cuốn sách Schindler's Ark. Universal Studios mua bản quyền chuyển thể điện ảnh của cuốn tiểu thuyết, tuy nhiên Spielberg, ban đầu còn lo ngại ông chưa đủ tự tin để làm một bộ phim về thời kỳ tàn sát người Do Thái, tìm cách đẩy dự án sang cho một số đạo diễn khác trước khi quyết định tự tay đạo diễn bộ phim này.

Call Me by Your Name

Call Me by Your Name là một bộ phim tình cảm, chính kịch, tuổi mới lớn năm 2017 do Luca Guadagnino đạo diễn và James Ivory chắp bút, dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên xuất bản vào năm 2007 của André Aciman. Đây là tác phẩm cuối cùng trong bộ ba mang tên "Desire" của đạo diễn Guadagnino, sau I Am LoveA Bigger Splash. Lấy bối cảnh vùng nông thôn miền Bắc nước Ý năm 1983, Call Me by Your Name xoay quanh mối quan hệ lãng mạn giữa cậu thiếu niên 17 tuổi Elio Perlman và sinh viên 24 tuổi người Mỹ – Oliver – trợ lí thực tập cho cha của Elio, một giáo sư khảo cổ học. Bộ phim cũng có sự góp mặt của các nữ diễn viên người Pháp Amira Casar, Esther GarrelVictoire Du Bois.

Call Me by Your Name bắt đầu được phát triển từ năm 2007 khi hai nhà sản xuất là Peter SpearsHoward Rosenman mua bản quyền màn ảnh cho cuốn tiểu thuyết của Aciman. Ivory được chỉ định trở thành đồng đạo diễn, nhưng tới năm 2016 ông quyết định từ bỏ vai trò này để Guadagnino – người trước đó vốn giữ vai trò cố vấn địa điểm – lên nắm toàn quyền chỉ đạo kiêm sản xuất bộ phim. Tác phẩm điện ảnh đón nhận tài trợ từ một số công ty quốc tế và ghi hình tại Crema, Lombardia,Ý từ tháng 5 đến tháng 6 năm 2016. Sayombhu Mukdeeprom tiến hành quay phim trên loại phim 35mm. Đoàn làm phim đã dành nhiều tuần để trang trí căn biệt thự Villa Albergoni – một trong những địa điểm quay chính của tác phẩm. Đích thân đạo diễn Guadagnino chọn lựa âm nhạc cho phim, trong đó có hai ca khúc gốc được sáng tác và thể hiện bởi ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Sufjan Stevens.

Captain America: Nội chiến siêu anh hùng

Captain America: Nội chiến siêu anh hùng là phim điện ảnh siêu anh hùng của Mỹ năm 2016 dựa trên nhân vật truyện tranh Captain America của Marvel Comics, do Marvel Studios sản xuất và Walt Disney Studios Motion Pictures chịu trách nhiệm phân phối. Đây là phần phim tiếp theo của phim điện ảnh Captain America: Kẻ báo thù đầu tiênCaptain America 2: Chiến binh mùa đông, đồng thời cũng là phim điện ảnh thứ mười ba trong loạt phim điện ảnh thuộc Vũ trụ Điện ảnh Marvel. Phim do bộ đôi anh em Anthony và Joe Russo đạo diễn, với phần kịch bản được chấp bút bởi Christopher Markus và Stephen McFeely. Phim có sự tham gia diễn xuất của Chris Evans, Robert Downey Jr., Scarlett Johansson, Sebastian Stan, Anthony Mackie, Don Cheadle, Jeremy Renner, Chadwick Boseman, Paul Bettany, Elizabeth Olsen, Paul Rudd, Emily VanCamp, Tom Holland, Frank Grillo, William HurtDaniel Brühl. Trong Captain America: Nội chiến siêu anh hùng, sự bất đồng về việc quản lý các anh hùng đã chia Biệt đội Avengers ra làm hai phe đối nghịch – một do Steve Rogers chỉ huy và một do Tony Stark dẫn đầu.

Quá trình phát triển Captain America: Nội chiến siêu anh hùng được bắt đầu vào cuối năm 2013 khi Markus và McFeely bắt đầu thực hiện phần kịch bản cho phim, với ý tưởng lấy từ cốt truyện của tập truyện tranh "Civil War" năm 2006, đồng thời cũng vẫn bám sát câu chuyện và nhân vật từ các phần phim trước nhằm kết thúc bộ ba phim điện ảnh Captain America. Sau những phản hồi tích cực từ các buổi chiếu thử của Captain America 2: Chiến binh mùa đông, hai anh em nhà Russo tiếp tục được mời vào ghế đạo diễn cho phần phim thứ ba vào đầu năm 2014. Tựa đề và nội dung chính của phim được tiết lộ vào tháng 10 năm 2014, và dàn diễn viên tham gia cũng được công bố vào tháng kế tiếp. Quá trình quay phim chính được bắt đầu vào tháng 4 năm 2015 tại Pinewood Atlanta Studiosquận Fayette, Georgia, và được tiếp tục tại vùng đô thị Atlanta trước khi đóng máy tại Đức vào tháng 8 năm 2015. Đây là phim điện ảnh đầu tiên sử dụng máy quay 2D kỹ thuật số IMAX. Các hiệu ứng kỹ xảo hình ảnh được thực hiện bởi gần 20 xưởng phim khác nhau trong quá trình hậu kỳ.

Casablanca (phim)

Casablanca là một bộ phim chính kịch lãng mạn của Hoa Kỳ năm 1942. Phim do đạo diễn Michael Curtiz dàn dựng, dựa trên kịch bản sân khấu Everybody Comes to Rick's của Murray BurnettJoan Alison. Phim có diễn xuất của Humphrey Bogart, Ingrid Bergman, Paul Henreid, Claude Rains, Conrad Veidt, Sydney Greenstreet, Peter LorreDooley Wilson. Lấy bối cảnh giai đoạn đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, Casablanca đề cập tới một người đàn ông bị giằng xé bởi lựa chọn khó khăn giữa tình yêu dành cho một người phụ nữ và trách nhiệm giúp cô cùng chồng—là một lãnh tụ kháng chiến người Tiệp Khắc—thoát khỏi Maroc, lúc này thuộc quyền quản lý của chính quyền Vichy Pháp thân Đức Quốc xã.

Nhà dựng phim Irene Diamond đã thuyết phục nhà sản xuất Hal B. Wallis mua lại tác quyền vở kịch vào tháng 1 năm 1942. Hai anh em JuliusPhilip G. Epstein ban đầu được chỉ định viết kịch bản cho bộ phim. Đầu năm 1942, họ rời bỏ dự án để hợp tác trong Why We Fight của Frank Capra. Howard E. Koch đảm nhận kịch bản này cho tới khi anh em nhà Epsteins trở lại một tháng sau đó. Casey Robinson viết lại kịch bản trong ba tuần, nhưng không được ghi nhận. Curtiz trở thành đạo diễn của bộ phim sau khi William Wyler, lựa chọn đầu tiên của Wallis, không thể tham gia. Quá trình ghi hình chính bắt đầu từ ngày 25 tháng 5 năm 1942, kết thúc ngày 3 tháng 8; hầu hết bộ phim quay tại Warner Bros. Studios, Burbank, với chỉ một cảnh quay ở Sân bay Van Nuys, Los Angeles.

Charlie Chaplin

Charles Spencer Chaplin (16 tháng 4 năm 1889 – 25 tháng 12 năm 1977) là một nam diễn viên, nhà làm phimnhà soạn nhạc người Anh nổi tiếng trong kỷ nguyên phim câm. Ông đã trở thành một biểu tượng trên toàn thế giới thông qua nhân vật màn ảnh của mình, Sác-lô, và được coi là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử điện ảnh. Sự nghiệp của ông kéo dài hơn 75 năm, từ thời thơ ấu ở thời đại Victoria cho đến một năm trước khi ông qua đời vào năm 1977, bao gồm cả sự tán dương và tranh cãi.

Thời thơ ấu của Chaplin ở Luân Đôn rất nghèo khó, người cha thường hay vắng nhà và người mẹ gặp khó khăn về tài chính, ông bị đưa vào trại tế bần hai lần trước năm 9 tuổi. Khi ông 14 tuổi, mẹ ông phải vào trại tâm thần. Chaplin bắt đầu diễn xuất khi còn nhỏ, đi biểu diễn ở các phòng hát, sau đó trở thành một diễn viên sân khấu và nghệ sĩ hài. Năm 19 tuổi, ông được ký hợp đồng với công ty Fred Karno danh tiếng, công ty đã đưa ông đến Mỹ. Ông bắt đầu xuất hiện chính thống vào năm 1914 cho Keystone Studios. Ông sớm phát triển tính cách Sác-lô và có một lượng người hâm mộ đông đảo. Ông đã đạo diễn những bộ phim của riêng mình và tiếp tục trau dồi kỹ năng của mình khi chuyển đến các tập đoàn Essanay, MutualFirst National. Đến năm 1918, ông là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất trên thế giới.

Con đường ảo mộng

Con đường ảo mộng là một bộ phim điện ảnh thuộc thể loại neo-noir giật gân, bí ẩntâm lý của MỹPháp ra mắt năm 2001 do David Lynch làm đạo diễn kiêm biên kịch. Với sự tham gia diễn xuất của dàn diễn viên nổi tiếng như Naomi Watts, Laura Harring, Justin Theroux, Ann Miller, Mark Pellegrino cùng Robert Forster, bộ phim theo chân nữ diễn viên giàu khát vọng Betty Elms trên con đường chinh phục ánh hào quang tại Los Angeles. Tại đây, cô gặp và kết bạn với một cô gái bị mất trí nhớ sau vụ tai nạn ô tô.

Lúc đầu, ý tưởng của các nhà làm phim là thai nghén một loạt phim truyền hình nhiều phần, mở đầu bằng một tập phim thí điểm. Phần lớn bộ phim bắt đầu được lên lịch quay từ năm 1999. Lynch dự định sẽ để ngỏ một kết thúc mở cho các phần phim tiềm năng sau này. Tuy nhiên, sau khi biết được kế hoạch của ông, những người chịu trách nhiệm sản xuất đã nhất mực từ chối, gián tiếp dẫn đến việc Lynch bỏ hẳn dự án và quyết định chuyển hướng bộ phim lên màn ảnh. Kết cục, một tác phẩm nhiều tầng ý nghĩa, mang nửa truyền hình, nửa điện ảnh, cộng với chất riêng của vị đạo diễn này ra đời. Lynch không muốn giải thích những điểm khó hiểu trong câu chuyện mà muốn để chính người xem, giới chuyên môn cũng như các thành viên trong đoàn làm phim tự suy đoán lấy. Ông chỉ gợi ý cho khán giả bằng một câu tagline duy nhất, theo đó, bộ phim là "một câu chuyện tình yêu trong thành phố của những giấc mơ".

Dáng hình thanh âm (phim)

Dáng hình thanh âm là một bộ phim điện ảnh hoạt hình Nhật Bản đề tài chính kịch học đường ra mắt năm 2016, do xưởng phim Kyōto Animation sản xuất, Yamada Naoko đạo diễn và Yoshida Reiko chắp bút phần kịch bản. Người phụ trách khâu thiết kế nhân vật nổi bật trong phim là Nishiya Futoshi trong khi phần âm nhạc được đảm nhiệm bởi nhà soạn nhạc Ushio Kensuke. Nội dung chính của phim xoay quanh hai nhân vật chính là Ishida Shōya và cô bạn khiếm thính bẩm sinh Nishimiya Shōko - mối quan hệ của họ đã vẽ nên mối liên kết giữa con người với con người và cả những thất vọng trong giao tiếp. Tác phẩm dựa trên manga cùng tên do nữ tác giả manga Ōima Yoshitoki viết kịch bản và vẽ minh họa; manga nguyên tác đã được cấp phép bản quyền cho nhà xuất bản Trẻ dưới tựa đề tiếng Việt chính thức là Dáng hình thanh âm. Phim công chiếu lần đầu tại Nhật Bản vào ngày 17 tháng 9 năm 2016 và trên toàn cầu từ tháng 2 năm 2017 đến tháng 8 năm 2018.

Dáng hình thanh âm đã giành được một số đề cử giải thưởng, trong đó gồm đề cử "Phim hoạt hình xuất sắc nhất" tại Giải Viện Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 40, chiến thắng tại Giải phê bình điện ảnh Nhật Bản lần thứ 26 hạng mục phim hoạt hình, đề cử tại giải thưởng Liên hoan Nghệ thuật truyền thông Nhật Bản lần thứ 20, và được Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản khuyến nghị nên xem. Bộ phim đã có nhiều buổi công chiếu dành cho người khiếm thính tại các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Dòng máu anh hùng

Dòng máu anh hùng là một bộ phim điện ảnh hành động võ thuật Việt Nam năm 2007 do Chánh Phương FilmCinema Pictures hợp tác sản xuất. Phim do Charlie Nguyễn làm đạo diễn, được chính anh và Johnny Trí Nguyễn viết kịch bản, cùng với sự tham gia diễn xuất của Johnny Trí Nguyễn, Ngô Thanh Vân, Dustin NguyễnNguyễn Chánh Tín. Phim kể về một sĩ quan mật thám và cô con gái của thủ lĩnh nghĩa quân trong bối cảnh cuộc khởi nghĩa chống Pháp vào thập niên 1920.

Anh em Charlie Nguyễn phát triển kịch bản Dòng máu anh hùng từ năm 2005, với mong muốn thực hiện một bộ phim về lịch sử quê nhà, lấy cảm hứng từ những câu chuyện của ông nội lúc tham gia chống Pháp và xuất thân tầng lớp người Mỹ gốc Việt. Ngô Thanh Vân nhận vai vào tháng 11 năm 2005 và luyện tập cùng đoàn làm phim trong 2 tháng. Toàn bộ cuốn phim ghi hình tại Việt Nam, kéo dài đến tháng 5 năm 2006; quá trình dựng phim tại Thái Lan cũng được thực hiện song song khi quay hình. Kinh phí của phim đạt 1,5–1,6 triệu đô-la Mỹ, con số đầu tư lớn nhất điện ảnh trong nước lúc bấy giờ. Phim được hãng The Weinstein Company mua lại để phân phối trên toàn thế giới.

Đập cánh giữa không trung

Đập cánh giữa không trung là một bộ phim điện ảnh độc lập thuộc thể loại tâm lý xã hội, tuổi mới lớn của Việt Nam, Đức, Na UyPháp do Nguyễn Hoàng Điệp viết kịch bản kiêm đạo diễn. Với sự tham gia diễn xuất của Trần Bảo Sơn, Phạm Trần Thanh Duy, Nguyễn Thùy Anh, Hoàng Hà, phim kể về hành trình của một cô sinh viên Hà Nội sau khi phát hiện ra mình đã có thai và mối quan hệ của cô với những người xung quanh.

Lấy cảm hứng từ trải nghiệm của chính bản thân, Nguyễn Hoàng Điệp khởi động dự án điện ảnh đầu tay mang tên Đập cánh, hợp tác với Phan Đăng DiĐỗ Thị Hải Yến. Sau khi thất bại trong việc tìm nguồn hỗ trợ tài chính tại Việt Nam, cô tìm đến Liên hoan phim Cannes, mang theo một bộ phim ngắn, đính kèm hồ sơ của dự án mới với kỳ vọng nhận được sự đầu tư. Vì đòi hỏi khó khăn ban đầu, dự án bị gắn mác "kế hoạch mộng mơ" trước khi nhận được đủ nguồn lực tài chính cần thiết từ các quỹ điện ảnh. "Đập cánh" được ba nhà sản xuất phim quốc tế đến từ Pháp, Na Uy, Đức ngỏ lời hỗ trợ tham gia. Phim khởi quay mùa hè năm 2013 và kết thúc giai đoạn hậu kỳ tại Pháp một năm sau đó.

Điệp vụ Boston

Điệp vụ Boston là một bộ phim điện ảnh chính kịch tội phạm của Mỹ do Martin Scorsese đạo diễn và được công chiếu vào năm 2006. Kịch bản phim do William Monahan viết dựa trên kịch bản Vô gian đạo, tác phẩm ăn khách của điện ảnh Hồng Kông năm 2002. Lấy bối cảnh là thành phố Boston, Massachusetts, bộ phim nói về cuộc đối đầu kịch tính giữa hai điệp viên của cảnh sát và băng đảng gốc Ireland được cài vào tổ chức đối phương để hoạt động.

Với kinh phí 90 triệu đôla Mỹ, được thực hiện bởi đạo diễn hàng đầu Hollywood của thể loại phim hình sự cùng một dàn diễn viên tên tuổi, gồm Leonardo DiCaprio, Matt DamonJack Nicholson, Điệp vụ Boston đã được báo giới và công chúng chú ý ngay từ giai đoạn sản xuất. Sau khi công chiếu, bộ phim đã gặt hái nhiều thành công trên cả hai phương diện thương mại và nghệ thuật. Điệp vụ Boston đã thu về gần 300 triệu đôla trên phạm vi toàn cầu cũng như đem lại cho Martin Scorsese giải Oscar Đạo diễn xuất sắc nhất sau rất nhiều đề cử không thành công. Bản thân Điệp vụ Boston cũng chiến thắng tại hạng mục danh giá nhất của giải Oscar, hạng mục Phim hay nhất. Đây là bộ phim làm lại thứ hai trong lịch sử giải Oscar chiến thắng ở hạng mục quan trọng nhất này.

Eternal Sunshine of the Spotless Mind

Eternal Sunshine of the Spotless Mind là phim điện ảnh khoa học viễn tưởng hài lãng mạn của Mỹ năm 2004 do Michel Gondry đạo diễn và Charlie Kaufman viết kịch bản với dàn diễn viên chính gồm Jim Carrey, Kate Winslet, Kirsten Dunst, Mark Ruffalo, Elijah WoodTom Wilkinson. Eternal Sunshine nói về câu chuyện của đôi tình nhân Joel Barish và Clementine Kruczynski, gặp nhiều bất đồng trong cuộc sống, họ quyết định tới công ty Lacuna Inc. xóa bỏ ký ức về người kia để rồi lại thấy không thể sống thiếu nhau và phải tìm mọi cách để giữ lại hình ảnh của người mình yêu trong trí nhớ. Sau khi ra mắt khán giả Eternal Sunshine đã nhận được nhiều lời khen ngợi, đặc biệt là về kịch bản sáng tạo của Kaufman cùng diễn xuất của hai ngôi sao Jim Carrey và Kate Winslet. Với tác phẩm này, Kaufman đã được trao Giải Oscar cho kịch bản gốc hay nhất còn Kate Winslet trở thành nữ diễn viên trẻ nhất có được 4 đề cử Oscar cho hạng mục diễn xuất.

Giấc mơ danh vọng

Giấc mơ danh vọng là một bộ phim ca nhạc Mỹ của đạo diễn Bill Condon được công chiếu lần đầu vào năm 2006, do hai hãng DreamWorks Pictures cùng Paramount Pictures hợp tác sản xuất và phát hành. Bộ phim được chiếu ra mắt tại ba roadshow đặc biệt bắt đầu vào ngày 15 tháng 12 năm 2006, phát hành chính thức trên toàn nước Mỹ vào 25 tháng 12 năm 2006. Dreamgirls đã giành tổng cộng 3 giải Quả cầu vàng năm 2007, trong đó có giải Phim xuất sắc nhất thuộc thể loại Hài kịch hay Nhạc kịch, đồng thời cũng chiến thắng ở hai hạng mục tại lễ trao giải Oscar lần thứ 79.

Được chuyển thể từ vở nhạc kịch Broadway cùng tên năm 1981, Dreamgirls lấy bối cảnh hai thập niên 1960-1970 và sử dụng dàn diễn viên chủ yếu là người Mỹ gốc Phi. Nội dung vở kịch dựa trên lịch sử phát triển âm nhạc R&B ở Hoa Kỳ trong suốt kỷ nguyên của âm nhạc doo-wop, soul, âm thanh Motown, funkdisco. Thêm vào đó, nội dung vở nhạc kịch có những chi tiết dựa trên cuộc đời và sự nghiệp của nhóm nhạc nữ danh tiếng của Motown, Diana Ross & The Supremes; và mối liên hệ này tiếp tục được mở rộng thêm trong phiên bản điện ảnh. Dreamgirls là phim kể về cuộc đời của Effie White, Deena Jones và Lorrell Robinson, ba cô gái trẻ đã thành lập một nhóm tam ca ở thành phố Detroit, Michigan mang tên "The Dreamettes". Nhờ sự giúp đỡ của nhà quản lý thu âm Curtis Taylor, Jr., Dreamettes đã dần trở nên nổi tiếng khi là nhóm hát bè cho ca sĩ nhạc soul James "Thunder" Early. Mâu thuẫn xảy ra giữa các thành viên khi Curtis chuyển nhóm hát này thành một ban nhạc theo xu hướng pop, với tên gọi mới "The Dreams", và đặc biệt khi đưa Deena lên thay thế Effie ở cả vai trò ca sĩ hát chính lẫn vị trí người tình của Curtis.