Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nga”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 194: Dòng 194:


Xem thêm: [[Danh sách các thành phố Nga]]
Xem thêm: [[Danh sách các thành phố Nga]]

=== Khí hậu ===
{{main|Khí hậu Nga}}
Khí hậu Liên bang Nga được hình thành dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố xác định. Diện tích to lớn của đất nước và sự xa tách khỏi biển của nhiều vùng dẫn tới một kiểu khí hậu [[khí hậu lục địa ẩm|lục địa ẩml]] và [[Khí hậu cận Bắc Cực|cận Bắc Cực]], là kiểu khí hậu phổ biến ở châu Âu và vùng châu Á của Nga ngoại trừ lãnh nguyên và vùng cực đông nam.<ref name=climate/> Các dãy núi ở phía nam ngăn chặn các khối không khí ấm từ [[Ấn Độ Dương]], trong khi đồng bằng phía tây và phía bắc khiến nước này mở rộng với những ảnh hưởng từ [[Bắc Cực]] và [[Đại Tây Dương]].<ref name=congress>{{cite web|title=Climate|publisher=Library Of Congress|url=http://countrystudies.us/russia/24.htm|accessdate=2007-12-26}}</ref>

Trên hầu khắp lãnh thổ chỉ có hai mùa riêng biệt&nbsp;— mùa đông và mùa hè, mùa xuân và mùa thu thường chỉ là những giai đoạn thay đổi ngắn giữa thời tiết cực thấp và cực cao.<ref name=congress/> Tháng lạnh nhất là tháng 1 (tháng 2 trên bờ biển), tháng ấm nhất thường vào tháng 7. Sự chênh lệch nhiệt độ lớn là điều thông thường. Vào mùa đông, nhiệt độ lạnh đi cả từ phía nam tới phía bắc và từ phía tây tới phía đông.<ref name=climate/> Mùa hè có thể khá nóng và ẩm, thậm chí tại [[Siberia]]. Một phần nhỏ của bờ [[Biển Đen]] quanh [[Sochi]] có [[Cận nhiệt đới|khí hậu cận nhiệt đới]].<ref>{{cite journal|author=Drozdov, V. A. ''et al.''|title=Ecological and Geographical Characteristics of the Coastal Zone of the Black Sea|journal=GeoJournal|publisher=Springer Netherlands|location=27.2, pp. 169–178|year=1992|doi=10.1007/BF00717701|volume=27|pages=169}}</ref> Những vùng nội địa là những nơi khô nhất.
[[File:Siberian birch forest.jpg|upright|thumb|180px|left|Một khu rừng [[bulô]] tại [[Siberia]], [[Novosibirsk Oblast]]. [[Bulô]] là loại [[cây quốc gia]] của Nga.]]

===Động thực vật===
{{main|Danh sách các vùng sinh thái tại nga|Danh sách các loại thú có vú của Nga|Danh sách các loại chim của Nga}}
Từ bắc xuống nam [[Đồng bằng Đông châu Âu]], cũng được gọi là [[Đồng bằng Nga]], bị bao phủ trong ''[[lãnh nguyên]]'' Bắc Cực, những cánh rừng tùng bách (''[[taiga]]''), những cánh [[Rừng lá rộng ôn hoà và rừng pha trộn|rừng lá rộng và pha trộn]], đồng cỏ (''[[thảo nguyên]]''), và bán sa mạc (bao quanh [[Biển Caspian]]), bởi những thay đổi trong thực vật phản ánh những thay đổi trong khí hậu. [[Siberia]] cũng có một mô hình tương tự nhưng chủ yếu là [[taiga]]. Nga có [[Danh sách quốc gia theo diện tích rừng|trữ lượng rừng]] lớn nhất thế giới<ref name=loc>{{cite web|last=Library of Congress|title=Topography and Drainage|url=http://countrystudies.us/russia/23.htm|accessdate=2007-12-26}}</ref>, được gọi là ''"lá phổi của châu Âu"'',<ref name=guardianforest>{{cite web|author=Walsh, NP|title =It's Europe's lungs and home to many rare species. But to Russia it's £100bn of wood|publisher =Guardian (UK)|url=http://www.guardian.co.uk/world/2003/sep/19/environment.russia|accessdate=2007-12-26}}</ref> đứng thứ hai chỉ sau [[Rừng mưa Amazon]] về khối lượng hấp thụ [[carbon dioxide]]. Những cánh rừng Nga sản xuất ra một khối lượng lớn [[ôxy]] không chỉ cho châu Âu mà cho toàn thế giới.

Có [[Danh sách các loài có vú của Nga|266 loài có vú]] và [[Danh sách các loài chim của Nga|780 loài chim]] tại Nga. Tổng cộng 415 loài thú đã được đưa vào [[Sách Đỏ Nga]] vào năm 1997<ref>[http://enrin.grida.no/biodiv/biodiv/national/russia/state/00440.htm list of animals of Red Data Book of Russian Federation (1 November 1997)]</ref>, và hiện đang được bảo vệ.


== Kinh tế ==
== Kinh tế ==

Phiên bản lúc 01:50, ngày 17 tháng 11 năm 2009

Thông tin khác
HDI?0,795
cao


Nga (phát âm /ˈrʌʃə/ ( phát); Nga: Россия, chuyển tự. Rossiya, IPA: [rɐˈsʲijə]), tên chính thức là cả Nga và Liên bang Nga[1][2] (Nga: Российская Федерация, chuyển tự. Rossiyskaya Federatsiya, IPA: [rɐˈsʲijskəjə fʲɪdʲɪˈraʦəjə]), là một quốc gia ở phía bắc lục địa Âu Á (châu Âuchâu Á).[3] Nga là một nhà nước cộng hoà bán tổng thống, gồm 83 thực thể liên bang. Nước Nga giáp biên giới với những quốc gia sau (từ tây bắc đến đông nam): Na Uy, Phần Lan, Estonia, Latvia, LitvaBa Lan (cả hai đều qua Kaliningrad Oblast), Belarus, Ukraina, Gruzia, Azerbaijan, Kazakhstan, Trung Quốc, Mông Cổ, và Bắc Triều Tiên. Nước này cũng có biên giới biển với Nhật Bản (qua Biển Okhotsk) và Hoa Kỳ (qua Eo biển Bering). Với diện tích 17,075,400 km2, Nga là nước lớn nhất thế giới, bao phủ hơn một phần chín diện tích lục địa Trái Đất. Nga cũng là nước đông dân thứ chín thế giới với 142 triệu người[4]. Nước này kéo dài toàn bộ phần phía bắc châu Á và 40% châu Âu, bao gồm 11 múi giờ và sở hữu nhiều loại môi trường và địa hình. Nga có trữ lượng khoáng sản và năng lượng lớn nhất thế giới,[5] và được coi là một siêu cường năng lượng.[6] [7] [8] Nước này có trữ lượng rừng lớn nhất thế giới và các hồ của Nga chứa xấp xỉ một phần tư lượng nước ngọt không đóng băng của thế giới.[9]

Lịch sử Nga bắt đầu với lịch sử người Đông Slav, họ nổi lên như một nhóm người có thể được phân biệt ở châu Âu giữa thế kỷ thứ 3 và thế kỷ thứ 8 sau Công Nguyên.[3] Được thành lập và cai quản bởi một tầng lớp chiến binh Viking quý tộc và các hậu duệ của nó, nhà nước Đông Slav đầu tiên, Kievan Rus', xuất hiện ở thế kỷ thứ 9 và đã chấp nhận Thiên chúa giáo Chính thống từ Đế chế Byzantine năm 988,[10] bắt đầu sự tổng hợp các yếu tố văn hoá Byzantine và Slavic để hình thành nên văn hoá Nga trong một nghìn năm sau.[10] Kievan Rus' cuối cùng tan rã và các vùng đất phân chia thành nhiều nhà nước phong kiến nhỏ. Nhà nước kế tục hùng mạnh nhất của Kievan Rus' là Moskva, là lực lượng chính trong quá trình thống nhất nước Nga và cuộc chiến giành độc lập trước Kim Trướng hãn quốc. Moskvà dần thống nhất những công quốc Nga xung quanh và trở thành lực lượng thống trị di sản văn hoá và chính trị của Kievan Rus'. Tới thế kỷ 18, quốc gia này đã mở rộng rất nhiều sau những cuộc chinh phục, sáp nhập, và khai phá để trở thành Đế chế Nga, đế chế lớn thứ ba trong lịch sử, trải dài từ Ba Lanchâu Âu tới AlaskaBắc Mỹ.

Nga đã thiết lập quyền lực và ảnh hưởng khắp thế giới từ thời Đế chế Nga và trở thành nhà nước hợp thành lớn nhất và lãnh đạo bên trong Liên bang Xô viết, nhà nước xã hội chủ nghĩa hợp hiến đầu tiên và được công nhận là một siêu cường[11], đóng vai trò quan trọng[12][13][14] trong thắng lợi của Đồng Minh trong Thế chiến II. Liên bang Nga được thành lập sau sự giải tán Liên xô năm 1991, nhưng nó được công nhận là sự kế tiếp pháp lý của nhà nước Xô viết.[15] Nga có nền kinh tế đứng thứ tám hoặc thứ chín theo GDP danh nghĩa hay đứng thứ sáu theo sức mua tương đương, với ngân sách quân sự danh nghĩa lớn thứ tám hay thứ ba theo PPP. Đây là một trong năm nhà nước sở hữu vũ khí hạt nhân được công nhận và sở hữu kho vũ khí huỷ diệt hàng loạt lớn nhất thế giới.[16] Nga là một thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, một thành viên của G8, G20, APEC, SCOEurAsEC, và là một thành viên lãnh đạo của Cộng đồng các quốc gia độc lập. Nhà nước Nga có một truyền thống lâu dài và giàu có về nhiều lĩnh vực nghệ thuật và khoa học,[3] cũng như một truyền thống mạnh về công nghệ, gồm cả những thành tựu quan trọng như tàu vũ trụ đầu tiên của loài người.

Nước Nga ngày nay

Nga-một phần của Liên Xô

Diện tích tổng cộng khoảng 17.075.400 km², xấp xỉ diện tích của Hoa Kỳ và Trung Quốc cộng lại. Tiếp giáp 14 nước trên đất liền: Na Uy, Phần Lan, Estonia, Latvia, Litva, Ba Lan, Belarus, Ukraina, Gruzia, Azerbaizan, Kazahstan, Trung Quốc, Mông Cổ, Bắc Hàn; trên biển: Nhật Bản, Mỹ, cho phép nó giữ vai trò quan trọng ở châu Âu cũng như ở châu Á.

Dân số xếp hàng thứ tám trên thế giới, sau Trung Quốc, Ấn Độ, Hoa Kỳ, Indonesia, Brasil, PakistanBangladesh.

Trước đây là nước cộng hòa lớn nhất và có ảnh hưởng nhất của Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (viết ngắn là Liên Xô), hiện nay Liên bang Nga là một quốc gia độc lập và là thành viên có ảnh hưởng nhất của Cộng đồng các quốc gia độc lập, kể từ khi Liên Xô tan rã tháng 12 năm 1991. Trong thời kỳ Xô viết, Nga được gọi một cách chính thức là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga. Có thể nói, Nga là quốc gia kế thừa của Liên Xô trong các vấn đề ngoại giao.

Phần lớn đất đai, dân số và sản xuất công nghiệp của Liên Xô, khi đó là một trong hai siêu cường, nằm ở Nga. Ngay sau sự sụp đổ của Liên Xô, vai trò toàn cầu của Nga đã bị suy giảm rất nhiều. Sau đó, Nga có nhiều cố gắng giành lại ảnh hưởng, nhưng nó còn xa mới đạt đến tầm của Liên Xô.

Mối quan hệ ngoại giao giữa Nga và Việt Nam được duy trì và phát triển từ mối quan hệ giữa Liên Xô và Việt Nam (lập quan hệ ngoại giao ngày 3 tháng 1 năm 1950).

Lịch sử

Nga thời kỳ cổ đại

Bản đồ gần đúng về các nền văn hóa của Nga phần châu Âu khi người Varangia đến

Phần lớn diện tích đất đai của nước Nga ngày nay là lãnh thổ của các bộ lạc khác nhau như người Goth, HunAvar gốc Thổ trong khoảng thời gian từ thế kỷ 3 tới thế kỷ 6. Bộ lạc người Scythia gốc Iran sinh sống ở các thảo nguyên miền nam, và bộ lạc người Ca dắc (Khazar) gốc Tuốc (Turk) đã cai trị phần phía tây của vùng đất này cho đến thế kỷ 8. Sau đó họ đã bị bộ lạc gốc Scandinavi là người Varangia thay thế, bộ lạc này đã thiết lập thủ đô tại thành phố của người Slav Novgorod và dần dần hòa trộn với người Slav. Người Slav tạo thành nhóm dân cư chính từ thế kỷ 8 trở đi và đồng hóa một cách chậm chạp cả những người gốc Scandinavi cũng như các bộ lạc bản địa gốc Phần Lan-Ugric, chẳng hạn như người Merya, MuromiaMeshchera.

Chính quyền của người Varangia tồn tại trong vài thế kỷ, trong thời gian đó họ liên kết với Chính thống giáo và chuyển thủ đô về Kiev năm 1169. Trong kỷ nguyên này thuật ngữ "Rhos", hoặc "Russ" lần đầu tiên được sử dụng để chỉ người Varangia và người Slav sinh sống trong khu vực. Từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 11 quốc gia Rus Kiev (Киевская Русь) đã trở thành lớn nhất ở châu Âu và rất thịnh vượng nhờ các hoạt động thương mại tích cực với cả châu Âu và châu Á.

Trong thế kỷ 13 khu vực này trở nên suy yếu vì những tranh chấp nội bộ và bị tàn phá bởi những kẻ xâm lược phương đông là Kim trướng của người Mông Cổ và các bộ lạc Hồi giáo gốc Turk, là những kẻ đã cướp bóc các công quốc Nga trên ba thế kỷ. Còn được biết đến như là người Tatar, họ đã cai trị vùng miền nam và miền trung Nga ngày nay, trong khi các vùng miền tây bị sát nhập vào Đại công quốc LitvaBa Lan. Sự chia rẽ về chính trị của Rus Kiev đã tách người Nga ở phía bắc ra khỏi người Belarusngười Ukrain ở phía tây.

Quân tuần tra Muscovie Nga ở biên giới phía Nam

Phần phía bắc của Nga cùng với Novgorod vẫn giữ được sự tự trị ở một mức độ nhất định trong thời gian cai trị của người Mông Cổ. Tuy thế Nga cũng đã phải chiến đấu chống lại đội quân thập tự chinh của người Đức khi người Đức có ý đồ chiếm khu vực này làm thuộc địa.

Giống như khu vực BalkanTiểu Á sự cai trị kéo dài của những người du mục đã làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước này. Sự chuyên quyền kiểu châu Á đã ảnh hưởng tiêu cực tới thể chế dân chủ của đất nước cũng như tới văn hóa và kinh tế.

Bất chấp điều đó, không giống như lãnh đạo tinh thần của mình là Đế chế Byzantin, Nga đã không suy tàn và tổ chức những cuộc nổi dậy để giành độc lập, cuối cùng đã khuất phục được các kẻ thù của mình và khôi phục, mở mang lãnh thổ. Sau thất thủ của Constantinople năm 1453, Nga là quốc gia Chính thống giáo duy nhất còn thực sự hoạt động nhiều hay ít ở phần biên giới phía đông châu Âu, điều này cho phép Nga có quyền nhận mình là quốc gia kế tục hợp pháp của Đế chế Byzantin.

Đế chế Nga

Quân Nga xâm lược vùng Siberia cuối thế kỷ 16 dưới sự chỉ huy của Yermak
Chiến hạm Nhật đánh chìm Hạm đội Nga ở Port Athur 1904

Trong khi về danh nghĩa vẫn nằm dưới sự cai trị của người Mông Cổ thì công quốc Moskva đã bắt đầu xác nhận ảnh hưởng của mình và cuối cùng đã thoát khỏi sự kiểm soát của những kẻ xâm lăng vào cuối thế kỷ 14. Ivan Hung đế, vị vua đầu tiên xưng tước vị Sa hoàng, đã kết thúc quá trình này và liên kết các khu vực xung quanh dưới ảnh hưởng của Moskva và xâm lược những vùng đất rộng lớn ở Siberi. Đế chế Nga ra đời.

Sự kiểm soát của Moskva đối với quốc gia mới ra đời còn tiếp tục dưới triều đại Romanov kế tiếp, bắt đầu với Sa hoàng Mikhail Romanov năm 1613. Pyotr Đại đế, Sa hoàng từ 1689 tới 1725, đã thành công trong việc đem các tư tưởng và văn hóa từ Tây Âu vào Nga, khi đó còn chịu ảnh hưởng lớn của nền văn hóa du mục nguyên thủy. Ekaterina Đại đế (Екатерина II Алексеевна), cai trị từ năm 1762 đến năm 1796, đã gia tăng cố gắng này, làm cho nước Nga không chỉ là một quyền lực ở châu Á, mà còn muốn ngang hàng với Anh, Pháp, Đế quốc ÁoPhổ ở châu Âu. Tuy nhiên, sự náo loạn của nông nô bị áp bức và sự cấm đoán tầng lớp trí thức đang phát triển và các giai cấp gần gũi với giai cấp này, cộng thêm gánh nặng thất bại (trận Hải chiến Tsushima) trước người Nhật trong chiến tranh Nga-Nhật năm 1905 đã dẫn đến cuộc Cách mạng 1905. Trước Thế chiến thứ nhất, vai trò của Sa hoàng Nikolai II (Николай Александрович Романов) và triều đại của ông là không vững chắc. Những thất bại nặng nề của quân đội Nga trong Thế chiến thứ nhất đã dẫn đến sự nổi dậy rộng khắp trong các thành phố chính của Đế chế Nga và dẫn tới sự sụp đổ của nhà Romanov năm 1917, đó là Cách mạng tháng Hai.

Vào giai đoạn cuối của Cách mạng tháng Mười (1917), những người theo đường lối bôn-sê-vích của Đảng Cộng sản dưới sự lãnh đạo của Vladimir Ilyich Lenin đã chiếm được quyền lực và thành lập Liên Xô. Sự lãnh đạo độc đoán của Iosif Vissarionovich Stalin đã thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa một đất nước chủ yếu là nông nghiệp và tập thể hóa nền nông nghiệp đó với cái giá phải trả là hàng chục triệu sinh mạng. Stalin cũng tăng cường địa vị thống trị của Nga trong phạm vi Liên Xô.

Nga như một phần của Liên Xô

Nga thời kỳ hậu Xô viết

Thiết giáp BTR-80 của Quân đội Nga năm 1996

Vào giai đoạn giữa và cuối thập niên 1980, tổng bí thư Mikhail Sergeyevich Gorbachov đề ra glasnost (гласность tức "công khai hóa, mở cửa") và perestroika (Перестройка tức "cải tổ") trong cố gắng để hiện đại hóa chủ nghĩa cộng sản. Những sáng kiến của ông đã vô tình giải phóng các lực lượng mà vào tháng 12 năm 1991 đã chia tách Liên Xô thành 15 nước cộng hòa độc lập trong đó Nga là lớn nhất. Kể từ đó, Nga đã cố gắng để xây dựng một hệ thống chính trị dân chủ và kinh tế thị trường nhằm thay thế cho các sự kiểm soát chặt chẽ về xã hội, chính trị, kinh tế trong thời kỳ cộng sản. Kể từ khi Chechnya tuyên bố độc lập vào đầu những năm thập niên 1990, những cuộc chiến tranh du kích (Chiến tranh Chechnya lần 1, Chiến tranh Chechnya lần 2) đã diễn ra giữa các nhóm người Chechen khác nhau với quân đội Nga. Một số các nhóm này đã trở thành những kẻ Hồi giáo cực đoan theo tiến trình của cuộc chiến. Ước tính có trên 200.000 người đã chết trong các cuộc xung đột này. Các cuộc xung đột nhỏ hơn diễn ra ở Bắc OssetiaIngushetia.

Sau thời gian làm tổng thống của Boris Nikolayevich Yeltsin trong những năm thập niên 1990, Vladimir Vladimirovich Putin đã được bầu làm tổng thống năm 1999. Dưới thời kỳ Putin, sự kiểm duyệt của nhà nước đối với các phương tiện thông tin đại chúng ở Nga đã làm tăng sự lo ngại của phương Tây về quyền con người ở Nga.

Với sự mất đi ảnh hưởng của Nga tại Gruzia (Cách mạng hồng), Ukraina (Cách mạng da cam) và một số quốc gia cựu Xô viết cũ, cũng như các vấn đề hiện nay về kinh tế và chủ nghĩa ly khai (nổi cộm nhất là ở Chechnya), một số bình luận viên cho rằng có nguy cơ tăng cao của việc tan rã nước Nga.

Sau cuộc chiến chớp nhoáng (07 - 12/08/2008) nhằm trả đũa việc quân đội Greogia tấn công những người Nga và lực lượng gìn giữ hòa bình của Nga ở Nam Ossetia. Việc Nga công nhận độc lập và chủ quyền của 2 vùng tự trị Abkhazia và Nam Ossetia (26/08/2008) cho thấy tham vọng của Nga trong việc lấy lại vị thế và tiếng nói trong khu vực SNG và cao hơn nữa có thể là việc trở lại vị thế của Liên Bang Xô viết trong một hoàn cảnh hoàn toàn mới.

Chính trị

Liên bang Nga là một nước cộng hòa liên bang với tổng thống được bầu trực tiếp cho nhiệm kỳ 4 năm, là người nắm quyền hành pháp. Tổng thổng sống và làm việc tại điện Kremli, chỉ định các chức vụ chính quyền cao nhất, bao gồm thủ tướng, là người được Đuma quốc gia (Hạ nghị viện của Quốc hội Nga) thông qua. Tổng thống có thể thông qua các sắc lệnh mà không cần sự thỏa thuận của Quốc hội và là người đứng đầu của Hội đồng quân sự Nga và của Hội đồng an ninh quốc gia Nga.

Quốc hội Nga (Федеральное Собрание - Federalnoye Sobraniye) là quốc hội lưỡng viện bao gồm thượng nghị viện là Hội đồng Liên bang (Совет Федерации - Sovet Federatsii) với 178 thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 4 năm (hai đại biểu từ mỗi một trong số 89 thể chế hành chính cấp liên bang), và hạ nghị viện là Đuma quốc gia (Государственная Дума - Gosudarstvennaya Duma) với 450 hạ nghị sĩ cũng có nhiệm kỳ 4 năm, trong đó 225 được bầu bằng bỏ phiếu trực tiếp từ các cử tri của các khu vực bầu cử và 225 được bầu theo đại diện tỷ lệ từ danh sách các đảng phái phổ biến nhất.

Hiện tại, sự thay đổi lập pháp về vấn đề này đang được tranh cãi. Nếu được thông qua, tất cả 450 thành viên của Đuma sẽ được bầu từ danh sách các đảng. Cuộc bầu cử lần tới sẽ diễn ra vào mùa đông năm 2007/2008.

Chính phủ Nga do thủ tướng đứng đầu gồm 7 phó thủ tướng và 17 quan chức cấp bộ trưởng hoặc tương đương. Danh sách các thành viên chính phủ sẽ do thủ tướng giới thiệu và được tổng thống thông qua.

Phân chia hành chính

Các đơn vị hành chính của Liên bang Nga

Xem thêm:

Liên bang Nga là sự hợp thành của một lượng lớn các chủ thể hành chính cấp liên bang, tổng cộng là 83 đơn vị hợp thành (chủ thể) như vậy. Tại Nga có 21 nước cộng hòa trong phạm vi liên bang có mức độ tự trị cao trong phần lớn các vấn đề và chúng gần như tương ứng với khu vực sinh sống của các bộ tộc người thiểu số ở Nga. Phần còn lại của lãnh thổ bao gồm 48 tỉnh (oblast) và 7 vùng (krai), 1 tỉnh tự trị (avtonomnaya oblast) và 9 khu tự trị (avtonomnyi okrug). Ngoài các đơn vị hành chính này còn 2 thành phố trực thuộc trung ương (MoskvaSankt-Peterburg). Gần đây nhất, 7 vùng liên bang lớn về diện tích (4 vùng ở châu Âu và 3 vùng ở châu Á) đã được bổ sung như một thể chế hành chính giữa các thể chế hành chính nói trên và cấp độ quốc gia.

Địa lý

Bản đồ Liên bang Nga

Liên bang Nga trải dài trên phần phía bắc của siêu lục địa Á-Âu. Tuy rằng Nga chiếm phần lớn khu vực Bắc cực và cận Bắc cực nhưng có ít hơn về dân số, hoạt động kinh tế cũng như các sự đa dạng vật lý trên một đơn vị diện tích so với phần lớn các khu vực khác, phần lớn diện tích ở phía nam của khu vực này có phong cảnh và khí hậu đa dạng hơn. Phần lớn đất đai Nga là các đồng bằng rộng lớn, ở cả châu Âu và châu Á, được biết đến như là Siberi. Các đồng bằng này chủ yếu là thảo nguyên về phía nam và rừng rậm về phía bắc, với các tundra (lãnh nguyên) dọc theo bờ biển phía bắc. Các dãy núi chủ yếu nằm ở biên giới phía nam, chẳng hạn như Caucasus (ở đây có đỉnh Elbrus, là điểm cao nhất thuộc Nga và châu Âu với cao độ 5.633 m) và dãy núi Altai, cũng như ở phần phía đông, chẳng hạn như dãy Verkhoyansk hoặc các núi lửa trên Kamchatka. Dãy Ural, là một dãy núi chạy theo hướg bắc-nam, tạo ra sự phân chia cơ bản giữa châu Âu và châu Á cũng là một dãy núi nổi tiếng.

Nga có đường bờ biển dài trên 37.000 km dọc theo Bắc Băng DươngThái Bình Dương, cũng như dọc theo các biển mang tính trong nội địa ít hay nhiều như biển Baltic, biển Đenbiển Caspi. Một số các biển nhỏ hơn là các phần của các đại dương như biển Barents, Bạch Hải, biển Kara, biển Laptevbiển Đông Siberi là các phần của Bắc Băng Dương, trong khi các biển như biển Bering, biển Okhotskbiển Nhật Bản thuộc về Thái Bình Dương. Các đảo chính bao gồm Novaya Zemlya, mũi Franz-Josef, quần đảo Tân Siberi, đảo Wrangel, quần đảo KurilSakhalin. (Xem Danh sách các đảo của Nga).

Nhiều con sông chảy qua nước Nga. Xem thêm các sông thuộc Nga.

Các hồ chính bao gồm hồ Baikal, hồ Ladoga, biển hồ Caspihồ Onega. Xem Danh sách các hồ ở Nga.

Biên giới

Quân Thổ tịch thu quân trang từ các xác chết lính Nga trong cuộc chiến tranh biên giới Nga-Thổ năm 1877-1878

Cách thức thực tế phổ biến nhất để miêu tả nước Nga là miêu tả phần chính (phần tiếp giáp lớn với các quần đảo hay đảo ngoài biển của nó) và phần tách rời (khu vực Kaliningrad ở phía đông nam của biển Baltic).

Biên giới của phần chính và các bờ biển (bắt đầu từ phần xa nhất về phía tây bắc và tính ngược chiều kim đồng hồ) là:

Phần tách rời là tỉnh Kaliningrad, tỉnh này có

  • chung biên giới với
    • Ba Lan ở phía nam tỉnh này và
    • Litva về phía bắc và đông tỉnh này, và
  • bờ biển phía tây bắc nhìn ra biển Ban tích.

Các bờ biển thuộc các biển Balticbiển Đen của Nga có đường giao lưu ra đại dương ít trực tiếp và rắm rối hơn so với các bờ biển thuộc Thái Bình Dương và Bắc Băng Dương, nhưng cả hai đều có vai trò quan trọng. Biển Ban tích cho phép Nga có giao thương đường biển nhanh chóng với 9 quốc gia có chung bờ biển này cũng như giữa phần lục địa chính của Nga với tỉnh Kaliningrad. Thông qua eo biển nằm trong Đan Mạch, và giữa nó với Thụy Điển thì biển Ban tích thông ra biển BắcĐại Tây Dương về phía tây và bắc của nó. Biển Đen cho phép Nga có giao thương đường biển nhanh chóng với 5 quốc gia khác có chung bờ biển, thông qua các eo biển DardanellesMarmora liền kề với Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ để nối vào Địa Trung Hải với nhiều quốc gia có bờ biển ở đó và thông qua kênh đào Suez để sang Ấn Độ Dươngeo biển Gibraltar để sang Đại Tây Dương. Biển Caspi, hồ nước mặn lớn nhất thế giới, không có đường giao thông với biển cả.

Phạm vi không gian

Hai điểm xa nhau nhất tại Nga cách nhau khoảng 8.000 km trên đường trắc địa (geodesic). Một trong hai điểm này nằm trên biên giới với Ba Lan, trên một khoảng đất dài 60 km chia vịnh Gdansk với phá Vistula. Còn điểm kia nằm tại cực đông-nam của quần đảo Kuril, chỉ vài dặm cạnh đảo Hokkaido của Nhật.

Để diễn tả sự to lớn này, người ta thường nói là Nga bao trùm 11 múi giờ. Tuy nhiên, sự diễn tả này có thể gây nhầm lẫn vì hai điểm xa nhau nhất nếu tính theo kinh tuyến chỉ cách nhau 6.600 km trên đường trắc địa. Một trong hai điểm này nằm trên biên giới với Ba Lan (nói bên trên); còn điểm kia nằm trên quần đảo Diomede (đảo Ratmanova).

Xem thêm: Danh sách các thành phố Nga

Khí hậu

Khí hậu Liên bang Nga được hình thành dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố xác định. Diện tích to lớn của đất nước và sự xa tách khỏi biển của nhiều vùng dẫn tới một kiểu khí hậu lục địa ẩmlcận Bắc Cực, là kiểu khí hậu phổ biến ở châu Âu và vùng châu Á của Nga ngoại trừ lãnh nguyên và vùng cực đông nam.[17] Các dãy núi ở phía nam ngăn chặn các khối không khí ấm từ Ấn Độ Dương, trong khi đồng bằng phía tây và phía bắc khiến nước này mở rộng với những ảnh hưởng từ Bắc CựcĐại Tây Dương.[18]

Trên hầu khắp lãnh thổ chỉ có hai mùa riêng biệt — mùa đông và mùa hè, mùa xuân và mùa thu thường chỉ là những giai đoạn thay đổi ngắn giữa thời tiết cực thấp và cực cao.[18] Tháng lạnh nhất là tháng 1 (tháng 2 trên bờ biển), tháng ấm nhất thường vào tháng 7. Sự chênh lệch nhiệt độ lớn là điều thông thường. Vào mùa đông, nhiệt độ lạnh đi cả từ phía nam tới phía bắc và từ phía tây tới phía đông.[17] Mùa hè có thể khá nóng và ẩm, thậm chí tại Siberia. Một phần nhỏ của bờ Biển Đen quanh Sochikhí hậu cận nhiệt đới.[19] Những vùng nội địa là những nơi khô nhất.

Tập tin:Siberian birch forest.jpg
Một khu rừng bulô tại Siberia, Novosibirsk Oblast. Bulô là loại cây quốc gia của Nga.

Động thực vật

Từ bắc xuống nam Đồng bằng Đông châu Âu, cũng được gọi là Đồng bằng Nga, bị bao phủ trong lãnh nguyên Bắc Cực, những cánh rừng tùng bách (taiga), những cánh rừng lá rộng và pha trộn, đồng cỏ (thảo nguyên), và bán sa mạc (bao quanh Biển Caspian), bởi những thay đổi trong thực vật phản ánh những thay đổi trong khí hậu. Siberia cũng có một mô hình tương tự nhưng chủ yếu là taiga. Nga có trữ lượng rừng lớn nhất thế giới[9], được gọi là "lá phổi của châu Âu",[20] đứng thứ hai chỉ sau Rừng mưa Amazon về khối lượng hấp thụ carbon dioxide. Những cánh rừng Nga sản xuất ra một khối lượng lớn ôxy không chỉ cho châu Âu mà cho toàn thế giới.

266 loài có vú780 loài chim tại Nga. Tổng cộng 415 loài thú đã được đưa vào Sách Đỏ Nga vào năm 1997[21], và hiện đang được bảo vệ.

Kinh tế

Hơn một thập kỷ sau sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991, Nga vẫn còn đang cố gắng để thiết lập một nền kinh tế thị trường và để thu được sự phát triển kinh tế bền vững. Trong 5 năm đầu nền kinh tế Nga đã phát triển không ổn định do các cơ quan hành pháplập pháp còn nhiều bất đồng trong việc hoàn thiện công cuộc cải cách và các nền tảng công nghiệp của Nga chịu sự suy thoái nặng nề. Ngoài ra, sự thiếu hụt thực phẩm năm 1987, mà hậu quả của nó là đã phải cần đến sự trợ giúp quốc tế trên bình diện rộng, đã làm tổn thương nghiêm trọng lòng tự hào cũng như nền kinh tế nói chung của nước Nga mới ra đời.

Tuy thế, mặc dù không hiệu quả trong điều kiện kinh tế thị trường và khẩu vị của người tiêu dùng nhưng nền kinh tế cựu Xô viết nói chung đã được chấp nhận là đã tạo cho người dân Nga nói chung có mức sống tiêu chuẩn kể từ sau những năm giữa thập niên 1950 cao hơn so với công dân của của nhiều quốc gia đã phát triển theo định hướng tư bản và kinh tế thị trường như Mexico, Brasil, Ấn ĐộArgentina.

Nạn mù chữ trên thực tế là không tồn tại, giáo dục cao học là rất tốt và thích hợp, nạn thất nghiệp trên thực tế không tồn tại, và trong các quan hệ giới tính thì Nga đã thuộc về trong nhóm các quốc gia có sự công bằng nhất trên thế giới với phụ nữ, đôi khi họ còn tiến xa hơn nam giới trong con đường công danh sự nghiệp, đặc biệt là trong khoa học. Nhiều gia đình có ô tô, ti vi, máy ghi âm, và có thể đi du lịch bằng máy bay ít nhất một lần trong năm tới những nhà nghỉ ven biển nổi tiếng.

Tuy thế, các chủng loại hàng tiêu dùng (cụ thể là quần áo và lương thực, thực phẩm) là tương đối đơn giản, và sự thiếu hụt của hàng tiêu dùng trong gia đình đã bị kêu ca nhiều ở các khu vực thành thị, mặc dù các khu nhà ổ chuột với điều kiện vệ sinh tồi tàn là hiếm.

Sau sự tan rã của Liên Xô, sự phục hồi nhỏ của Nga dưới ảnh hưởng của kinh tế thị trường lần đầu tiên diễn ra vào khoảng năm 1997. Trong năm đó, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã lên đến điểm đỉnh trong việc phá giá của đồng rúp vào tháng 8 năm 1998, làm cho chính phủ bị vỡ nợ và làm suy giảm trầm trọng mức sống tiêu chuẩn của phần lớn dân chúng. Vì thế, năm 1998 cũng đã được ghi nhận như là năm của suy thoái và sự tăng cường rút vốn ra khỏi nền kinh tế.

Tuy nhiên, nền kinh tế Nga đã phục hồi vừa phải trong năm 1999. Kinh tế Nga đã đi vào trong giai đoạn phát triển nhanh, GDP tăng trưởng trung bình 6,8% trên năm trong giai đoạn 1999-2004 trên cơ sở của giá dầu mỏ cao, đồng rúp yếu, và tăng trưởng của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Nhưng sự phát triển kinh tế này là cực kỳ không đều: khu vực thủ đô Moskva cung cấp tới 30% GDP của toàn quốc.

Sự phục hồi kinh tế này cùng với cố gắng cải tổ của chính quyền trong các năm 2000-2001 để thúc đẩy cải cách về cấu trúc đang bị thụt lùi, đã làm tăng sự tin cậy của các nhà kinh doanh và đầu tư về triển vọng của nền kinh tế Nga trong thập niên thứ hai của thời kỳ chuyển đổi. Nga vẫn dựa chủ yếu vào xuất khẩu hàng hóa, cụ thể là dầu mỏ, khí đốt, kim loại và gỗ, các mặt hàng này chiếm trên 80% kim ngạch xuất khẩu, điều này làm cho Nga dễ bị thương tổn vì các biến động giá cả trên thị trường quốc tế. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Nga đã nhắm nhiều hơn vào nhu cầu về các mặt hàng tiêu dùng trong nước, là lĩnh vực có mức tăng trưởng trên 12% mỗi năm trong giai đoạn 2000-2004, chỉ ra sự lớn mạnh dần lên của thị trường nội địa.

Năm 2004, GDP của Nga đạt 1.200 tỷ € (1.500 tỷ USD), làm cho Nga trở thành nền kinh tế lớn thứ 11 trên thế giới và thứ 5 ở châu Âu. Nếu mức tăng trưởng hiện tại là ổn định, dự kiến Nga sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ hai ở châu Âu sau Đức (1.900 tỷ € hay 2.300 tỷ USD) và là thứ 8 trên thế giới trong vài năm tới.

Thách thức lớn nhất đối với Nga là các biện pháp để thúc đẩy sự phát triển của các xí nghiệp nhỏ và vừa (SME) trong điều kiện môi trường kinh doanh với hệ thống ngân hàng trẻ và khác thường, được nắm giữ bởi các ông trùm Nga (oligarch). Nhiều ngân hàng Nga là sở hữu của các nhà doanh nghiệp hay các ông trùm, là những người thông thường sử dụng các khoản tiền gửi ở ngân hàng để cho các doanh nghiệp của chính mình vay mượn.

Ngân hàng tái thiết và phát triển châu Âu (EBRD) và Ngân hàng thế giới (WB) đã có những cố gắng để kích hoạt khởi động các hoạt động ngân hàng thông thường bằng cách cấp vốn và mua lại các khoản nợ trong một số ngân hàng nhưng thành tựu thu được là rất không đáng kể.

Các vấn đề khác bao gồm sự phát triển mất cân bằng giữa các khu vực của Nga. Trong khi khu vực thủ đô Moskva là hối hả, có cuộc sống thịnh vượng với thu nhập trên đầu người nhanh chóng đạt tới mức của các nền kinh tế hàng đầu châu Âu thì phần lớn các khu vực còn lại, đặc biệt là ở các vùng nông thôn và khu vực của người thiểu số ở châu Á, đã bị tụt lại đằng sau rất nhiều. Sự phân hóa thời kinh tế thị trường cũng cảm nhận được ở các thành phố lớn khác như Sankt-Peterburg, KaliningradEkaterinburg.

Thúc đẩy đầu tư nước ngoài cũng là một thách thức lớn. Ngoài ra, Nga cũng được hưởng lợi từ việc tăng giá dầu mỏ và vì thế có khả năng thanh toán các khoản nợ khổng lồ cũ. Sự phân bổ công bằng các thu nhập từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên này từ công nghiệp cho các lĩnh vực khác cũng là một vấn đề. Việc định hướng cho người tiêu dùng và thúc đẩy chi tiêu vào hàng tiêu dùng là một việc khá khó khăn đối với nhiều khu vực ở các tỉnh, khi mà ở các khu vực này nhu cầu tiêu dùng rất đơn giản, mặc dù đã có nhiều tiến bộ đáng khen ngợi đã được thực hiện ở các thành phố lớn, đặc biệt là trong các lĩnh vực như may mặc, lương thực, thực phẩm, công nghiệp giải trí.

Việc bắt giữ nhà kinh doanh giàu có nhất Nga khi đó là Mikhail Khodorkovsky với các tội quy kết là gian lận và tham nhũng trong quá trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn dưới thời tổng thống Boris Yeltsin đã làm cho nhiều nhà đầu tư nước ngoài e ngại về tính ổn định của nền kinh tế Nga. Phần lớn những người giàu có nhất ở Nga hiện nay là nhờ việc mua bán các doanh nghiệp nhà nước khi đó với giá rẻ như bèo. Các quốc gia khác cũng bày tỏ sự e ngại và lo lắng với việc áp dụng "có lựa chọn" của luật pháp đối với các doanh nghiệp tư nhân.

Tuy nhiên, một số tập đoàn quốc tế đã đầu tư rất lớn vào Nga. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Nga có khoảng 26 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp tích lũy của người nước ngoài trong giai đoạn 2001-2004 (trong đó 11,7 tỷ USD diễn ra trong năm 2004).

Dân cư

Nga có mật độ dân số trung bình thấp vì diện tích lớn của mình; dân cư tập trung đông nhất ở phần châu Âu của Nga, trong khu vực dãy Ural và ở phần đông nam của Siberi. Liên bang Nga là quê hương của 160 dân tộc. Theo điều tra dân số năm 2002 thì 79,8% dân số là người Nga, 3,8% là người Tatar, 2% là người Ukrain, 1,2% là người Bashkir, 1,1% người Chuvash, 0,9% người Chechen, 0,8% người Armenia và 10,3% còn lại bao gồm những người không rõ sắc tộc cũng như Avar, người Azerbaijan, người Belarus, người Hoa, người Evenk, người Grudia, thiểu số người Đức, người Ingus, người Inuit, người Kalmyks, người Karelian, người Kazakh, người Triều Tiên, người Mari, người Mordvin, người Nenet, người Ossetia, người Ba Lan, người Tuvan, người Udmurt, người Yakut v.v.

Tiếng Nga là ngôn ngữ chính thức duy nhất, nhưng các nước cộng hòa riêng rẽ thông thường có ngôn ngữ chính thức thứ hai, cùng với tiếng Nga, là ngôn ngữ bản địa. Chữ cái Kirin (Cyrillic alphabet) là chữ viết chính thức duy nhất, điều đó có nghĩa là các ngôn ngữ khác phải được viết bằng chữ cái này trong các văn bản chính thức.

Văn hóa

Tôn giáo

Tôn giáo chủ yếu ở Nga là Chính thống giáo Nga, các tôn giáo khác có Phật Giáo Mật Tông, Hồi giáo, các dạng tín ngưỡng khác nhau của Tin Lành, đạo Do Thái, Thiên Chúa Giáo.

Tương lai

Nga và Belarus đang đàm phán để thống nhất thành một nhà nước liên bang Nga-Belarus, việc đàm phán đã được bắt đầu vào năm 1997 và vẫn tiếp tục cho đến bây giờ.[22]

Xem thêm

Tham chiếu

  • The New Columbia Encyclopedia, Col.Univ.Press, 1975

Ghi chú

  1. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 1). Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009.
  2. ^ “The CIA World Fact Book, "Russia". Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009.
  3. ^ a b c “Russia”. Encyclopedia Britannica. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2008.
  4. ^ “The Russian federation: general characteristics”. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2008. Đã bỏ qua văn bản “Federal State Statistics Service” (trợ giúp)
  5. ^ Microsoft Encarta Online Encyclopedia 2007. "Russia". Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2007.
  6. ^ First Post; Beware Russia Energy Superpower, October 12, 2006
  7. ^ CNN, “Russia; A superpower rises again” by Simon Hooper December 2006[1]
  8. ^ CNN; “Eye on Russia: Russia's resurgence” by Matthew Chance June 2007[2]
  9. ^ a b Library of Congress. “Topography and Drainage”. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2007.
  10. ^ a b excerpted from Glenn E. Curtis (ed.) (1998). “Russia: A Country Study: Kievan Rus' and Mongol Periods”. Washington, DC: Federal Research Division of the Library of Congress. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2007.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
  11. ^ Superpower politics: change in the United States and the Soviet Union http://books.google.com/books?id=XXcVAAAAIAAJ&pg=PA4
  12. ^ Weinberg, G.L. (1995). A World at Arms: A Global History of World War II. Cambridge University Press. tr. 264. ISBN 0521558794.
  13. ^ Osbourne, Andrew, World leaders gather as Russia remembers. The Age
  14. ^ Rozhnov, Konstantin, Who won World War II?. BBC. Russian historian Valentin Falin
  15. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên uk
  16. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên fas
  17. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên climate
  18. ^ a b “Climate”. Library Of Congress. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2007.
  19. ^ Drozdov, V. A.; và đồng nghiệp (1992). “Ecological and Geographical Characteristics of the Coastal Zone of the Black Sea”. GeoJournal. 27.2, pp. 169–178: Springer Netherlands. 27: 169. doi:10.1007/BF00717701. “Và đồng nghiệp” được ghi trong: |author= (trợ giúp)Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  20. ^ Walsh, NP. “It's Europe's lungs and home to many rare species. But to Russia it's £100bn of wood”. Guardian (UK). Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2007.
  21. ^ list of animals of Red Data Book of Russian Federation (1 November 1997)
  22. ^ vnexpress

Liên kết ngoài

Các nguồn của chính quyền

Thông tin chung