Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quân lực Việt Nam Cộng hòa”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã khóa “Quân lực Việt Nam Cộng hòa”: Bị phá hoại quá mức ([Sửa đổi=Chỉ cho phép các thành viên tự động xác nhận] (vô thời hạn) [Di chuyển=Chỉ cho phép các thành viên tự động xác nhận] (vô thời hạn))
Đã cứu 2 nguồn và đánh dấu 0 nguồn là hỏng.) #IABot (v2.0.8
Dòng 212: Dòng 212:
===Nạn tham nhũng===
===Nạn tham nhũng===
[[Hình: ARVN, Battle of An Loc 1972.jpg|nhỏ|trái|319x319px|Binh sĩ Việt Nam Cộng hòa đang cố bám vào càng một chiếc trực thăng UH-1 để di tản trong [[trận An Lộc]]]]
[[Hình: ARVN, Battle of An Loc 1972.jpg|nhỏ|trái|319x319px|Binh sĩ Việt Nam Cộng hòa đang cố bám vào càng một chiếc trực thăng UH-1 để di tản trong [[trận An Lộc]]]]
Nạn tham nhũng làm hao mòn trang bị và sức chiến đấu của quân đội: như cả nửa triệu tấn gạo biến mất khỏi các kho lương thực trong năm 1967. Súng cũng được tuồn ra bán với giá 25-30 đôla một khẩu. Nếu ai muốn mua một xe bọc thép hoặc một máy bay lên thẳng thì việc đó cũng có thể dàn xếp được. Hồi ký [[Nguyễn Cao Kỳ]] nêu trường hợp Tư lệnh đồng bằng sông Cửu Long đã lấy cắp 8.000 đài vô tuyến và 24.000 vũ khí cá nhân do Hoa Kỳ trang bị và sớm tiêu thụ hết sạch sành sanh, tài liệu mật từ Tòa đại sứ Mỹ cho biết phần lớn số đó đã lọt vào tay quân Giải phóng<ref>{{Chú thích web | url = http://motthegioi.vn/xa-hoi/hoi-ky-cua-cac-tuong-ta-sai-gon/ky-22-tai-sao-tt-marcos-khuyen-nguyen-cao-ky-de-san-va-li-dau-giuong-ngu-va-cau-chuyen-ve-que-tuong-cong-130107.html | tiêu đề = Kỳ 22 - Tại sao TT Marcos khuyên Nguyễn Cao Kỳ "để sẵn va-li đầu giường ngủ" và câu chuyện về "Quế tướng công"? | tác giả = | ngày = | ngày truy cập = 4 tháng 10 năm 2015 | nơi xuất bản = Một Thế giới | ngôn ngữ = }}</ref>
Nạn tham nhũng làm hao mòn trang bị và sức chiến đấu của quân đội: như cả nửa triệu tấn gạo biến mất khỏi các kho lương thực trong năm 1967. Súng cũng được tuồn ra bán với giá 25-30 đôla một khẩu. Nếu ai muốn mua một xe bọc thép hoặc một máy bay lên thẳng thì việc đó cũng có thể dàn xếp được. Hồi ký [[Nguyễn Cao Kỳ]] nêu trường hợp Tư lệnh đồng bằng sông Cửu Long đã lấy cắp 8.000 đài vô tuyến và 24.000 vũ khí cá nhân do Hoa Kỳ trang bị và sớm tiêu thụ hết sạch sành sanh, tài liệu mật từ Tòa đại sứ Mỹ cho biết phần lớn số đó đã lọt vào tay quân Giải phóng<ref>{{Chú thích web | url = http://motthegioi.vn/xa-hoi/hoi-ky-cua-cac-tuong-ta-sai-gon/ky-22-tai-sao-tt-marcos-khuyen-nguyen-cao-ky-de-san-va-li-dau-giuong-ngu-va-cau-chuyen-ve-que-tuong-cong-130107.html | tiêu đề = Kỳ 22 - Tại sao TT Marcos khuyên Nguyễn Cao Kỳ "để sẵn va-li đầu giường ngủ" và câu chuyện về "Quế tướng công"? | tác giả = | ngày = | ngày truy cập = 4 tháng 10 năm 2015 | nơi xuất bản = Một Thế giới | ngôn ngữ = | archive-date = 2016-03-07 | archive-url = https://web.archive.org/web/20160307090626/http://motthegioi.vn/xa-hoi/hoi-ky-cua-cac-tuong-ta-sai-gon/ky-22-tai-sao-tt-marcos-khuyen-nguyen-cao-ky-de-san-va-li-dau-giuong-ngu-va-cau-chuyen-ve-que-tuong-cong-130107.html | url-status = dead }}</ref>


Nhà sử học Vũ Ngự Chiêu nhận xét: cả guồng máy chống cộng của Việt Nam Cộng hòa giống một thứ siêu thị, người ta mua bán bất cứ thứ gì có thể sinh lợi, từ chức tước tới tấm giấy miễn quân dịch. Từ hồ sơ mật an ninh quốc phòng tới đạn dược, thuốc men, vật tư chiến tranh, từ góc phố tới nha sở, dinh thự. Mạng lưới tham nhũng khi đó rất tinh vi, và hễ có tiền là mua được tất cả, kể cả vũ khí. Thực tế, ngay đến Tư lệnh Quân khu, Sư đoàn, Tiểu khu trưởng... cũng đứng ra bảo trợ cho việc buôn lậu. Được dư luận biết đến nhiều nhất có vụ ''"lính ma, lính kiểng"'' của [[Nguyễn Vĩnh Nghi]], Tư lệnh Quân đoàn IV, hay đoàn xe buôn lậu có Quân cảnh hộ tống do các mệnh phụ phu nhân của các tướng lĩnh – thường được gọi là “Mặt Trời Cái” – bảo trợ. Đó là chưa kể đường dây buôn lậu nha phiến, ngoại tệ và phế liệu chiến tranh do các tướng lĩnh Thiệu, Khiêm và Kỳ đứng đầu<ref name="ReferenceA"/>.
Nhà sử học Vũ Ngự Chiêu nhận xét: cả guồng máy chống cộng của Việt Nam Cộng hòa giống một thứ siêu thị, người ta mua bán bất cứ thứ gì có thể sinh lợi, từ chức tước tới tấm giấy miễn quân dịch. Từ hồ sơ mật an ninh quốc phòng tới đạn dược, thuốc men, vật tư chiến tranh, từ góc phố tới nha sở, dinh thự. Mạng lưới tham nhũng khi đó rất tinh vi, và hễ có tiền là mua được tất cả, kể cả vũ khí. Thực tế, ngay đến Tư lệnh Quân khu, Sư đoàn, Tiểu khu trưởng... cũng đứng ra bảo trợ cho việc buôn lậu. Được dư luận biết đến nhiều nhất có vụ ''"lính ma, lính kiểng"'' của [[Nguyễn Vĩnh Nghi]], Tư lệnh Quân đoàn IV, hay đoàn xe buôn lậu có Quân cảnh hộ tống do các mệnh phụ phu nhân của các tướng lĩnh – thường được gọi là “Mặt Trời Cái” – bảo trợ. Đó là chưa kể đường dây buôn lậu nha phiến, ngoại tệ và phế liệu chiến tranh do các tướng lĩnh Thiệu, Khiêm và Kỳ đứng đầu<ref name="ReferenceA"/>.
Dòng 310: Dòng 310:
*{{fr}} [http://www.aet-dalat.net/ Dalat veterans association website 1] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20151118205253/http://aet-dalat.net/ |date = ngày 18 tháng 11 năm 2015}} / [http://aet.d.club.fr/index2.htm 2] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20071226034506/http://aet.d.club.fr/index2.htm |date = ngày 26 tháng 12 năm 2007}}
*{{fr}} [http://www.aet-dalat.net/ Dalat veterans association website 1] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20151118205253/http://aet-dalat.net/ |date = ngày 18 tháng 11 năm 2015}} / [http://aet.d.club.fr/index2.htm 2] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20071226034506/http://aet.d.club.fr/index2.htm |date = ngày 26 tháng 12 năm 2007}}
*{{fr}} [http://www.aet-association.org/ecoles/indochine/dalat/ Dalat our school]
*{{fr}} [http://www.aet-association.org/ecoles/indochine/dalat/ Dalat our school]
*{{fr}} [http://perso.orange.fr/X1000/AET/DIVERS5.html Dalat archives gallery 1] / [http://aet.d.club.fr/Photos_promo_Placide.htm 2] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20080519042124/http://aet.d.club.fr/Photos_promo_Placide.htm |date = ngày 19 tháng 5 năm 2008}}
*{{fr}} [http://perso.orange.fr/X1000/AET/DIVERS5.html Dalat archives gallery 1] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20071018095826/http://perso.orange.fr/X1000/AET/DIVERS5.html |date=2007-10-18 }} / [http://aet.d.club.fr/Photos_promo_Placide.htm 2] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20080519042124/http://aet.d.club.fr/Photos_promo_Placide.htm |date = ngày 19 tháng 5 năm 2008}}
*{{fr}} [http://www.anai-asso.org/NET/document/le_temps_de_la_guerre/la_guerre_dindochine/larmee_nationale_vietnamienne_/index.htm The Vietnamese National Army] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20160303220528/http://www.anai-asso.org/NET/document/le_temps_de_la_guerre/la_guerre_dindochine/larmee_nationale_vietnamienne_/index.htm |date = ngày 3 tháng 3 năm 2016}}, thesis by Nguyen Van Phai (1980)
*{{fr}} [http://www.anai-asso.org/NET/document/le_temps_de_la_guerre/la_guerre_dindochine/larmee_nationale_vietnamienne_/index.htm The Vietnamese National Army] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20160303220528/http://www.anai-asso.org/NET/document/le_temps_de_la_guerre/la_guerre_dindochine/larmee_nationale_vietnamienne_/index.htm |date = ngày 3 tháng 3 năm 2016}}, thesis by Nguyen Van Phai (1980)
*{{en}} [http://indochine54.free.fr/cefeo/anv.html#top ''The Fantoches: Vietnamese National Army'']
*{{en}} [http://indochine54.free.fr/cefeo/anv.html#top ''The Fantoches: Vietnamese National Army'']

Phiên bản lúc 08:27, ngày 5 tháng 9 năm 2021

Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Republic of Vietnam Military Forces
Hiệu kỳ
Hoạt động1955 – 1975
Quốc gia Việt Nam Cộng hòa
Phân loạiLực lượng vũ trang
Tên khácQuân đội Việt Nam Cộng hòa
Quân đội Sài Gòn
Khẩu hiệuTổ quốc - Danh dự - Trách nhiệm
Tham chiến- Chiến tranh đặc biệt 1961–1965
- Chiến dịch Mậu Thân 1968
- Chiến dịch Lam Sơn 719 1971
- Mùa hè đỏ lửa 1972
- Hải chiến Hoàng Sa 1974
Chiến dịch Mùa Xuân 1975
Các tư lệnh
Chỉ huy
nổi tiếng
- Lê Văn Tỵ
- Trần Văn Đôn
- Dương Văn Minh
- Nguyễn Khánh
- Trần Thiện Khiêm
- Đỗ Cao Trí
- Nguyễn Văn Thiệu
- Đỗ Mậu
- Nguyễn Hữu Có
- Cao Văn Viên
- Nguyễn Cao Kỳ
- Nguyễn Chánh Thi
- Ngô Quang Trưởng
- Phạm Văn Phú
- Lê Minh Đảo
Huy hiệu
Quân kỳ 1
Quân kỳ 2[1]

Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH; tiếng Anh: Republic of Vietnam Military Forces, viết tắt RVNMF) là lực lượng quân đội của Việt Nam Cộng hòa, thành lập vào năm 1955, tiền thân là Quân đội Quốc gia Việt Nam thuộc Liên hiệp Pháp, chủ yếu là Bảo an đoàn, Bảo chính đoàn. Ngày Truyền thống (còn gọi là ngày Quân lực) là ngày 19 tháng 6. Trong quá trình tồn tại của mình, Quân lực Việt Nam Cộng hòa nhiều lần tham gia các biến cố chính trị, mà cao điểm là cuộc Đảo chính năm 1963 lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, và sau đó các tướng lĩnh của quân đội nắm quyền chi phối Chính phủ Việt Nam Cộng hòa (kể cả khi đã chuyển sang giai đoạn chính thể dân sự) đến ngày chính phủ này sụp đổ năm 1975.

Quân lực Việt Nam Cộng hòa được Hoa Kỳ cung cấp trang bị rất hùng hậu với sức cơ động cao và hỏa lực mạnh, nhận được sự hỗ trợ rất lớn của Mỹ và các đồng minh, có nhiều các lực lượng hỗ trợ, bản thân lại có quân số thường trực và chính quy rất đông (tính đến năm 1975 là 1.351.000 quân) để chống lại Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, lực lượng vũ trang chính quy của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và là bộ phận tại miền Nam Việt Nam của Quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy vậy, khác với đối phương được tổ chức đơn giản, gọn nhẹ và hiệu quả cao, Quân lực Việt Nam Cộng hòa là một quân đội được xây dựng, trang bị và chỉ huy mô phỏng hoàn toàn theo kiểu Hoa Kỳ nên rất tốn kém. Nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa, vốn nhỏ bé chưa vững mạnh và từ năm 1963 thì lệ thuộc Mỹ cho nên đã không thể cáng đáng được kinh phí này, nên đã gần như phải dựa hoàn toàn vào viện trợ của Hoa Kỳ để có thể thực hiện tác chiến trước lực lượng đối phương có chiến thuật, chiến lược phù hợp với hình thái chiến tranh thực địa hơn.

Khi Mỹ giảm viện trợ xuống còn 1,1 tỷ đô la vào năm 1974, nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa lâm vào cuộc khủng hoảng với lạm phát ở mức 200%.[2] Quân lực Việt Nam Cộng hòa vốn không được tổ chức thích hợp, sử dụng hỏa lực quá tốn kém lại cộng thêm nạn tham nhũng nên đã rơi vào tình trạng thiếu kinh phí để duy trì mức hoạt động như trước. Cùng với đó, sự yếu ớt về tinh thần chiến đấu của binh sĩ và những sai lầm từ cấp chỉ huy khiến các kế hoạch tác chiến nhanh chóng thất bại. Chỉ sau 55 ngày đêm Chiến dịch Mùa Xuân 1975 của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam, lực lượng quân đội với hơn 1 triệu quân này đã hoàn toàn tan rã.[2]

Tên gọi khác

Tên tiếng Anh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) là Republic of Vietnam Military Forces (Các lực lượng vũ trang VNCH) hay viết tắt là RVNMF. Trong các tài liệu của Hoa Kỳ, họ rất ít nhắc đến từ này mà từ ARVN (phát âm là ây-vừn), tức là Army of the Republic of Vietnam hay Lục quân Việt Nam Cộng hòa, được dùng phổ biến do đây là lực lượng chiến đấu chính của QLVNCH. Trong các tài liệu của phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòaMặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, QLVNCH còn được gọi là "quân đội Sài Gòn" hoặc "ngụy quân" nhằm chỉ tính "bất hợp pháp" và yếu kém của chế độ Việt Nam Cộng hòa. Bản thân một số tài liệu nước ngoài khi đi phân tích qua cuộc chiến thì họ cũng thỉnh thoảng sử dụng cụm từ "quân đội bù nhìn" (puppet army) để chỉ QLVNCH vì sự phụ thuộc quá mức của lực lượng này vào quân đội Mỹ.[3][4]

Lịch sử

Thời kỳ Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ (1946–1949)

Trong suốt thời gian chiếm đóng Đông Dương, quân đội Pháp có tuyển những người Việt phục vụ trong quân đội để đáp ứng nhu cầu chiến trường. Các quân nhân này được đào tạo theo quy chế Pháp và đại đa số là binh lính, hạ sĩ quan với một số rất ít sĩ quan.

Khi chiến tranh lan rộng ở Nam Kỳ, để huy động thêm nguồn nhân lực nhằm để chống lại tổ chức phong trào kháng chiến Việt Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam (trụ sở ở Hà Nội), người Pháp đã thành lập ra các Lực lượng phụ trợ (Forces suppletives) bao gồm lính người Nam Kỳ được tuyển mộ tại địa phương do sĩ quan Pháp chỉ huy. Ngày 1 tháng 10 năm 1946, Vệ binh Cộng hòa Nam Kỳ được thành lập, là Lực lượng quân sự đầu tiên của Chính phủ Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ. Ngày 9 tháng 6 năm 1948, Lực lượng này được đổi tên thành Vệ binh Nam Việt. Ngày 12 tháng 4 năm 1947, Lực lượng Bảo vệ quân ra đời tại Huế, năm 1948 đổi tên thành Việt binh đoàn. Tháng 7 năm 1948, Lực lượng quân sự người Việt tại Bắc Kỳ ra đời mang tên Bảo chính đoàn. Thực chất, đây là những Lực lượng quân sự địa phương, tổ chức để hỗ trợ quân lực chính quy (quân đội Pháp), về nguyên tắc là trực thuộc chính quyền tự trị người Việt, thực tế vẫn do các sĩ quan Pháp chỉ huy.

Thời kỳ Quốc gia Việt Nam (1949–1955)

Tập tin:Chao co Phap.jpg
Lính Quân đội Quốc gia Việt Nam làm lễ chào cờ Pháp và cờ Quốc gia Việt Nam tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
Sĩ quan Pháp trao huân chương cho binh lính quân đội Quốc gia Việt Nam

Theo Hiệp ước Élysée ngày 8 tháng 3 năm 1949, Quốc gia Việt Nam được thành lập, có quân đội và cơ quan ngoại giao riêng, đây là một Chính phủ được Pháp lập nên nhân danh nghĩa chống cộngdân tộc chủ nghĩa nhằm chống lại Việt Minh và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo nghị định quốc phòng ngày 13 tháng 4 năm 1949, một Lực lượng Quân đội Quốc gia được thành lập, lấy tên là Vệ binh Quốc gia[5] Các lực lượng Vệ binh Nam Việt, Việt binh đoàn, Bảo chính đoàn và Vệ binh sơn cước được chuyển sang Vệ binh Quốc gia.

Trong nỗ lực thành lập Quân đội Quốc gia, vấn đề cơ bản là đào tạo sĩ quan và hạ sĩ quan. Chính phủ của Quốc gia Việt Nam thừa nhận tình trạng thiếu những người được huấn luyện quân sự nhưng tuyên bố vì lý do chính trị, việc sử dụng sĩ quan Pháp là trở ngại. Trong khi đó Pháp lại không chấp nhận trang bị vũ khí cho những đơn vị Quân đội Quốc gia mới thành lập trừ khi Việt Nam chấp nhận một tỷ lệ nhất định sĩ quan nước ngoài trong Quân đội Quốc gia trong thời gian sĩ quan Việt Nam đang được đào tạo tại những cơ sở huấn luyện mới thành lập. Pháp có trách nhiệm hỗ trợ Việt Nam trong công tác huấn luyện sĩ quan.[6]

Ngày 11 tháng 5 năm 1950, Thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố chính thức thành lập Vệ binh Quốc gia Việt Nam với quân số lúc đó là 60.000 người [7].

Ngày 8 tháng 12 năm 1950, Quốc gia Việt Nam và Pháp ký Hiệp định quân sự thành lập Quân đội Quốc gia bằng cách đặt một số đơn vị quân đội người Việt do Pháp thành lập dưới quyền chỉ huy của Quốc gia Việt Nam. Dự kiến quân đội này sẽ bao gồm 120.000 quân và 4.000 sĩ quan. Tất cả sĩ quan đều phải là người Việt.[6] Quốc trưởng Bảo Đại là Tổng chỉ huy quân đội này từ năm 1950 đến 1955.

Sau hai lần thay đổi nội các, Quốc trưởng Bảo Đại ký Dụ số 43 ngày 23 tháng 5 năm 1952 thành lập Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia. Tổng tham mưu trưởng đầu tiên là một sĩ quan người Việt quốc tịch Pháp, nguyên Đại tá Chánh Võ phòng của Quốc trưởng, tân Thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh. Trụ sở Bộ Tổng tham mưu đặt tại số 1 đường Galiéni, tức thành Ô Ma (Camp Aux Mares), Sài Gòn [8]. Toàn Việt Nam được phân thành 4 quân khu đầu tiên và một số sĩ quan cấp tá người Việt đã được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh Quân khu. Đệ Nhất Quân khu tại Nam Việt (Tư lệnh: Đại tá Lê Văn Tỵ), Đệ Nhị Quân khu tại Trung Việt (Tư lệnh: Trung tá Nguyễn Ngọc Lễ), Đệ Tam Quân khu tại Bắc Việt (Tư lệnh: Trung tá Nguyễn Văn Vận), Đệ Tứ Quân khu tại Cao nguyên Trung phần (Tư lệnh: Trung tá Linh Quang Viên). Cùng năm, Binh chủng Hải quânBinh chủng Nhảy dù được thành lập.[9] Tuy vậy, các Tư lệnh chiến trường của Pháp lại có quyền yêu cầu các đơn vị của Quốc gia Việt Nam hỗ trợ trong các cuộc hành quân.

Để đẩy mạnh hơn nữa việc tuyển quân, từ năm 1953, Chính quyền Quốc gia Việt Nam cho thực hiện cuộc Tổng động viên với lệnh tất cả thanh niên tuổi từ 18 đến 33 phải ghi danh[10]. Quân đội Quốc gia phát triển nhanh chóng về số lượng. Khi hội nghị Genève được ký kết đã có 82 Tiểu đoàn Việt Nam, 81 Tiểu đoàn khinh quân và 5 Tiểu đoàn Nhảy dù, 8 nhóm Pháo binh, 5 nhóm Vận tải và 5 Tiểu đoàn Công binh, tổng cộng là 272.000 người (chưa kể 3 Trung đoàn Cơ giới, các đơn vị Tuần binh, quân đội của các Giáo phái và Bình Xuyên và không kể số lính da vàng trong các đơn vị da trắng). Số tiền người Pháp bỏ ra để trang bị và duy trì hoạt động của Quân đội này là: 524 tỉ francs năm 1952, 585 tỉ năm 1953, 575 tỉ năm 1954.

Đài Tiếng nói Việt Nam nhận định: "Quân đội “Quốc gia Việt Nam” của Bảo Đại là để bảo vệ nền thống trị của người Pháp ở Đông Dương. Viên tướng tư lệnh Phạm Văn Phú, kẻ đã bại trận thảm hại tại chiến trường Tây Nguyên năm 1975, cũng từng là lính Việt chiến đấu hăng hái bên các chiến hữu Pháp tại Điện Biên Phủ năm 1954. Tại Điện Biên, ông Phạm Văn Phú khi đó đã si mê hát Quốc ca Pháp, hô hào các binh sĩ ngụy khác đánh trả quân đội Việt Minh của tướng Võ Nguyên Giáp".[11]

Edmund A. Gullion, Bí thư Cố vấn Pháp ở Sài Gòn (từ 1950) cho rằng: "Thật khó mà truyền được một tinh thần dân tộc hăng say vào một đội quân người bản xứ mà sĩ quan và hạ sĩ quan của họ đều là người Pháp da trắng…". Trong tổng số quân Pháp tại Điện Biên Phủ ngày 6/5/1954, người Việt chiếm gần 3% số sĩ quan, 16,2% số hạ sĩ quan, 39,2% số lính. Tuy nhiên binh lính quân đội Quốc gia Việt Nam có tinh thần chiến đấu thấp và có rất ít quyền tự quyết định các vấn đề chiến thuật và chiến lược, và họ cũng có rất ít lý do để chiến đấu một cách mãnh liệt trong một cuộc chiến tranh của người Pháp[12].

Sau chiến bại của Pháp tại trận Điện Biên Phủ, binh sỹ Quân đội Quốc gia mất tinh thần, mang gánh nặng tâm lý, đào ngũ hàng loạt. Sách Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn hình thành 1946-1955 của Việt Nam Cộng hòa mô tả thời kỳ này như sau[13]:

Người lính quốc gia đã không còn tinh thần để chiến đấu vì trước đà thắng thế của đối phương, phải liên miên chịu đựng áp lực nặng nề, vừa chiến đấu mệt mỏi, không được nghỉ ngơi, không được bổ sung, vừa bị khủng hoảng tinh thần bởi các sự tuyên truyền của đối phương nên đã đào ngũ khá nhiều. Từ ngày 21/7 đến ngày 20/8/1954, chỉ trong 1 tháng, số đào ngũ ở miền Bắc lên tới 21.421 người, gồm 112 sĩ quan, 1.031 hạ sĩ quan và 20.278 binh sĩ. Số đào ngũ vẫn gia tăng vào những tháng chót.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa (1955–1963)

Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Quân chủng
Lục quân
Hải quân
Không quân
Dấu hiệu/Cấp bậc
Quân hàm
Phù hiệu các đơn vị
Hiệu kỳ các đơn vị
Lịch sử
Tiến trình phát triển
Các đại đơn vị
Các tướng lãnh
Bản đồ VNCH và 4 vùng chiến thuật

Năm 1955, sau khi Quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã đổi tên chính phủ Quốc gia Việt Nam thành Việt Nam Cộng hòamiền Nam Việt Nam, và Quân đội Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Cùng năm, Bộ Tổng tham mưu không còn phụ thuộc hệ thống chỉ huy của Pháp.

Hầu hết các tướng lĩnh cấp cao của Quân lực VNCH sau này đều từng là sĩ quan phục vụ cho Quân đội Quốc gia Việt Nam, ví dụ như: Thổng tống Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống Dương Văn Minh, tướng Nguyễn Cao Kỳ thống tướng Lê Văn Tỵ, tướng Nguyễn Văn Hinh, tướng Trần Văn Đôn, tướng Nguyễn Văn Vỹ, tướng Đỗ Cao Trí, tướng Nguyễn Khánh, tướng Phạm Văn Phú

Cũng trong năm này, khối bộ binh được tổ chức là bốn Sư đoàn dã chiến mang phiên hiệu 1, 2, 3 và 4 với quân số hơn 8.500 người mỗi sư đoàn, là các đơn vị có biên chế, trang bị mạnh, được huấn luyện tác chiến chính quy để đảm đương nhiệm vụ chủ yếu là ngăn chặn sự xâm nhập của quân chủ lực miền Bắc. Sáu Sư đoàn khinh chiến mang phiên hiệu 11, 12, 13, 14, 15 và 16 với quân số hơn 5.000 người mỗi sư đoàn, là các đơn vị được tổ chức biên chế, trang bị gọn nhẹ hơn, đảm nhận nhiệm vụ chủ yếu là bảo đảm an ninh nội địa, kết hợp tiếp sức chi viện cho các Sư đoàn dã chiến khi cần.

Năm 1956, trụ sở Bộ Tổng tham mưu dời về trại Trần Hưng Đạo (tức Camp Chanson trước kia). Các Quân khu được tổ chức lại thành 6 quân khu gồm Đệ nhất Quân khu (Miền đông Nam phần)[14] Đệ nhị Quân khu (Bắc duyên hải Trung phần)[15], Đệ tam Quân khu (Bắc cao nguyên và trung duyên hải Trung phần)[16], Đệ tứ Quân khu (Nam cao nguyên Trung phần và nam duyên hải Trung phần)[17], Đệ Ngũ Quân khu (Miền tây Nam phần)[18] và Quân khu Thủ đô (Khu vực Đô thành Sài Gòn)[19] Cùng năm, Hải quân Việt Nam Cộng hòa bắt đầu tiếp nhận tàu chiến từ Hải quân Hoa Kỳ, gồm 31 chiến hạm với 193 chiến đỉnh[20], đến 1963 mới chấm dứt.

Năm 1957, Quân đoàn I và Quân đoàn II được thành lập[21]. Cùng năm, thành lập Binh chủng Lực lượng đặc biệt, huấn luyện sĩ quan và hạ sĩ quan tại trường Biệt động đội ở Đồng Đế, và đơn vị đầu tiên mang tên Liên đội Quan sát Số 1.

Đầu năm 1959, những sư đoàn khinh chiến và dã chiến được tổ chức lại thành các sư đoàn bộ binh. Giải thể ba sư đoàn 12, 13 và 16 khinh chiến và tái phối trí về các sư đoàn còn lại để thành lập 7 đơn vị bộ binh là các sư đoàn: 1, 2, 5, 7, 21, 22, 23, với quân số hơn 10.500 người mỗi sư đoàn. Ngày 1 tháng 3 năm 1959, Quân đoàn III được thành lập lâm thời[22]. Cùng năm, Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến tách ra khỏi Hải quân và trở thành Lực lượng Tổng trừ bị.

Ngày 1 tháng 7 năm 1960, Binh chủng Biệt động quân được thành lập với 50 đại đội và bắt đầu hoạt động sâu trong vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đại đơn vị Cảnh sát Quân sự cũng được tái tổ chức ngày 1 tháng 10, tập hợp các đơn vị cũ từ năm 1948 dưới tên mới là Quân cảnh.[23] Cùng năm, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành động viên từng phần. Theo đó thì tất cả những thanh niên trong lứa tuổi quân dịch (18-35) phải vào quân ngũ trong một thời gian[24]

Ngày 11 tháng 11 năm 1960, Đại tá Nguyễn Chánh Thi đã chỉ huy một số đơn vị thuộc Lữ đoàn Nhảy dù, Biệt động quân, Thiết giáp... làm đảo chính quân sự. Tuy nhiên, cuộc đảo chính bị dập tắt nhanh chóng.

Ngày 13 tháng 4 năm 1961, Tổng thống Ngô Đình Diệm ra sắc lệnh số SL.98/QP chia lại lãnh thổ thành ba vùng chiến thuật và Biệt khu Thủ đô. Vùng 1 chiến thuật gồm các tỉnh từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi, do Quân đoàn I trấn đóng. Vùng 2 chiến thuật gồm Cao nguyên Trung phần và các tỉnh duyên hải nam Trung phần từ Bình Định vào tới Bình Thuận, do Quân đoàn II trấn đóng. Vùng 3 chiến thuật gồm các tỉnh từ Bình Tuy vào đến Cà Mau do Quân đoàn III trấn đóng. Biệt khu Thủ đô gồm Đô thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định.

Năm 1962, Liên đoàn Nhảy dù gồm các tiểu đoàn 1, 3, 4, 5, 6, 7 và 8, tiền thân là các Tiểu đoàn nhảy dù thuộc địa của Pháp, được phát triển thành Lữ đoàn Nhảy dù. Liên đoàn 31 Lực lượng Đặc biệt cũng được thành lập. Các đơn vị Không quân tác chiến và yểm trợ tác chiến được tăng lên cấp Không đoàn tại mỗi Quân đoàn, gồm các Không đoàn 41 (Đà Nẵng), 62 (Pleiku), 23 (Biên Hòa), 33 (Tân Sơn Nhất), 74 (Cần Thơ). Cùng năm, hai sư đoàn 9 và 25 bộ binh cũng được thành lập, nâng cấp số đơn vị bộ binh lên thành 9 Sư đoàn.

Ngày 1 tháng 1 năm 1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm cho thành lập Quân đoàn IV và Vùng 4 chiến thuật. Theo đó, cơ cấu các vùng chiến thuật và các đơn vị cơ hữu quân đoàn được tổ chức lại như sau:

Quân lực Việt Nam Cộng hòa (1963-1975)

Một sĩ quan tươi cười chụp ảnh bên thi hài Tổng thống Ngô Đình Diệm, người vừa bị Quân lực VNCH đảo chính và giết chết

Sau cuộc đảo chính với sự giúp đỡ của Chính phủ Mỹ ngày 1/11/1963 lật đổ chính tổng thống VNCH là Ngô Đình Diệm, các tướng lĩnh Quân đội Việt Nam Cộng hòa nắm quyền chính trị. Ngày 27/11/1964, Hội đồng Quân lực phân định lại các Vùng chiến thuật, tách Biệt khu Thủ đô và Đặc khu Rừng Sác thành khu chiến thuật độc lập khỏi Vùng 3 chiến thuật.

Năm 1965, Hội đồng Quân lực quyết định đổi danh xưng Quân đội Việt Nam Cộng hòa thành Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đồng thời thành lập thêm Sư đoàn 10 bộ binh (đặt trực thuộc Quân đoàn III, năm 1967 đổi tên thành Sư đoàn 18 bộ binh), nâng tổng số đơn vị đoàn bộ binh lên thành 10 sư đoàn. Cùng năm, Lữ đoàn Nhảy dù phát triển thành Sư đoàn Nhảy dù.

Tháng 7 năm 1970, các Vùng chiến thuật được đổi tên trở lại thành các Quân khu. Tính đến thời điểm này, Quân lực Việt Nam Cộng hòa có quân số lên đến 1 triệu quân, được trang bị 1 triệu súng M-16, 12.000 súng máy M-60, 40.000 súng phóng lựu (grenade launcher) M-79, và 2.000 lựu pháo (howitzer) và súng cối hạng nặng (heavy mortar)[25]. Đồng thời phát triển lực lượng Không quân, lấy nòng cốt từ các Không đoàn trên 4 Quân khu để thành lập 4 Sư đoàn: Sư đoàn 1 tại Đà Nẵng, Sư đoàn 2 tại Nha Trang, Sư đoàn 3 tại Biên Hòa và Sư đoàn 4 tại Cần Thơ. Cùng năm, giải tán Lực lượng đặc biệt để sáp nhập một số qua Biệt động quân, số còn lại trở thành Liên đoàn 81 Biệt cách dù.

Năm 1971, thành lập Sư đoàn 5 Không quân làm đơn vị Tổng trừ bị cho Bộ Tổng tham mưu. Tháng 10 cùng năm Sư đoàn 3 bộ binh được thành lập, trở thành Sư đoàn bộ binh thứ 11 và cũng là đơn vị chủ lực quân con út của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Cuối năm, cải tổ lại Lực lượng Biệt động quân sau khi đồng hóa Lực lượng Dân sự chiến đấu thành các Tiểu đoàn Biệt động quân Biên phòng và thành lập tại mỗi Quân khu một Bộ chỉ huy Biệt động quân.

Năm 1972, thành lập thêm Sư đoàn 6 Không quân tại Pleiku, hoạt động trên vùng trời và trách nhiệm với chiến trường Cao nguyên Trung phần.

Năm 1973, một lần nữa Biệt động quân lại được cải tổ. Nâng tổng số Lực lượng này thành 15 Liên đoàn, một số là đơn vị Tổng trừ bị cho Bộ Tổng tham mưu, số còn lại Tổng trừ bị cho các Quân khu. Cuối năm 1974 và đầu năm 1975, thành lập thêm 2 đơn vị nữa là Liên đoàn 8 và 9, nâng tổng số Binh chủng Biệt động quân lên thành 17 Liên đoàn.

Các trận chiến quan trọng

Tranh chấp lãnh thổ hải đảo với các nước

Không chỉ giao chiến với Quân đội Nhân dân Việt Nam, Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng từng tham gia tranh chấp một số hòn đảo với Vương quốc Campuchia, Philippines, Đài LoanTrung Quốc. Trong các tranh chấp này, Việt Nam Cộng hòa đã để mất quần đảo Hoàng Sa, một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa và một số đảo nhỏ gần đảo Phú Quốc vào tay các nước khác:

  • Năm 1956, Đài Loan điều tàu đến đảo Ba Bình (là đảo lớn nhất thuộc quần đảo Trường Sa) khi đó thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa. Nhân dịp lễ Song Thập 10/10 của Trung Hoa Dân Quốc (tức Đài Loan), Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ra lệnh cho quân rút khỏi đảo Ba Bình, Đài Loan giành quyền kiểm soát đảo mà không cần phải nổ súng.[26])[27]
  • Những năm 1956–1966, Hải lực Việt Nam Cộng hòa đã để mất 6 hòn đảo nằm giữa đảo Phú Quốc và nội địa Campuchia vào tay quân đội Vương quốc Campuchia. Đó là các đảo: Hòn Năng Trong và Hòn Năng Ngoài (tiếng Pháp lần lượt là "Ile du Milieu" và "Ile à l’Eau", còn được gọi là đảo Phú Dự) bị Campuchia đánh chiếm năm 1956; đảo Hòn Tai (Ile du Pic) bị chiếm năm 1958; Hòn Kiến Vàng (Ile des Fourmis) và Hòn Keo Ngựa (Ile du Cheval) bị chiếm năm 1960; đảo Hòn Trọc (đảo Wai hay Poulo Wai, thực tế là gồm 2 đảo nằm liền kề nhau) bị chiếm mất năm 1966. Tổng diện tích các đảo bị mất khoảng 30 km², lớn nhất là đảo Phú Dự rộng khoảng 25 km².
  • Năm 1970, Philppines đã tổ chức chiếm giữ đảo Song Tử Đông, đảo Thị Tứ, đảo Loại Ta và 4 đảo nữa từ tay Việt Nam Cộng hòa. Theo như Đại tá về hưu hải quân Philippines Domingo Tucay Jr kể lại thì các đảo, bãi khi đó hoàn toàn hoang vắng, Philippines chiếm đóng dễ dàng. Chỉ khi tới đảo Song Tử Tây, họ mới thấy quân đội của Việt Nam Cộng hòa đóng ở đây. Quân Phillipines báo về sở chỉ huy, được chỉ thị cứ để mặc quân Việt Nam Cộng hòa. Lính Việt Nam Cộng hòa ở đảo Song Tử Tây cũng để yên để cho quân Philippines hành động. Sau chiến dịch, Philippines chiếm được 6 đảo nổi và bãi đã mà không cần phải nổ súng, trong đó Thị Tứ là đảo lớn thứ nhì, Bến Lạc (Đảo Dừa) là đảo lớn thứ ba, Song Tử Đông là đảo lớn thứ năm ở quần đảo Trường Sa. Philippines giữ các đảo và bãi này từ đó đến nay. Sau vụ chiếm đóng, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng không hề lên tiếng gì về vụ chiếm đóng đó. Theo như lời Tucay kể lại, nhiều tháng sau khi Philippines chiếm đóng 7 đảo ở quần đảo Trường Sa, các nước khác mới biết vụ việc này[28][29].
  • Năm 1974, trong Hải chiến Hoàng Sa, Quân lực Việt Nam Cộng hòa thất bại và mất toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa vào tay Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Sau đó, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa quyết định tăng cường trấn thủ Trường Sa và thực hiện Chiến dịch Trần Hưng Đạo 48 để lấy một số đảo.

Sĩ quan cao cấp

Trong lịch sử tồn tại của Quân đội Quốc gia, sau là Quân đội Việt Nam Cộng hòa và kế tiếp là Quân Lực Việt Nam Cộng hòa, có 173 sĩ quan được thăng cấp tướng, trong đó có 1 Thống tướng. Còn lại là các cấp Đại tướng, Trung tướng, Thiếu tướngChuẩn tướng. Rất nhiều tướng lĩnh (chiếm 1/3) được thăng cấp tướng trong giai đoạn 1963-1965, thời kỳ mà dân chúng gọi là "loạn tướng".

-Danh sách cấp tướng và cấp đại tá Việt Nam Cộng hòa:

Đào tạo và học viện quân sự

VNCH có một số cơ sở Trung tâm Huấn luyện Quốc gia, đào tạo nhân sự cho ngành quân lực. Đứng đầu là Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt. Ngoài ra còn có Trường Bộ binh Thủ Đức, Trường Huấn luyện Không quân Nha Trang, Trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang, Trường Hạ sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, Trung tâm Huấn luyện Biệt động quân Dục Mỹ...

Mỗi vùng chiến thuật có một trung tâm huấn luyện:[31]

Quân số và vũ khí năm 1975

  • Đầu năm 1975, ngoài Bộ Tổng tham mưu với các cơ quan, binh chủng và binh sở trong hệ thống quản trị (hành chánh, nhân viên, huấn luyện, chiến tranh chính trị, tiếp vận), Quân lực Việt Nam Cộng hòa còn có các đơn vị yểm trợ tác chiến gồm 4 Bộ tư lệnh Quân đoàn và các đơn vị yểm trợ trực thuộc. Các đơn vị trực tiếp tác chiến gồm:
  • Lục quân: 11 Sư đoàn bộ binh, 1 Sư đoàn Nhảy dù, 1 Sư đoàn Thủy quân lục chiến, Liên đoàn 81 Biệt cách Dù, 17 Liên đoàn Biệt động quân, Lực lượng Lôi hổ và Biệt hải thuộc Nha Kỹ thuật và Lực lượng Địa phương quân gồm 400 Tiểu đoàn, Nghĩa quân hơn 50.000 quân.
  • Thiết giáp kỵ binh: Có 21 Thiết đoàn (tương đương Trung đoàn) gồm 63 Chi đoàn (tương đương Tiểu đoàn) với 383 xe tăng (162 xe tăng M48 A3, 221 xe tăng M41) và 1.691 xe thiết giáp, phần lớn là loại M-113, hình thành 4 Lữ đoàn Kỵ binh phối thuộc 4 Quân đoàn.
  • Pháo binh: Có 66 Tiểu đoàn và trên 160 Trung đội Pháo binh độc lập với khoảng 1.500 khẩu pháo các loại 105mm, 155mm và một số pháo tự hành 175mm.
  • Không quân. Quân số 60.000, trang bị hơn 2.000 máy bay các loại. Gồm: 1 Bộ tư lệnh Quân chủng với đầy đủ các cơ quan và binh sở yểm trợ, 5 Sư đoàn Không quân tác chiến (20 phi đoàn khu trục cơ, trang bị khoảng 550 phi cơ A-1 Skyraider, A-37 Dragonfly và Northrop F-5, 23 Phi đoàn trực thăng, trang bị khoảng 1.000 trực thăng UH-1 và CH-47 Chinook, 8 Phi đoàn quan sát, trang bị khoảng 200 phi cơ O1, O2 và U17), 1 Sư đoàn vận tải (9 Phi đoàn vận tải, trang bị khoảng 150 phi cơ C7, Douglas C-47, C-119 và C-130, 1 Không đoàn tân trang chế tạo, 4 Phi đoàn hỏa long, trang bị phi cơ AC-119, Lockheed AC-130 Gunship. Ngoài ra còn có Phi đoàn Trắc giác (tình báo kỹ thuật), Phi đoàn Quan sát RC 119L và Biệt đoàn Đặc vụ 314.
  • Hải quân. Quân số hơn 40.000, ngoài các đơn vị yểm trợ hành chánh, nhân viên, huấn luyện, tiếp vận (có Hải quân Công xưởng), gồm 3 Lực lượng tác chiến: (1) Hành quân lưu động sông, với 14 Giang đoàn trang bị khoảng 260 chiến đỉnh; (2) Hành quân lưu động biển với một hạm đội trang bị Tuần dương hạm, Hộ tống hạm, Khu trục hạm, Tuần duyên hạm, Giang pháo hạm, Trợ chiến hạm, Dương vận hạm, Hải vận hạm và Giang vận hạm; (3) các Lực lượng Đặc nhiệm 211 Thủy bộ với 6 Giang đoàn, 212 Tuần thám với 12 Giang đoàn, 214 Trung ương với 6 Giang đoàn, và Liên đoàn Người nhái. Tổng cộng được trang bị khoảng 1.500 tàu xuồng các loại, trong đó có khoảng 700 tàu chiến trên sông và trên biển.
Tổng số quân chủ lực: 495.000.
Tổng số quân địa phương: Quân số gồm 475.000 quân địa phương và 381.000 dân vệ có vũ trang.
Tổng quân số: 1.351.000
  • Năm 1975, theo số liệu từ hồi ký Đại thắng mùa xuân của Đại tướng Văn Tiến Dũng[34], toàn bộ Quân lực Việt Nam Cộng hòa gồm có 1.351.000 quân, trong đó có 495.000 quân chủ lực gồm 13 sư đoàn Bộ binh và 17 Liên đoàn Biệt động quân; 475.000 quân địa phương, 381.000 quân phòng vệ Dân sự có vũ trang.
  • Theo Spencer C. Tucker, Quân lực Việt Nam Cộng hòa gồm có 465.000 quân chủ lực (chưa kể 2 triệu quân địa phương và phòng vệ dân sự rải khắp các vùng lãnh thổ). Trong khi đó, quân Giải phóng miền Nam có khoảng 260.000, bao gồm cả các lực lượng chính quy và du kích[35].

Theo đánh giá về trang bị và quân số, Quân lực Việt Nam Cộng hòa có Lục quân và Không quân đứng thứ 4 thế giới, Hải quân đứng thứ 9 thế giới. So với đối thủ là Quân đội Nhân dân Việt Nam, họ có ưu thế 2 lần về quân số, 4 lần về xe tăng và đại bác, hơn tuyệt đối về Không quânHải quân.

Nguyên nhân thất bại

Tuy trang bị hùng hậu, song thực tế tác chiến cho thấy khi không có quân Mỹ hỗ trợ, quân đội này thường thất trận khi đối đầu với bộ đội chủ lực của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Chỉ sau gần 2 tháng của Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, Quân lực Việt Nam Cộng hòa với hơn 1,3 triệu quân chính quy hoàn toàn bị đánh bại và tan rã. Thất bại của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thậm chí diễn ra còn nhanh hơn cả dự đoán của các cố vấn Mỹ. Các nhà nghiên cứu đã liệt kê một số nguyên nhân để lý giải cho sự sụp đổ to lớn và toàn diện này.

Không có sự ủng hộ của người dân

Về chiến lược quân sự, Quân lực Việt Nam Cộng hòa thiếu sự ủng hộ của nhân dân (nhất là ở nông thôn)[36]. Gregory Daddis nhận xét: Những hành vi tội ác của Quân lực Việt Nam Cộng hòa khiến người dân xem họ như kẻ thù. Một nông dân kể rằng "Khi quân đội Cộng hòa tới, mọi người trong làng đều bị đe dọa... Quân đội thoải mái đánh đập bất cứ ai, giết bất cứ ai", người khác kể rằng "cứ mỗi lần quân đội Quốc gia tới thì lại càng có nhiều người dân kết thân với Việt cộng". Khi được hỏi tại sao người dân không ủng hộ chính phủ Sài Gòn, một người dân trả lời "vì quân đội Quốc gia... thường xuyên đốt nhà của dân làng và hiếp dâm phụ nữ". Không có cách nào để quân đội Việt Nam Cộng hòa có thể đánh bại đối phương khi mà người dân đã xa lánh họ và quan hệ thân thiết với quân Giải phóng[37].

Theo nhà sử học Vũ Ngự Chiêu[38] thì Quân lực Việt Nam Cộng hòa chỉ có thể kiểm soát hoàn toàn được khoảng 20-30% dân số miền Nam. Phân nửa lãnh thổ với khoảng 1/3 dân số sống trong vùng tranh chấp. Phần còn lại sống trong những vùng do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam kiểm soát. Ngay trong dân chúng ở vùng do Việt Nam Cộng hòa kiểm soát, nhiều người cũng không ủng hộ quân đội, những người này ngầm ủng hộ quân Giải phóng, hoặc chia làm nhiều phe phái chống lại nhau vì những lý do như tôn giáo (Thiên Chúa giáo - Phật giáo), sắc tộc (người Việt - người Hoa), vùng miền (người miền Bắc - người miền Nam)[39]

Donald Duncan, sĩ quan xuất sắc của Lực lượng Đặc biệt Mỹ tại Việt Nam trong giai đoạn 1964-65, nhận xét[40]:

Lính VNCH càng qua nhiều lần thì dân chúng càng có cảm tình hơn với VC (quân Giải phóng). VC có thể ngủ trong nhà họ, còn quân chính phủ thì cướp bóc. VC giúp họ trồng và thu hoạch, còn lính chính phủ thì phá trụi. Hiếp dâm sẽ bị VC trừng phạt nghiêm khắc, nhưng lại là quá bình thường bên phía VNCH đến mức hiếm ai dám tố cáo vì họ sợ sẽ phải hứng chịu những tội ác còn tồi tệ hơn.
Tôi đã thấy lữ đoàn dù VNCH đến Nha Trang, và hầu như đã khủng bố thành phố trong 3 ngày. Tiểu thương nhặt nhạnh tiền bạc rời thành phố, quán hàng đóng cửa. Lính tráng vào quán gọi đồ rồi không trả tiền, thay vào đó là đập phá quán. Họ ghẹo gái trên phố và cảnh sát thì bất lực hoặc không muốn giúp.

Nhờ có được sự ủng hộ từ người dân, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam áp dụng hiệu quả chiến lược chiến tranh nhân dân, do đó Quân lực Việt Nam Cộng hòa bị dồn ép liên tục, phải trải quân khắp nơi để giữ đất. Toàn bộ 13 Sư đoàn và 17 Liên đoàn Biệt động quân (tương đương với 5 sư đoàn) phải bảo vệ 44 tỉnh, tính trung bình một tỉnh chỉ được 1 tới 2 Trung đoàn chính quy đóng giữ. Trong khi đó quân Giải phóng miền Nam do nắm thế chủ động chiến lược có thể tập trung hơn 10 Trung đoàn để đánh một tỉnh như tại Buôn Mê Thuột tháng 3/1975.

Sự phụ thuộc vào hỗ trợ của Mỹ

Một cố vấn Mỹ và binh lính VNCH

Theo nhà nghiên cứu quân sự Nguyễn Đức Phương trong bài viết "Việt Nam Cộng hòa 1975, nguyên nhân sụp đổ" thì một trong các nguyên nhân Quân lực Việt Nam Cộng hòa thất bại là vì được "tổ chức rập khuôn theo lối Mỹ, một lính tác chiến có năm người yểm trợ như tiếp liệu, quân nhu, quân y, hành chính… Quân số tuy đông nhưng trên thực tế lính tác chiến chưa tới 200 ngàn người, thành phần không tác chiến (non combatant) chiếm khá nhiều, Địa phương quân và Nghĩa quân thì chỉ đủ sức cầm cự chờ lính bộ binh của Sư đoàn". Lối đánh này sử đụng tối đa hỏa lực nên vô cùng tốn kém, đòi hỏi phải cung cấp rất nhiều về vũ khí đạn dược. Mỗi năm Quân lực Cộng hòa cần hơn 3 tỷ đôla viện trợ mới đủ để duy trì sức chiến đấu, trong khi Quân Giải phóng miền Nam chỉ cần khoảng 300 triệu đôla là đủ để củng cố lực lượng. Kết quả tất yếu là khi bị Mỹ giảm viện trợ, nhiều máy bay, xe tăng, tàu chiến… thiếu cơ phận thay thế đã trở thành bất khiển dụng. Hỏa lực Không quân giảm 60% so với năm 1972. Dự trữ đạn dược tuy còn tới hàng trăm nghìn tấn (gấp 15 lần đối phương), nhưng nếu tiêu tốn nhanh như chiến thuật mà Mỹ áp dụng thì chỉ đủ đánh cho tới tháng 6 năm 1975. Khi Mỹ giảm viện trợ thì tinh thần chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng sa sút dẫn đến tan rã nhanh chóng trước sự tiến công của đối phương.

Tuy Quân lực Việt Nam Cộng hòa có ưu thế số lượng nhưng về mặt phẩm chất vũ khí không có ưu thế. Xe tăng chỉ có M48 Patton tương đương với T-54, pháo 155 và 105 ly tầm bắn tối đa chỉ được 15 và 11 cây số, ngang với pháo 122 ly cấp Sư đoàn của Quân Giải phóng miền Nam, pháo 175 ly thì không có nhiều. Hơn nữa do phải chiến đấu nhiều năm trong điều kiện bị áp đảo về hỏa lực nên Quân Giải phóng miền Nam, có kinh nghiệm hơn hẳn về ngụy trang và phản pháo, trong khi Quân lực Việt Nam Cộng hòa vì quen dựa dẫm vào yểm trợ hỏa lực của Mỹ nên thường bị lúng túng khi phải tự lực chiến đấu. Các tướng lĩnh Mỹ đã nhận xét: "Hiệu quả chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa không đều, họ đứng vững được bởi sự trợ giúp của các cố vấn Mỹ và hỏa lực yểm trợ mạnh mẽ của Mỹ từ trên không... Điểm yếu nội tại trong cấu trúc chỉ huy là họ tỏ ra quá phụ thuộc vào yểm trợ hỏa lực của Mỹ"[41][42].

Một lính Việt Nam Cộng hòa đang cố gắng đu bám vào càng một chiếc trực thăng UH-1 để di tản

Chính phủ Việt Nam Cộng hòa không được tự đưa ra được quyết sách gì, chính sách từ lớn xuống bé đều do Tòa Đại sứ Mỹ, các tướng lĩnh MACV (Trung tâm chỉ huy tác chiến Hoa Kỳ tại Việt Nam), và sau này là USAID (Cơ quan quản lý viện trợ Hoa Kỳ) soạn thảo rồi đôn đốc thực hiện. Đại sứ Ellsworth Bunker và rồi Graham Martin có quyền lực không khác gì những “Toàn quyền Đông Dương” của Pháp trước kia – dù Việt Nam Cộng hòa không ngừng tự xưng là "Đồng minh" của Mỹ. Tổng chỉ huy quân đội là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vốn khởi đầu binh nghiệp làm thông ngôn cho quân Pháp. Bản thân ông lên được chức Tổng thống đều là do đảo chính chứ không phải vì thành tích mặt trận. Có được ghế Tổng thống rồi, ông Thiệu lại tập trung hết quyền bính trong tay, biến Bộ Tổng Tham mưu thành một cơ cấu thư ký, không được tự ra quyết sách (vì ông Thiệu sợ rằng đến lượt chính mình sẽ bị người khác đảo chính lật đổ). Qua màng lọc của hệ thống phe đảng của Tổng thống Thiệu, những cấp chỉ huy có tiềm năng nhưng không có thế lực chính trị đỡ đầu thì thường bị chết trận hay bị loại ngũ. Suốt 10 năm Quân lực Việt Nam Cộng hòa tác chiến dựa vào hỏa lực mạnh của Quân đội Hoa Kỳ, nên khi không còn hỏa lực Mỹ nữa thì bị lâm vào lúng túng. Hiệp định Paris 1973 khiến binh sĩ hoang mang rằng "Mỹ đã bỏ rơi chăng? Nếu Mỹ còn không đánh lại thì sao mà tự đánh được?", thế là tinh thần chiến đấu càng sụt giảm. Có đơn vị tự ý bỏ chạy khi vừa bị một viên pháo nã vu vơ vào đồn, đơn vị khác thì nghe tiếng máy cày trong đêm đã vội báo cáo tăng địch xuất hiện[39].

Craig A. Lockard nhận xét rằng "trong sự khinh thường của những người Mỹ mà họ phục vụ, Việt Nam Cộng hòa chỉ là một thứ công cụ để hợp thức hóa việc phê chuẩn, nếu không phải là thường bị loại ra khỏi sự chỉ đạo của Mỹ. Việt Nam Cộng hòa hiếm khi đưa ra chính sách lớn, họ thậm chí còn không được tham khảo ý kiến về quyết định của Mỹ năm 1965 đưa một lực lượng lớn quân vào tham chiến trên bộ."[43] Suốt nhiều năm phụ thuộc vào quân Mỹ đã khiến các chỉ huy Việt Nam Cộng hòa không còn đủ khả năng để tự đưa ra các chiến lược lớn trên chiến trường.

Nạn tham nhũng

Binh sĩ Việt Nam Cộng hòa đang cố bám vào càng một chiếc trực thăng UH-1 để di tản trong trận An Lộc

Nạn tham nhũng làm hao mòn trang bị và sức chiến đấu của quân đội: như cả nửa triệu tấn gạo biến mất khỏi các kho lương thực trong năm 1967. Súng cũng được tuồn ra bán với giá 25-30 đôla một khẩu. Nếu ai muốn mua một xe bọc thép hoặc một máy bay lên thẳng thì việc đó cũng có thể dàn xếp được. Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ nêu trường hợp Tư lệnh đồng bằng sông Cửu Long đã lấy cắp 8.000 đài vô tuyến và 24.000 vũ khí cá nhân do Hoa Kỳ trang bị và sớm tiêu thụ hết sạch sành sanh, tài liệu mật từ Tòa đại sứ Mỹ cho biết phần lớn số đó đã lọt vào tay quân Giải phóng[44]

Nhà sử học Vũ Ngự Chiêu nhận xét: cả guồng máy chống cộng của Việt Nam Cộng hòa giống một thứ siêu thị, người ta mua bán bất cứ thứ gì có thể sinh lợi, từ chức tước tới tấm giấy miễn quân dịch. Từ hồ sơ mật an ninh quốc phòng tới đạn dược, thuốc men, vật tư chiến tranh, từ góc phố tới nha sở, dinh thự. Mạng lưới tham nhũng khi đó rất tinh vi, và hễ có tiền là mua được tất cả, kể cả vũ khí. Thực tế, ngay đến Tư lệnh Quân khu, Sư đoàn, Tiểu khu trưởng... cũng đứng ra bảo trợ cho việc buôn lậu. Được dư luận biết đến nhiều nhất có vụ "lính ma, lính kiểng" của Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Quân đoàn IV, hay đoàn xe buôn lậu có Quân cảnh hộ tống do các mệnh phụ phu nhân của các tướng lĩnh – thường được gọi là “Mặt Trời Cái” – bảo trợ. Đó là chưa kể đường dây buôn lậu nha phiến, ngoại tệ và phế liệu chiến tranh do các tướng lĩnh Thiệu, Khiêm và Kỳ đứng đầu[39].

Ngay cả đến người đứng đầu là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng dung túng cho vợ mình tham gia buôn lậu. Năm 1974, một vụ buôn lậu của bà Mai Anh (vợ Nguyễn Văn Thiệu) bị phát hiện, trị giá lô hàng gồm nhiều thứ xa xỉ phẩm hàng hiệu, trị giá khoảng 600 triệu đồng tiền Việt Nam Cộng hòa thời bấy giờ (tương đương 3 triệu USD thời giá năm 1974, hoặc 20 triệu USD thời giá năm 2017). Những người phát hiện vụ việc thay vì được khen thưởng đã bị tống giam, trong khi không có ai đứng đầu tổ chức buôn lậu này bị xét xử[45][46].

Donald Duncan, sĩ quan xuất sắc của Lực lượng Đặc biệt Mỹ tại Việt Nam trong giai đoạn 1964-65, nhận xét về sự tham nhũng của Quân lực VNCH[40]:

Hồ sơ Mỹ ghi lại những trường hợp một đại đội VC (quân Giải phóng) quây và diệt 2 hoặc 3 đại đội VNCH, hay trường hợp khác là một đại đội VC đã chiến đấu dũng mãnh với 1 tiểu đoàn VNCH để phá vây... Trong nhiều năm, chiến thuật chiến lược của VC đã quá thành công, và chúng ta chưa thua chỉ bởi vì có hỏa lực khủng khiếp và sự hỗ trợ của không quân. Họ đều là người Việt mà sao lại khác nhau như vậy?
Hiển nhiên ĐỘNG LỰC là khác nhau. VC tin vào chính nghĩa của họ vì Độc lập dân tộc. Họ đặt niềm tin vào chỉ huy của họ, hiển nhiên là những người còn tận tụy hơn cả họ, cùng ăn ở với họ. Về phía Sài Gòn, những người lính biết rằng sếp họ có được chức vụ là nhờ gia đình, tiền bạc hay tưởng thưởng chính trị. Họ biết mối quan tâm chính của các sếp là vinh hoa. Sĩ quan cấp úy và cấp tá ăn một bữa ở nhà hàng Pháp thì bằng tiền lính kiếm cả tuần. Sĩ quan ngủ với bồ nhí ở biệt thự được canh gác. Sĩ quan có quá nhiều lý do để khỏi phải ra trận cùng lính. Lính thấy sĩ quan ba hoa về mình trong trận đánh. Lính biết sẽ bị ăn chặn tiền lương ngay khi có thể. Lính biết quân nhu có thể bị đem bán ngoài phố. Lính chiến đấu chỉ để duy trì một hệ thống sẽ giữ họ trong nghèo đói và thất học. Sếp hứa rất nhiều và thất hứa cũng thật nhiều, để giờ lính chẳng còn tin vào chính phủ.

Nhà báo người Mỹ William J. Lederer, trong chuyến điều tra năm 1968, đã nhận xét rằng kẻ thù tồi tệ nhất của Mỹ chính là nạn tham nhũng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, hàng tỷ USD viện trợ của Mỹ đã bị tham ô rồi bán ra chợ đen. Ông đã chứng kiến những kho hàng lậu đầy ắp vũ khí quân dụng, có tới cả 1.000 khẩu súng trường, bao gồm cả loại súng M16 hiện đại. Quy mô buôn lậu lên tới hàng tỷ USD, với sự tham gia của đủ các thành phần: quan chức Việt Nam Cộng hòa, thương nhân Mỹ và Đài Loan, binh lính Mỹ, Hàn Quốc, Philippines... Ngay cả Mặt trận Dân tộc Giải phóng cũng tận dụng nạn tham nhũng của đối phương để mua vũ khí Mỹ đánh lại chính quân Mỹ. Quan chức Mỹ biết rõ tình trạng đó, nhưng chẳng làm gì bởi họ cần tiếp tục viện trợ để duy trì sự tồn tại của chế độ Việt Nam Cộng hòa. William J. Lederer nhận xét: "Tôi đã thấy Hoa Kỳ sẽ bị đánh bại như thế nào - không phải chỉ bằng sức mạnh của đối phương, mà còn bởi chính những sai lầm của mình, sự bất lực của chính mình"[47].

Tinh thần chiến đấu thấp

Binh sĩ Việt Nam Cộng hòa đang cố trèo lên càng một chiếc trực thăng UH-1 để thoát khỏi chiến trường An Lộc.
Tướng Nguyễn Cao Kỳ và tướng Ngô Quang Trưởng của VNCH khi chạy ra tàu sân bay Mỹ vào ngày 29 tháng 4 năm 1975

Vấn đề quan trọng nhất vẫn là tổ chức và con người. Tại một nước có truyền thống Nho giáo như Việt Nam, các nhà lãnh đạo phải thể hiện được lối sống đạo đức và tài năng của bản thân trong một tập thể chung. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và các nhà lãnh đạo của họ thể hiện được lý tưởng hết sức quan trọng này. Ngược lại, chính phủ Việt Nam Cộng hòa thì không ngừng tham gia vào các âm mưu chính trị, tham nhũng quá nhiều, và thiếu ổn định, do đó làm sụt giảm sự ủng hộ và làm xói mòn tinh thần của binh sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Nạn đào ngũ là một vấn đề nghiêm trọng đối với Việt Nam Cộng hòa. Từ năm 1965 đến năm 1972, ước tính có khoảng 840.000 binh sĩ đã đào ngũ. Riêng từ tháng 4 tới tháng 12 năm 1974, có 176.000 lính đào ngũ (trung bình mỗi tháng có 24.000 lính đào ngũ). Tại các lực lượng tinh nhuệ của quân đội, Biệt động quân có tỷ lệ đào ngũ lớn nhất (55%), tiếp theo là các đơn vị dù (30%) và Thủy quân Lục chiến (15%). Trong khi đó, Quân Giải phóng miền Nam rất ít khi đào ngũ hoặc chịu đầu hàng; họ đã duy trì một lợi thế tâm lý mạnh mẽ, với những người lính tràn đầy tinh thần sẵn sàng hy sinh mục đích cá nhân để cống hiến cho nỗ lực chiến tranh của tập thể.[48].

Theo William Colby, người từng đứng đầu tổ chức tình báo CIA tại Việt Nam Cộng hòa thì quân đội này "Được huấn luyện theo chiến thuật Hoa Kỳ, thì nay họ lại phải vận dụng chiến thuật ấy trong điều kiện thiếu thốn đạn dược, máy bay khác hẳn những gì họ đã học""giới quân sự Nam Việt Nam trước viễn cảnh của một trận chiến đấu cuối cùng đầy tuyệt vọng, đã bắt đầu quan tâm nhiều đến sự sống còn của gia đình mình hơn là quan tâm đến lợi ích chung"[49]. Ký giả Alan Dawson nhận xét: Đội quân này trang bị vũ khí tốt hơn bất kỳ nước châu Á nào khác, có nhiều máy bay chiến đấu, có nhiều đạn dược, xăng dầu, quân cụ, xe cộ và lương thực hơn hầu hết các quân đội trên thế giới. Nó chỉ thiếu mỗi một điều thôi. Một người Mỹ nói với một binh sĩ Sài Gòn rằng: Chúng tôi đã cho anh mọi thứ anh cần, trừ sự dũng cảm. Chỉ tại anh không có thứ ấy. [50]

Donald Duncan, sĩ quan xuất sắc của Lực lượng Đặc biệt Mỹ tại Việt Nam trong giai đoạn 1964-65, nhận xét về nạn đào ngũ của Quân lực VNCH[40]:

Để chỉ ra VC (quân Giải phóng) đã hết thời được ủng hộ rộng rãi, con số VC đầu hàng được Hoa Kỳ nhấn mạnh. Kể cả khi bạn chẳng nghi ngờ độ chính xác của con số đó, thì nó cũng chỉ là vô nghĩa nếu so sánh với mức độ đào ngũ của quân VNCH. Tỉ lệ đào ngũ và trốn quân dịch dù được công bố giảm nhưng nghe vẫn choáng váng. Qua báo chí và các bản tổng kết hoạt động, tôi thường xuyên đọc thấy hàng trăm lính VNCH "mất tích" sau các trận đánh lớn. Người đọc sẽ cho rằng hàng trăm, cộng lại đến hàng ngàn, những lính này đã trở thành tù binh của VC. Họ tuyệt nhiên không bao giờ bị đề cập là đã đào ngũ. Nếu đó là sự thật, thì một nửa lực lượng VC sẽ phải đi coi tù [vì quá nhiều tù binh]

Ngày 12 tháng 11 năm 1968, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Clark Cliffords gửi thư công khai cảnh cáo Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu rằng:

"...Chỉ cần Quân lực Việt Nam Cộng hòa có được nửa lá gan của người cộng sản, thì ngày hôm nay quân đội Hoa Kỳ có thể duyệt binh ở Hà Nội rồi, Quân đội của các ông chỉ biết bắn giết dân thường, bám theo sau và rút chạy trước, tướng lĩnh thì toàn tham nhũng, toàn hiếp dâm và chỉ giỏi nhảy đầm."

Ngay sau thất bại trong chiến dịch Đường 14 - Phước Long (tháng 1 năm 1975), cố vấn Mỹ John Pilger đã tiên liệu chính xác rằng sự sụp đổ của quân đội Sài Gòn sẽ sớm diễn ra. Ông viết:

Sài Gòn đang sụp đổ trước mắt, một Sài Gòn được người Mỹ hậu thuẫn, một thành phố được coi là "thủ đô tiêu dùng" nhưng chẳng hề sản xuất được một mặt hàng nào ngoài chiến tranh. Trong hàng ngũ của quân đội lớn thứ tư thế giới vào thời điểm đó, binh lính đang đào ngũ với tốc độ cả nghìn người trong một ngày...[51]

Cuối năm 2005, khi về Việt Nam và trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên Việt Nam, cựu tướng Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Phó Tổng thống kiêm Tư lệnh Không quân Việt Nam Cộng hòa nhận định rằng:

Tan rã

Trực thăng UH-1 của Việt Nam Cộng hòa bị ném xuống biển sau khi di tản ra tàu sân bay Mỹ
  • Tháng 3 năm 1975, sau khi Phước LongBuôn Ma Thuột thất thủ, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh tái phối trí, rút bỏ Quân khu 1 và 2, dồn toàn quân về Quân khu 3 và 4 chống giữ. Cuộc rút quân tái phối trí hoàn toàn thất bại. Hạ tuần tháng 4, ông Thiệu từ chức, các tướng tá tháo chạy, và trong vòng 55 ngày, toàn bộ quân đội Việt Nam Cộng hòa đã tan rã, chủ yếu vì suy sụp tinh thần và thiếu lãnh đạo.
  • Trận giao tranh cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa ngoài vòng đai Sài Gòn xảy ra tại Xuân Lộc, do Sư đoàn 18 bộ binh, dưới sự chỉ huy của tướng Lê Minh Đảo, và Lữ đoàn 1 Nhảy dù, dưới sự chỉ huy của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh. Sau trận này tướng Đảo bị đối phương bắt và phải đi học tập cải tạo.
  • Trận giao tranh cuối cùng của QLVNCH trong Đô thành Sài Gòn xảy ra tại bản doanh Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, do Liên đoàn 81 Biệt kích dù, dưới sự chỉ huy của chỉ huy trưởng Biệt đội 3 Chiến thuật, Thiếu tá Phạm Châu Tài.
  • Lực lượng quân đội tan rã và đầu hàng sau cùng của Việt Nam Cộng hòa là Liên đoàn 81 Biệt cách Dù, dưới sự chỉ huy của chỉ huy trưởng Liên đoàn 81 Biệt cách Dù, Đại tá Phan Văn Huấn.

Sau sự kiện ngày 30 tháng 4 năm 1975, một số nhóm Quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn còn chiến đấu tại một vài nơi tại miền Tây Nam Bộ thêm 1-2 ngày, vì theo phương án Gavin của Mỹ, nếu Sài Gòn thất thủ thì khu vực cuối cùng phải án giữ là vùng Tây Nam Bộ, lấy Cần Thơ làm trung tâm. Binh lính Quân lực Việt Nam Cộng hòa đầu hàng tại tỉnh cuối cùng là Châu Đốc (nay là An Giang) vào ngày 2 tháng 5 năm 1975[53]. Tuy nhiên một nhóm vẫn chưa đầu hàng hoàn toàn mà vẫn cố thủ tại chùa Tây An. Đến ngày 6 tháng 5 năm 1975, quân Giải phóng miền nam điều lực lượng và phát động quần chúng tiến vào chùa Tây An, cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay tại chùa Tây An vào ngày này, và những binh lính Quân lực Việt Nam Cộng hòa cuối cùng chính thức ra hàng ở đây[54].

Sau khi đầu hàng hoàn toàn

Thống kê chính thức cho thấy, sau năm 1975, hơn 200.000 quân nhân và nhân viên công chức Việt Nam Cộng hòa phải ra trình diện và tham gia các đợt học tập cải tạo của chính quyền mới[55]. Con số 200.000 cũng được Jean Louis Margolin nói đến theo xác nhận của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhiều tướng lĩnh, sĩ quan cấp cao thì đã thu xếp để bỏ trốn ra nước ngoài bằng tàu biển hoặc trực thăng. Một số quân nhân khác được kêu gọi phục vụ trong QĐNDVN, với nhiệm vụ sửa chữa, bảo trì các loại vũ khí của Mỹ mà Quân đội Nhân dân Việt Nam thu được để tái sử dụng trong Chiến tranh biên giới Tây Nam chống Khmer đỏ.

Nghĩa trang

Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa là khu nghĩa trang chính; ngoài mộ địa chôn hàng chục nghìn tử sĩ, còn có một số công trình kiến trúc như viện bảo tàng, cổng tam quan, hội trường, nhà thăm viếng, Nghĩa Dũng đài.[56] Nghĩa trang này sau năm 1975 thuộc khu vực cấm nên dần hoang tàn. Năm 2006 Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa được trao trả cho địa phương quản lý, trong những năm gần đây thì khu nghĩa trang được tu sửa và được tự do vào thăm viếng như một trong những hành động thiện chí nhằm để tiến tới công cuộc hòa hợp và hòa giải dân tộc.[57]

Ở hải ngoại hiện nay, cộng đồng người Việt hải ngoại đã xây dựng một số đài kỷ niệm các quân nhân trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Địa phương đầu tiên là do cộng đồng người Úc gốc ViệtSydney của Úc vào thập niên 1990 với đài tưởng niệm ở Cabra-Vale, thuộc thành phố Fairfield, ngoại ô Sydney, thuộc tiểu bang New South Wales.[58] Sau đó các cộng đồng người gốc Việt ở một số thành phố Mỹ cũng xúc tiến xây nên một số khu kỷ niệm ở địa phương.

Hoa Kỳ

Bia tưởng niệm QLVNCH dựng ở Westminster, California

Úc

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Không chính thức.
  2. ^ a b Andrew A. Wiest, The Vietnam War, 1956-1975, 2002, Osprey Publishing, tr. 80.
  3. ^ https://books.google.com.vn/books?id=ZHD4Asj0FagC&pg=PA466&lpg=PA466&dq=arvn+puppet+army&source=bl&ots=uKrl5hQ1it&sig=T6D4msPUwoEk12U77FsLd_c9Brc&hl=vi&sa=X&ved=0ahUKEwiFme7CgNDNAhXDjpQKHf_TDe84ChDoAQg_MAU#v=onepage&q=arvn%20puppet%20army&f=false
  4. ^ http://liberationschool.org/how-vietnam-defeated-u-s-imperialism/
  5. ^ Trần Hội & Trần Ðỗ Cẩm, Khái lược lịch sử hình thành Quân lực Việt Nam Cộng hòa
  6. ^ a b “A Brief Overview of the Vietnam National Army and the Republic of Vietnam Armed Forces (1952-1975), PERSPECTIVES ON RVNAF FROM FRUS, Stephen Sherman and Bill Laurie”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2011.
  7. ^ Khái lược lịch sử hình thành quân lực Việt Nam Cộng hòa - Thời kỳ thành lập (1950-1952)
  8. ^ Quân đội Lãnh đạo Quốc gia từ ngày 19 tháng 6 năm 1965
  9. ^ Lược sử tổ chức Hải quân Việt Nam Cộng hòa Lưu trữ 2009-04-23 tại Wayback Machine.
  10. ^ Smith. Harvey et al. tr 441
  11. ^ http://vov.vn/blog/chinh-nghia-khong-thuoc-ve-che-do-viet-nam-cong-hoa-396862.vov
  12. ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 657-658
  13. ^ Lê Văn Dương và các tác giả khác: Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn hình thành 1946-1955, Phòng 5 Bộ Tổng tham mưu xuất bản, Sài Gòn, 1972, tr 199, 206.
  14. ^ Đệ nhất quân khu gồm các tỉnh: Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, Bình Dương, Biên Hòa, Long Khánh, Bình Tuy và Phước Tuy.
  15. ^ Đệ nhị Quân khu gồm các tỉnh: Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Nam và Quảng Ngãi.
  16. ^ Đệ tam Quân khu gồm các tỉnh: Kontum, Pleiku, Bình Định và Phú Yên
  17. ^ Đệ tứ Quân khu gồm các tỉnh: Darlac, Đồng Nai Thượng, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận.
  18. ^ Đệ ngũ Quân khu gồm các tỉnh: An Giang, Kiến Phong, Kiến Tường, Định Tường, Kiến Hòa, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Phong Dinh, Kiên Giang, Ba Xuyên và An Xuyên.
  19. ^ Quân khu Thủ đô gồm các tỉnh: Sài Gòn, Gia Định và Long An.
  20. ^ "Hạm" (艦) dùng để chỉ tàu có boong rộng, "đỉnh" (艇) dùng để chỉ tàu có boong hẹp dài.
  21. ^ Quân đoàn I thành lập 1/6/1957, với các đơn vị trực thuộc là hai sư đoàn 1 và 2 dã chiến. Quân đoàn II thành lập 1/10/1957, với các đơn vị trực thuộc là hai sư đoàn 3 và 4 dã chiến.
  22. ^ Quân đoàn III chính thức thành lập 20/5/1960, với các đơn vị trực thuộc là 3 sư đoàn 5, 7 và 21 bộ binh.
  23. ^ Quân cảnh Nam California...
  24. ^ "Những con đường dẫn vào tương lai..."
  25. ^ Robert Buzzanco, Vietnam and the Transformation of American Life, 1999, Blackwell Publishing, tr. 103.
  26. ^ Nguyễn, Nhã (31 tháng 1 năm 2008). “Đài Loan thừa gió bẻ măng, chiếm đảo Ba Bình”. Tuổi trẻ online. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2012.
  27. ^ (Dzurek 1996, tr. 16), dẫn lại Heinzig (1976), tr. 35-36, 42.
  28. ^ http://news.abs-cbn.com/global-filipino/07/11/11/secret-mission-1970-put-ph-troops-spratlys
  29. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2016.
  30. ^ Đại tướng Lê Văn Tỵ được phong Thống tướng ngày 21/7/1964, ba tháng trước ngày từ trần (20/10/1964).
  31. ^ Trịnh Quang Chiếu. "Quân trường hoài niệm". Hội Ái hữu Khóa 5 Sĩ quan Trừ bị Vì Dân, Kỷ yếu kỷ niệm 60 năm 1954-2014. 2014. Tr 268-71
  32. ^ Vietnam RVN flag Air Force To Quoc Khong Gian (aged) gold fringe
  33. ^ Đại nhạc hội Cảm ơn Anh - Người Thương Binh VNCH kỳ 7
  34. ^ Văn Tiến Dũng, Đại thắng mùa xuân, Chương 4.
  35. ^ https://books.google.com.vn/books?id=hvyNAgAAQBAJ&pg=PA181&lpg=PA181&dq=arvn+strength+1975&source=bl&ots=ZIe9qr7Rtx&sig=5cn7AcxXFekkL_5hRRmviaFglFs&hl=vi&sa=X&ved=0ahUKEwjcid-hoqDPAhWJqo8KHeeZB_gQ6AEISjAJ#v=onepage&q=arvn%20strength%201975&f=false
  36. ^ Noam Chomsky, Nguồn gốc, nguyên nhân và bài học trong chiến tranh Việt Nam, Biên bản Quốc hội Mỹ, tài liệu lưu trữ tại Ban tổng kết chiến lược - Bộ Quốc phòng, 1973]
  37. ^ https://books.google.com.vn/books?id=LqsVAgAAQBAJ&pg=PA162&lpg=PA162&dq=arvn+puppet+army&source=bl&ots=0-rFJSdZ4y&sig=Lun6nXCcRSZa5vwj-wLeUgC9zkE&hl=vi&sa=X&sqi=2&ved=0ahUKEwjR4eLdhNDNAhWGGJQKHYYfCF8Q6AEIGTAA#v=onepage&q=arvn%20puppet%20army&f=false
  38. ^ Nhà sử học Vũ Ngự Chiêu còn là một nhà văn với bút hiệu Nguyên Vũ, sáng tác nhiều tác phẩm nổi tiếng về đề tài chiến tranh Việt Nam. Những tác phẩm của ông tiêu biểu là bộ trường thiên tiểu thuyết Vòng tay lửa được đa số độc giả ở miền Nam rất thích.
  39. ^ a b c Vũ Ngự Chiêu. Lâu đài trên cát. St. Paul, 4/8/1989-Houston. Tạp chí Hợp lưu, ngày 4/8/2008
  40. ^ a b c The whole thing was lies. Donald Duncan
  41. ^ Palmer, Dave Ri chard, Summons of the Trumpet: A History of the Vietnam War From A Military Mans Viewpoint. Novato CA: Presidio Press, 1999, tr.324.
  42. ^ Andrade, Dale, Trial By Fire: The 1972 Easter Offensive, Americas Last Việt Nam Battle, New York: Hippocrene Books, 1995, tr.529
  43. ^ Michael Macclear, The Ten Thousand Day War: Vietnam, 1945-1975 (New York: St.Martin's, 1981), pp.130-133
    Dẫn lại tại Lockard, 237, trích "Held in contempt by the Americans they served, they remained primarily verhicles for ratifying, if not always carying out, American directives. They rarely initiated major policies; indeed, they were not consulted on the US decision to commit massive ground forces in 1965."
  44. ^ “Kỳ 22 - Tại sao TT Marcos khuyên Nguyễn Cao Kỳ "để sẵn va-li đầu giường ngủ" và câu chuyện về "Quế tướng công"?”. Một Thế giới. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2016. Truy cập 4 tháng 10 năm 2015.
  45. ^ “(T7) Bí mật về vụ buôn lậu của Đệ Nhất phu nhân Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chấn động Sài Gòn”. Báo điện tử Người đưa tin. Truy cập 2 tháng 10 năm 2015.
  46. ^ “Vụ buôn lậu của Đệ Nhất phu nhân chấn động Sài Gòn (Kỳ cuối)”. Báo đời sống & pháp luật Online. Truy cập 2 tháng 10 năm 2015.
  47. ^ http://www.spiegel.de/spiegel/print/d-45949919.html
  48. ^ http://ic.galegroup.com/ic/uhic/ReferenceDetailsPage/ReferenceDetailsWindow?failOverType=&query=&prodId=UHIC&windowstate=normal&contentModules=&display-query=&mode=view&displayGroupName=Reference&limiter=&currPage=&disableHighlighting=true&displayGroups=&sortBy=&search_within_results=&p=UHIC%3AWHIC&action=e&catId=&activityType=&scanId=&documentId=GALE%7CBT2336200026&source=Bookmark&u=imgacademy&jsid=5116c558dde83f89d502b9ce6a804831
  49. ^ William Colby-Một chiến thắng bị bỏ lỡ Nhà xuất bản Công an Nhân dân p402
  50. ^ 55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ - Alan Dawson. Cao Minh trích dịch. Nhà xuất bản Sự thật 1990. Chương 2: Mở màn
  51. ^ “Sự thất hứa của Mỹ sau Hiệp định Paris 1973”. Kienthuc.net.vn. Truy cập 16 tháng 11 năm 2015.
  52. ^ “Dong Duong Thoi Bao”. Truy cập 13 tháng 3 năm 2015.
  53. ^ “An Giang trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975”. An Giang Online.
  54. ^ “Chuyện 'tử thủ' sau thời khắc lịch sử 30/4/1975 tại miền Tây Nam Bộ”. Công An Nhân Dân Online.
  55. ^ Frank Snepp, Decent Interval, tr. 476
  56. ^ "Nghĩa Trang Quân đội Biên Hòa, Chuyện Kể Từ Đầu"
  57. ^ “Quyết định 1568/QĐ-TTg về việc bàn giao đất khu vực Nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương”. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ Việt Nam. 27 tháng 11 năm 2006. Truy cập 4 tháng 5 năm 2014.
  58. ^ "Treo Cờ Vàng vĩnh viễn tại Sydney Úc Đại Lợi"
  59. ^ "Vietnam War Memorial, Tượng-đài Chiến-sĩ Việt-Mỹ". Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2015.
  60. ^ "Houston đất lành chim đậu"
  61. ^ "Lễ khánh thành tượng đài kỷ niệm"
  62. ^ "Các Sinh Hoạt Tháng 6, 2005"
  63. ^ "Phan Công Tôn – 40 năm nhìn lại: Lịch sử việc thành lập các Hội Đoàn người Việt tại tiểu bang Utah (1975-2015)"
  64. ^ "Tường Thuật Buổi Lễ Khánh Thành Tượng Đài Việt - Mỹ"
  65. ^ "Khánh thành Tượng Đài Chiến Sĩ Việt-Mỹ tại Arlington, Texas"
  66. ^ "Texas có thêm một tượng Ðài Chiến Sĩ Việt - Mỹ"
  67. ^ "Tượng đài Úc Việt"[liên kết hỏng]
  68. ^ "Australian Vietnamese War Memorial"
  69. ^ "ĐÀI TƯỞNG NIỆM CHIẾN SĨ TỰ DO TRẬN VONG ÚC VIỆT TẠI VICTORIA"
  70. ^ "Hình ảnh tượng đài chiến sĩ Úc Việt mới được khánh thành"

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy, 2011. Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa
  • Nguyễn Đức Phương. Chiến tranh Việt Nam Toàn tập. Toronto: Làng Văn, 2001.
  • Smith, Harvey et al. Area Handbook for South Vietnam. Washington, DC: US Government Printing Office, 1967.

Liên kết ngoài