Oscar dos Santos Emboaba Júnior
Oscar trong màu áo Brasil năm 2014 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Oscar dos Santos Emboaba Júnior[1] | ||
Ngày sinh | 9 tháng 9, 1991 [2] | ||
Nơi sinh | Americana, São Paulo, Brazil | ||
Chiều cao | 1,79 m (5 ft 10 in)[2] | ||
Vị trí | Tiền vệ công | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Cảng Thượng Hải | ||
Số áo | 8 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
1998–2004 | União Barbarense | ||
2004–2009 | São Paulo | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2009–2010 | São Paulo | 11 | (0) |
2010–2012 | Internacional | 36 | (15) |
2012–2017 | Chelsea | 131 | (21) |
2017– | Cảng Thượng Hải | 179 | (58) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2009-2011 | U-20 Brasil | 25 | (6) |
2012 | U-23 Brasil | 6 | (1) |
2011–2016 | Brasil | 48 | (12) |
Thành tích huy chương | |||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 4 tháng 8 năm 2022 |
Oscar dos Santos Emboaba Júnior (phát âm tiếng Bồ Đào Nha: [ɔʃkaɾ dus ˈsɐ̃tus imbɔɐba ʒũnjoʁ]; sinh ngày 9 tháng 9 năm 1991), thường gọi là Oscar, là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Brasil thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công cho câu lạc bộ Cảng Thượng Hải tại Chinese Super League. Oscar khởi đầu sự nghiệp của mình tại São Paulo trước khi đến Internacional do tranh chấp về lương. Tháng 7 năm 2012, anh chính thức trở thành cầu thủ của Chelsea với phí chuyển nhượng khoảng 25 triệu bảng Anh. Sau bốn năm rưỡi thi đấu cho Chelsea với hai chức vô địch Premier League, một chức vô địch League Cup và một chức vô địch UEFA Europa League, Oscar chuyển đến Cảng Thượng Hải với mức phí 60 triệu bảng Anh.
Ở cấp độ đội tuyển, Oscar đã cùng U-20 Brasil giành chức vô địch Giải vô địch U-20 thế giới 2011 trong đó anh lập hat-trick trong trận chung kết để trở thành cầu thủ đầu tiên trong lịch sử ghi được hat-trick trong một trận chung kết bóng đá U-20 thế giới. Tháng 7 năm 2012, anh được triệu tập vào đội tuyển Brasil và có danh hiệu đầu tiên cùng đội tuyển vào năm 2013 là chức vô địch Cúp Liên đoàn các châu lục. Oscar thi đấu cho Chelsea được 4 năm thì anh chuyển đến thi đấu cho CLB Thượng Hải SIPG của Trung Quốc. Nhưng ở đây anh ko thể cải thiện kĩ năng chơi bóng của mình, vì vậy anh không được gọi lên đội tuyển bóng đá quốc gia Brazil đá World Cup 2018. Đây là thiệt thòi lớn cho anh. Hè năm 2018, Oscar có ý muốn trở lại Chelsea và đang chờ ý kiến từ ban lãnh đạo câu lạc bộ nhưng không được chấp thuận.
Sự nghiệp câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]São Paulo và Internacional
[sửa | sửa mã nguồn]Oscar sinh ra và lớn lên ở Americana, thành phố nhỏ thuộc bang São Paulo của Brasil. Anh gia nhập học viện bóng đá trẻ União Barbarense trước khi đến São Paulo FC vào năm 2004 ở tuổi 13. Năm 2008, Oscar lên chơi ở đội một và giúp đội bóng này giành chức vô địch quốc gia thứ ba liên tiếp.[3] Năm 2009, São Paulo đã từ chối chi trả khoản tiền lương hứa trước đó cho Oscar. Do đó, anh đã kiện đội bóng Brasil ra tòa án trước khi quyết định đến Internacional vào tháng 11 năm 2009. Người đại diện của anh cho rằng hợp đồng giữa anh và São Paulo vô hiệu khi Oscar đã ký hợp đồng trên ba năm khi mới chỉ 16 tuổi. Tuy nhiên, Oscar đã không thể thi đấu đến tận tháng 6 năm 2010 do bị São Paulo ngăn cản và phải đến ngày 30 tháng 5 năm 2010, hai câu lạc bộ mới đạt được thỏa thuận giúp anh có thể ra sân trở lại. Trong khoảng thời gian này, anh đã vắng mặt trong một trận đấu quan trọng của Internacional ở Copa Libedatores.[4]
Oscar là trụ cột trong đội hình cùng Internacional giành cú đúp vô địch bang Campeonato Gaúcho 2011 và 2012 cùng siêu cúp Nam Mỹ, Recopa Sudamericana. Mùa giải 2011, anh ghi 13 bàn và kiến tạo 10 đường chuyền thành bàn trong 44 trận. Trong mùa giải 2012, anh tiếp tục ghi 6 bàn và có 10 đường kiến tạo sau 20 trận.[3]
Chelsea
[sửa | sửa mã nguồn]Mùa giải 2012-13
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 21 tháng 7 năm 2012, Oscar xác nhận rằng anh đã hoàn tất kiểm tra y tế tại câu lạc bộ Chelsea tuy nhiên vẫn chưa ký kết hợp đồng chính thức và đợi đến khi Thế vận hội Mùa hè 2012 kết thúc để quyết định tương lại của mình.[5] Ngày 26 tháng 7, Chelsea thông báo họ đã chính thức có được Oscar với bản hợp đồng 5 năm, giá chuyển nhượng không được tiết lộ nhưng ước tính vào khoảng 25 triệu £.[6][7] Tại Chelsea, anh khoác áo số 11, số áo trước đây thuộc về Didier Drogba.[8] Oscar có trận đấu chính thức đầu tiên cho Chelsea khi vào sân thay cho Eden Hazard ở phút 64 trong trận thắng Wigan Athletic 2-0 ngày 19 tháng 8 năm 2012. Anh cũng được vào sân từ băng ghế dự bị trong trận siêu cúp châu Âu 2012 với Atletico Madrid nhưng Chelsea đã để thua 4–1 trong trận này.[9]
Ngay 19 tháng 9, Oscar có trận đấu chính thức đầu tiên cho Chelsea tại UEFA Champions League và là lần đầu tiên anh có mặt trong đội hình xuất phát của Chelsea.[10] Anh đã lập một cú đúp trước Juventus giúp Chelsea dẫn trước 2-0 trong đó bàn thắng thứ hai của anh được đánh giá là hoàn hảo từ động tác đỡ bóng cho đến dứt điểm.[11] Tuy nhiên Chelsea cuối cùng lại để Juventus cầm hòa với tỷ số 2-2 và Oscar phải rời sân vì chấn thương mắt cá chân phải.[12] Oscar đã được UEFA đã trao danh hiệu "Cầu thủ xuất sắc nhất trận" và Goal.com cũng chấm điểm anh cao nhất trận.[13][14] Trong hai trận đấu lượt đi và về với Shakhtar Donetsk tại vòng bảng UEFA Champions League, Oscar đã có hai bàn thắng, trong đó có một pha bắt volley thành bàn vào lưới trống từ khoảng cách hơn 40 m.[15][16] Oscar sau đó cũng ghi bàn trong trận đấu cuối cùng của Chelsea tại Champions League 2012-13 khi đội bóng này đã bị loại sau vòng bảng, trong chiến thắng 6-1 trước Nordsjælland.[17]
Anh có bàn thắng đầu tiên cho Chelsea tại Premier League trong chiến thắng 8-0 trước Aston Villa từ chấm phạt đền ngày 23 tháng 12.[18] Ngày 14 tháng 2 năm 2013, khi vừa vào sân mới hơn một phút thay thế Juan Mata, Oscar đã ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu với Sparta Praha tại vòng 1/32 Europea League 2012-13.[19]
Anh kết thúc mùa giải bằng danh hiệu vô địch đầu tiên với Chelsea là UEFA Europa League.[20] Sau đó một ngày, bàn thắng của Oscar trong trận đấu với Juventus được bình chọn là bàn thắng đẹp nhất mùa giải của Chelsea.[21]
Mùa giải 2013-14
[sửa | sửa mã nguồn]Oscar trở thành cầu thủ đầu tiên của Chelsea ghi bàn tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2013-14 bằng bàn thắng mở tỉ số 1-0 trong chiến thắng trước Hull City ngày 18 tháng 8.[22] Ngày 18 tháng 9, Oscar có mùa giải thứ hai liên tiếp ghi bàn thắng mở màn cho Chelsea tại UEFA Champions League với bàn mở tỉ số trong trận đấu với Basel nhưng sau đó Chelsea đã để thua ngược 2-1.[23] Tại vòng đấu tiếp theo của Giải Ngoại hạng Anh, anh ghi bàn mở tỉ số trong chiến thắng 2-0 trước Fulham.[24]
Ngày 23 tháng 11, Oscar có bàn thắng thứ năm tại Premier League mùa giải này trong chiến thắng 3-0 trước West Ham United.[25] Trong trận đấu đầu tiên của năm 2014, Oscar vào sân từ băng ghế dự bị đã ghi dấu ấn với một bàn thắng và hai đường kiến tạo đem về chiến thắng 3-0 trước Southampton.[26] Tại vòng 4 Cúp FA 2014, anh có pha sút phạt trực tiếp thành bàn đẹp mắt đem về chiến thắng tối thiểu 1-0 trước Stoke City.[27] Trong trận đấu kỷ niệm tròn 1000 trận huấn luyện viên Arsène Wenger dẫn đắt Arsenal, Oscar đã lập cú đúp đem về chiến thắng 6-0 cho Chelsea.[28]
Mùa giải 2014-15
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi tiền đạo Didier Drogba trở lại Chelsea trong kỳ chuyển nhượng hè 2014, Oscar đã nhường lại đàn anh số áo 11 và nhận số áo 8 do Frank Lampard để lại.[29] Ngày 24 tháng 9 năm 2014, từ khoảng cách 25m, Oscar có cú sút xa ghi bàn ấn định chiến thắng 2-1 của Chelsea trước Bolton Wanderers tại vòng ba League Cup 2014-15.[30] Anh có bàn thắng đầu tiên tại Giải ngoại hạng Anh 2014-15 ba ngày sau đó với pha đệm bóng cận thành mở tỉ số trong chiến thắng 3-0 trước Aston Villa.[31] Đến trận đấu vòng 8 Giải ngoại hạng Anh với Crystal Palace, Oscar mở tỉ số từ quả đá phạt trực tiếp ở khoảng cách 25m và có pha kiến tạo cho Cesc Fàbregas giúp Chelsea giành thắng lợi 2-1.[32]
Tại hai vòng đấu 21 và 22 của Giải ngoại hạng Anh 2014-15, anh đều là người ghi bàn thắng mở tỉ số cho Chelsea, giúp Chelsea lần lượt đánh bại Newcastle United 2-0 và Swansea City 5-0.[33][34].
Ngày 18 tháng 4 năm 2015, trong trận đấu với Manchester United, Oscar đã có một pha đánh gót tinh tế, vừa tầm để Eden Hazard băng lên ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu.[35] Cuối mùa giải 2014-2015, anh nhận được giải thưởng bàn thắng của năm - cho bàn thắng vẩy má ngoài đẳng cấp vào lưới QPR - do ban lãnh đạo Chelsea trao tặng.[36] Oscar đã cùng Chelsea vô địch Ngoại hạng Anh mùa giải 2014-2015 nhưng phong độ của anh trong nửa sau mùa giải 2014-15 là thất vọng khi không được đá chính đủ 90 phút trong tất cả các trận đấu của Chelsea từ cuối tháng 1 và đặc biệt là bị huấn luyện viên José Mourinho nói đã có màn trình diễn không đủ tốt khi bị thay ra chỉ sau 45 phút trận gặp Stoke City ngày 4 tháng 4.[37]
Mùa giải 2015-16
[sửa | sửa mã nguồn]Oscar trở thành cầu thủ đầu tiên ghi bàn cho Chelsea trong mùa giải 2015-2016 với pha đá phạt thành bàn mở tỉ số trong trận hòa 2-2 với Swansea City.[38] Ngày 16 tháng 9, anh ghi bàn từ chấm phạt đền trong chiến thắng 4-0 trước Maccabi Tel Aviv, trận đấu đầu tiên của Chelsea tại vòng bảng Champions League 2015-16.[39] Trong chuỗi phong độ tệ hại của Chelsea khiến huấn luyện viên José Mourinho mất việc, phong độ của Oscar cũng không được tốt khiến anh phải thường xuyên ngồi ghế dự bị.[40] Trong trận đấu đầu tiên của Chelsea kể từ khi Mourinho bị sa thải, Oscar là người ghi bàn thắng nâng tỉ số lên 3-0 trong chiến thắng trước Sunderland.[41] Tuy nhiên một tuần sau đó, trong trận đấu đầu tiên dưới thời tân huấn luyện viên Guus Hiddink, anh trượt ngã đá hỏng quả phạt đền cuối trận khiến Chelsea phải chịu chia điểm với Watford.[42]
Tháng 5 năm 2017. Chelsea giành chức vô địch Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2016–17 và Oscar dù đã rời câu lạc bộ vẫn đủ điều kiện nhận huy chương do đã ra sân thi đấu chín trận tại Ngoại hạng Anh cho Chelsea trước khi đến Trung Quốc.[43]
Thượng Hải SIPG
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 23 tháng 12 năm 2016, đội bóng đang thi đấu tại Chinese Super League là Thượng Hải SIPG đi đến thỏa thuận chuyển nhượng Oscar với phí chuyển nhượng vào khoảng 60 triệu £.[44] Trong trận đấu chính thức đầu tiên trong màu áo mới, Oscar đã có được một pha lập công trong chiến thắng 3-0 trước đội bóng Thái Lan Sukhothai tại vòng play-off AFC Champions League 2017.[45] Anh có trận đấu đầu tiên tại Chinese Super League trong trận thắng 5-1 trước Trường Xuân Á Thái, trận đấu mà anh đã đem về cho đội bóng của mình một quả phạt đền.[46]
Tại vòng bảng AFC Champions League 2017, Oscar ghi được một bàn thắng trong trận thắng đậm Western Sydney Wanderers 5-1 nhưng bỏ lỡ hai quả phạt đền trong trận thua 1-0 trước Urawa Red Diamonds.[47][48]
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Các đội trẻ
[sửa | sửa mã nguồn]Với phong độ xuất sắc tại Internacional, Oscar được triệu tập vào đội tuyển U-20 Brasil tham dự Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2011 tại Colombia. U-20 Brasil giành chức vô địch sau khi đánh bại U-20 Bồ Đào Nha trong trận chung kết ngày 20 tháng 8 trong đó Oscar lập một hat-trick.[49] Anh cũng trở thành cầu thủ đầu tiên trong lịch sử ghi được hat-trick trong một trận chung kết bóng đá U-20 thế giới[50] và thành tích này được báo giới so sánh với cú hat-trick của Geoff Hurst tại World Cup 1966.[51]
Olympic 2012
[sửa | sửa mã nguồn]Oscar được triệu tập vào đội tuyển U-23 Brasil tham dự Thế vận hội Mùa hè 2012 tại Luân Đôn.[52] Trong trận mở màn thắng U-23 Ai Cập 3-2, anh đã kiến tạo cho Rafael da Silva và Leandro Damião ghi bàn.[53] Trận đấu tiếp theo với U-23 Belarus, Oscar ghi bàn ấn định chiến thắng 3-1 ở những phút bù giờ để đưa Brasil vào tứ kết.[54] Đến trận bán kết với U-23 Hàn Quốc ngày 7 tháng 8, anh tiếp tục có hai pha kiến tạo thành bàn, lần này là cho Rômulo và Leandro Damião.[55]
Tuy nhiên, trong trận chung kết, U-23 Brasil đã để thua U-23 Mexico 1-2 trong đó Oscar bỏ lỡ cơ hội gỡ hòa khi đánh đầu trượt trong tư thế trống trải ở phút bù giờ cuối cùng.[56]
Đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Oscar đã có trận đấu ra mắt đội tuyển quốc gia khi được vào thay người trong trận hòa 0-0 với Argentina vào tháng 9 năm 2011.[57] Anh có bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển trong trận giao hữu thua 3-4 trước Argentina.[58] Ngày 10 tháng 9 năm 2012, trong trận giao hữu thắng Trung Quốc 8-0, Oscar đã có ba đường chuyền thành bàn và ghi bàn ấn định tỉ số trên chấm 11m.[59]
Confederations Cup 2013
[sửa | sửa mã nguồn]Oscar đã cùng đội tuyển Brasil vô địch Cúp Liên đoàn các châu lục 2013 sau khi giành chiến thắng 3-0 trước Tây Ban Nha trong trận chung kết, trận đấu mà anh đã có một đường kiến tạo cho tiền đạo Neymar ghi bàn thắng thứ hai.[60]
World Cup 2014
[sửa | sửa mã nguồn]Oscar được huấn luyện viên Luiz Felipe Scolari triệu tập tham dự World Cup 2014 ngay tại quê hương.[61] Ngày 12 tháng 6, trong trận khai mạc của giải đấu và cũng là trận đấu đầu tiên trong sự nghiệp của Oscar tại giải vô địch bóng đá thế giới, anh đã ghi bàn ở những phút cuối của trận đấu, ấn định chiến thắng 3-1 của Brasil trước đội tuyển Croatia.[62] Trong trận bán kết với đội tuyển Đức, Oscar đã vượt qua sự truy cản của Jérôme Boateng để ghi bàn thắng danh dự cho đội chủ nhà Brasil trong trận thảm bại 7-1 trước Đức.[63] Anh là một trong hai cầu thủ của Brasil có tên trong đội hình tiêu biểu của World Cup 2014 do FIFA bầu chọn.[64]
Danh hiệu
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Internacional
Chelsea
Cảng Thượng Hải
Đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]U-20 Brasil
[sửa | sửa mã nguồn]Brasil
[sửa | sửa mã nguồn]Cá nhân
[sửa | sửa mã nguồn]- Đội hình tiêu biểu World Cup 2014 do FIFA bầu chọn
- Bàn thắng đẹp nhất mùa giải của Chelsea (2): 2012-13, 2014-15
Thống kê sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Giải đấu cấp bang [a] | Cúp quốc gia [b] | Cúp liên đoàn | Châu lục | Khác | Tổng cộng | ||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng đấu | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
São Paulo | 2008 | Série A | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | — | 1[c] | 0 | — | 1 | 0 | ||
2009 | 11 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | — | 1[d] | 0 | — | 13 | 0 | ||||
Tổng cộng | 11 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | — | 2 | 0 | — | 14 | 0 | ||||
Internacional | 2010 | Série A | 5 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 1[e] | 0 | 6 | 0 | |
2011 | 26 | 10 | 12 | 0 | 0 | 0 | — | 6[d] | 3 | — | 44 | 13 | ||||
2012 | 5 | 1 | 9 | 4 | 0 | 0 | — | 6[d] | 1 | — | 20 | 6 | ||||
Tổng cộng | 36 | 11 | 21 | 4 | 0 | 0 | — | 12 | 4 | 1 | 0 | 70 | 19 | |||
Chelsea | 2012–13 | Premier League | 34 | 4 | — | 7 | 2 | 5 | 0 | 15[f] | 6 | 3[g] | 0 | 64 | 12 | |
2013–14 | 33 | 8 | — | 3 | 2 | 0 | 0 | 10[h] | 1 | 1[i] | 0 | 47 | 11 | |||
2014–15 | 28 | 6 | — | 2 | 0 | 4 | 1 | 7[h] | 0 | — | 41 | 7 | ||||
2015–16 | 27 | 3 | — | 4 | 3 | 1 | 0 | 7[h] | 2 | 1[j] | 0 | 40 | 8 | |||
2016–17 | 9 | 0 | — | 0 | 0 | 2 | 0 | — | — | 11 | 0 | |||||
Tổng cộng | 131 | 21 | — | 16 | 7 | 12 | 1 | 39 | 9 | 5 | 0 | 203 | 38 | |||
Cảng Thượng Hải | 2017 | Chinese Super League | 22 | 3 | — | 6 | 3 | — | 12[k] | 3 | — | 40 | 9 | |||
2018 | 29 | 12 | — | 3 | 0 | — | 8[k] | 4 | — | 40 | 16 | |||||
2019 | 28 | 9 | — | 3 | 2 | — | 10[k] | 3 | 1[l] | 0 | 42 | 14 | ||||
2020 | 16 | 5 | — | 1 | 1 | — | 6[k] | 0 | — | 23 | 6 | |||||
2021 | 22 | 5 | — | 3 | 0 | — | 0 | 0 | — | 25 | 5 | |||||
2022 | 3 | 1 | — | 2 | 1 | — | — | — | 5 | 2 | ||||||
2023 | 30 | 9 | — | 2 | 0 | — | 1 | 0 | — | 33 | 9 | |||||
Tổng cộng | 150 | 44 | — | 20 | 7 | — | 37 | 10 | 1 | 0 | 207 | 61 | ||||
Tổng cộng sự nghiệp | 328 | 76 | 21 | 4 | 36 | 14 | 12 | 1 | 90 | 23 | 8 | 0 | 495 | 118 |
- ^ Bao gồm Campeonato Paulista,
- ^ Bao gồm FA Cup, Cúp quốc gia Trung Quốc
- ^ Số lần ra sân tại Copa Sudamericana
- ^ a b c Số lần ra sân tại Copa Libertadores
- ^ Số lần ra sân tại FIFA Club World Cup
- ^ Sáu trận và năm bàn thắng thuộc khuôn khổ UEFA Champions League, chín lần ra sân và một bàn thắng tại UEFA Europa League
- ^ một lần ra sân tại UEFA Super Cup, hai lần ra sân tại FIFA Club World Cup
- ^ a b c Số lần ra sân tại UEFA Champions League
- ^ Số lần ra sân tại UEFA Super Cup
- ^ Số lần ra sân tại FA Community Shield
- ^ a b c d Số lần ra sân tại AFC Champions League
- ^ Số lần ra sân tại Chinese Super Cup
Đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Số trận thi đấu
[sửa | sửa mã nguồn]- Tính đến ngày 11 tháng 10 năm 2016.[74]
Brasil | ||
---|---|---|
Năm | Trận | Bàn |
2011 | 2 | 0 |
2012 | 10 | 4 |
2013 | 15 | 4 |
2014 | 16 | 3 |
2015 | 4 | 1 |
2016 | 1 | 0 |
Tổng cộng | 48 | 12 |
Bàn thắng cho đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Cập nhật: 10 tháng 9 năm 2012.
Số thứ tự | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 9 tháng 6 năm 2012 | Sân vận động MetLife, New Jersey, Hoa Kỳ | Argentina | 2–2 | 3–4 | Giao hữu |
2. | 10 tháng 9 năm 2012 | Sân vận động Arruda, Recife, Brasil | Trung Quốc | 8–0 | 8–0 | Giao hữu |
3 | 11 tháng 10 năm 2012 | Sân vận động Swedbank, Malmö, Thụy Điển | Iraq | 1–0 | 6–0 | Giao hữu |
4 | 2–0 | |||||
5. | 21 tháng 3 năm 2013 | Sân vận động Genève, Genève, Thụy Sĩ | Ý | 2–0 | 2–2 | Giao hữu |
6. | 9 tháng 6 năm 2013 | Arena do Grêmio, Porto Alegre, Brasil | Pháp | 1–0 | 3–0 | Giao hữu |
7. | 12 tháng 10 năm 2013 | Sân vận động World Cup Seoul, Seoul, Hàn Quốc | Hàn Quốc | 2–0 | 2–0 | Giao hữu |
8. | 15 tháng 10 năm 2013 | Sân vận động Quốc gia Bắc Kinh, Bắc Kinh, Trung Quốc | Zambia | 1–0 | 2–0 | Giao hữu |
9. | 5 tháng 3 năm 2014 | Soccer City, Johannesburg, Nam Phi | Nam Phi | 1–0 | 5–0 | Giao hữu |
10. | 12 tháng 6 năm 2014 | Arena Corinthians, São Paulo, Brasil | Croatia | 3–1 | 3–1 | World Cup 2014 |
11. | 8 tháng 7 năm 2014 | Sân vận động Mineirão, Belo Horizonte, Brasil | Đức | 1–7 | 1–7 | World Cup 2014 |
12. | 26 tháng 3 năm 2015 | Stade de France, Saint-Denis, Pháp | Pháp | 1–1 | 3–1 | Giao hữu |
Cuộc sống gia đình
[sửa | sửa mã nguồn]Oscar mồ côi cha từ năm anh ba tuổi. Cha anh, ông Oscar dos Santos Emboaba Sr vốn là một cầu thủ nghiệp dư và nghề nghiệp chính thức của ông là một nhân viên bán hàng đồ nội thất.[75] Vợ của Oscar là Ludmila, một người phụ nữ gốc Nhật Bản và hai người kết hôn vào năm 2011.[76] Hai vợ chồng sinh được cô con gái tên là Júlia vào ngày 5 tháng 6 năm 2014 và một cậu con trai tên Caio sinh ngày 11/4/2016 [77]
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “2014 FIFA World Cup Brazil: List of players: Brazil” (PDF). FIFA. 14 tháng 7 năm 2014. tr. 6. Bản gốc (PDF) lưu trữ 30 Tháng sáu năm 2014.
- ^ a b c “Oscar: Overview”. Premier League. Truy cập 17 Tháng tư năm 2018.
- ^ a b Hoài Đức (ngày 11 tháng 7 năm 2012). “"Tất tần tật" về Oscar, tân binh 25 triệu bảng của Chelsea”. Bóng Đá +. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2012.
- ^ Đức Hùng (ngày 21 tháng 7 năm 2012). “Tân binh của Chelsea: "Số 10 Brazil phải thuộc về Oscar"”. TTVH Online. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Brazilian midfielder Oscar says he has had Chelsea medical”. BBC Sport. ngày 21 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Chelsea sign Brazil midfielder Oscar on five-year deal”. BBC sports. ngày 26 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2012.
- ^ Tùng Lâm (ngày 26 tháng 7 năm 2012). “Oscar chính thức cập bến Chelsea”. VTC News. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2012.
- ^ Minh Chiến (ngày 6 tháng 8 năm 2012). “Oscar tiếp quản số áo huyền thoại của Drogba tại Chelsea”. TTVH Online. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2012.
- ^ “UEFA Super Cup 2012 – Chelsea-Atlético –”. UEFA. ngày 31 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2012.
- ^ coner - CFCVN News Team (Theo ChelseaFC) (ngày 20 tháng 9 năm 2012). “OSCAR: MÀN RA MẮT HOÀN HẢO”. Chelseafc.com.vn. Bản gốc lưu trữ 22 tháng Chín năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2012.
- ^ Phù Sa (ngày 20 tháng 9 năm 2012). “Oscar tạo ấn tượng mạnh với tuyệt phẩm vào lưới Juventus”. Dân Trí. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2012.
- ^ Minh Tâm (ngày 20 tháng 9 năm 2012). “Chelsea 2-2 Juve: Không có Oscar cho Chelsea!”. Bongdaplus. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2012.
- ^ Quốc Thắng (ngày 21 tháng 9 năm 2012). “"Giải Oscar"cho... Oscar!”. Tuổi Trẻ Online. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2012.
- ^ George Ankers (ngày 20 tháng 9 năm 2012). “Player Ratings: Chelsea 2-2 Juventus”. Goal.com. Bản gốc lưu trữ 26 Tháng mười một năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2012.
- ^ Phù Sa (ngày 24 tháng 10 năm 2012). “Chelsea gục ngã trên sân của Shakhtar”. Dân trí. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2012.
- ^ “Oscar ghi 'siêu phẩm', Chelsea thắng may mắn”. Congannghean.vn. ngày 8 tháng 11 năm 2012. Bản gốc lưu trữ 10 Tháng mười một năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2012.
- ^ McNulty, Phil (ngày 5 tháng 12 năm 2012). “Chelsea 6-1 Nordsjaelland”. Bbc.co.uk. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2012.
- ^ CHIP (ngày 24 tháng 12 năm 2012). “Chelsea 8-0 Aston Villa: Mưa bàn thắng ở Stamford Bridge”. Bóng Đá +. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2012.
- ^ “Oscar's night as Chelsea beat Sparta”. UEFA. ngày 14 tháng 2 năm 2013.
- ^ “Rafa Benitez's parting gift: Chelsea win Europa League”. The Independent. ngày 15 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2013.
- ^ “DOUBLE DELIGHT FOR MATA AT AWARDS CEREMONY”. Chelsea F.C. ngày 16 tháng 7 năm 2013.
- ^ Phù Sa (ngày 18 tháng 8 năm 2013). “Chelsea thắng nhẹ chào mừng Mourinho trở lại”. Dân Trí. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2013.
- ^ Văn Biển (ngày 19 tháng 9 năm 2013). “Chelsea 1-2 Basel: Công cùn, thủ kém, The Blues thua ngược tại Stamford Bridge”. Thể thao và Văn hoá. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2013.
- ^ “Chelsea 2-0 Fulham: Thắng derby, "The Blues" tạm thời lên đỉnh”. Thể thao và Văn hoá. ngày 21 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2013.
- ^ “MATCH REPORT: WEST HAM UNITED 0 CHELSEA 3”. Chelsea FC. ngày 23 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Southampton 0-3 Chelsea: Đêm rực sáng của Oscar!”. Chelseafc.com.vn. ngày 2 tháng 1 năm 2014. Bản gốc lưu trữ 2 Tháng Một năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2014.
- ^ Phù Sa (ngày 27 tháng 1 năm 2014). “Oscar tỏa sáng giúp Chelsea vượt qua Stoke City”. Dân Trí. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2014.
- ^ Phù Sa (ngày 22 tháng 3 năm 2014). “Chelsea chà đạp Arsenal trong ngày trọng đại của Wenger”. Dân Trí. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2014.
- ^ Tam Phong (ngày 16 tháng 8 năm 2014). “Chelsea công bố số áo: Cech vẫn là số 1, Oscar thừa kế số 8 của Lampard”. Bóng Đá +. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2014.
- ^ Minh Việt (ngày 26 tháng 9 năm 2014). “Chelsea: Không thể lãng quên Oscar!”. Bóng Đá +. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2014.
- ^ “Diego Costa's outstanding start to his career at Chelsea continued as he grabbed his eighth goal to help the leaders to victory against Aston Villa”. BBC Sport. ngày 27 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2014.
- ^ “Crystal Palace 1-2 Chelsea”. BBC Sport. ngày 18 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2014.
- ^ “Chelsea 2-0 Newcastle: Jose Mourinho watches Oscar and Diego Costa complete comfortable win against John Carver's Magpies”. Mail Online. ngày 10 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2015.
- ^ Rawlings, Owen (ngày 17 tháng 1 năm 2015). “Swansea 0-5 Chelsea”. BBC Sport. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2015.
- ^ “Chelsea 1-0 Manchester United: Premier League final score sees Eden Hazard fire Blues one step closer to title”. Mail Online. ngày 18 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2015.
- ^ “Hazard at the double”. Chelsea FC. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2015.
- ^ “Chelsea midfielder Oscar is learning the hard way... if you take on Jose Mourinho, he will take you off”. Mail Online. ngày 7 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2015.
- ^ “Chelsea 2-2 Swansea”. BBC Sport. ngày 8 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2015.
- ^ Cryer, Andy. “Chelsea 4–0 Maccabi Tel Aviv”. BBC Sport. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2015.
- ^ “Chelsea started last season in devastating form and ran away with the Premier League, but this time Jose Mourinho's men are a shambles... so which players are to blame?”. Mail Online. ngày 26 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2015.
- ^ “Chelsea 3-1 Sunderland: Branislav Ivanovic, Pedro and Oscar on target as Blues turn on the style in front of new boss Guus Hiddink”. Mail Online. ngày 19 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2015.
- ^ Osborne, Chris (ngày 26 tháng 12 năm 2015). “Chelsea 2-2 Watford”. BBC Sport. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2015.
- ^ “Chelsea được trao Cup Ngoại hạng Anh khi nào và ai sẽ đón nhận”. VNExpress. 16 tháng 5 năm 2017. Truy cập 17 tháng Năm năm 2017.
- ^ “Oscar: Chelsea midfielder to join Shanghai SIPG for about £60m”. BBC Sport. 23 tháng 12 năm 2016. Truy cập 2017-05-176. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|ngày truy cập=
(trợ giúp) - ^ “Oscar ghi bàn trong trận ra mắt cùng CLB Trung Quốc”. VNExpress. 8 tháng 2 năm 2017. Truy cập 17 tháng Năm năm 2017.
- ^ “Đội của Oscar thắng đậm trận ra quân giải VĐQG Trung Quốc”. VNExpress. 5 tháng 3 năm 2017. Truy cập 17 tháng Năm năm 2017.
- ^ “Hulk và Oscar ghi bàn, giúp đội nhà đè bẹp CLB Australia”. VNExpress. 1 tháng 3 năm 2017. Truy cập 17 tháng Năm năm 2017.
- ^ Duerden, John (ngày 11 tháng 4 năm 2017). “Oscar missed two penalties as Shanghai SIPG lose to Urawa”. ESPN FC. Truy cập 17 tháng Năm năm 2017.
- ^ “Oscar treble wins thrilling final for Brazil”. FIFA.com. ngày 21 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ 27 Tháng mười một năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ “Cometh the hour, cometh the Oscar”. FIFA.com. ngày 21 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ 25 Tháng tám năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2012.
- ^ Phá Hoàng (ngày 10 tháng 7 năm 2012). “Vung tiền tấn, Chelsea có 'số 10 mới' của Brazil”. VTC News. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Brazil name strong Olympic squad for London 2012”. BBC Sport. ngày 5 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Brazil 3-2 Egypt: Neymar and Rafael on target as Samba Boys edge five-goal thriller”. goal.com. ngày 27 tháng 7 năm 2012. Bản gốc lưu trữ 3 Tháng mười hai năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Brazil 3-1 Belarus: Neymar dazzles to send Selecao through to Olympics quarter-finals”. goal.com. ngày 29 tháng 7 năm 2012. Bản gốc lưu trữ 28 tháng Mười năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Brazil 3-0 South Korea: Leandro Damiao at the double as impressive Selecao cruises into Olympics final”. Yahoo Sports. ngày 7 tháng 8 năm 2012. Bản gốc lưu trữ 19 Tháng Ba năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2012.
- ^ Vĩnh Tường (ngày 11 tháng 8 năm 2012). “Buộc Brazil cúi đầu, Mexico giành HCV Olympic”. VietNamNet. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2012.
- ^ Minh Chiến (ngày 28 tháng 7 năm 2012). “Oscar khẳng định sẽ thích ứng với mọi vị trí ở Chelsea”. TTVH Online. Bản gốc lưu trữ 4 Tháng Ba năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Messi Hat Trick Fires Argentina to 4-3 Victory Over Brazil”. Huffington Post. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2012.
- ^ Duy Hồng (ngày 11 tháng 9 năm 2012). “Neymar lập hat-trick, Brazil "hủy diệt" Trung Quốc 8-0”. Bongdaplus. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2012.
- ^ “Braziliant! Neymar inspires Samba stars to stunning victory over Spain to lift Confederations Cup... now they want World Cup glory”. Mail Online. ngày 30 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ “World Cup 2014: Kaka and Robinho omitted from Brazil squad”. BBC Sports. ngày 3 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Brazil 3-1 Croatia”. BBC Sport. ngày 12 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Brazil 1-7 Germany: Hosts stunned as Thomas Muller and Co score four goals in SIX phút to reach World Cup final”. Mail Online. ngày 8 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ “Messi không có tên trong đội hình tiêu biểu World Cup 2014”. Thanh Niên Online. ngày 17 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2015.
- ^ “¡Inter, nuevo campeón de la Recopa!”.
- ^ McNulty, Phil (1 tháng 3 năm 2015). “Chelsea 2–0 Tottenham Hotspur”. BBC Sport. Truy cập 27 Tháng tư năm 2019.
- ^ McNulty, Phil (15 tháng 5 năm 2013). “Benfica 1–2 Chelsea”. BBC Sport. Bản gốc lưu trữ 25 Tháng Một năm 2016.
- ^ “上海上港夺中超首冠 纪录夜翻开历史新篇章” (bằng tiếng Trung). Thecfa.cn. 8 tháng 11 năm 2018. Truy cập 30 tháng Bảy năm 2020.
- ^ “超级杯-王燊超传射侯永永首秀 上港2-0胜国安夺冠” (bằng tiếng Trung). Sports.sina.com.cn. 23 tháng 2 năm 2019. Truy cập 30 tháng Bảy năm 2020.
- ^ Oscar tại Soccerbase
- ^ “Oscar ESPN Stats”. ESPN FC. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
- ^ “Oscar Premier League Player Profile”. Premier League official website. Bản gốc lưu trữ 24 Tháng mười hai năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015. Chú thích có tham số trống không rõ:
|1=
(trợ giúp) - ^ Oscar dos Santos Emboaba Júnior tại Soccerway
- ^ Oscar dos Santos Emboaba Júnior tại National-Football-Teams.com
- ^ coner - CFCVN News Team (Theo Telegraph) (ngày 13 tháng 3 năm 2013). “OSCAR: SẺ CHIA NỖI NIỀM”. Chelseafc.com.vn. Bản gốc lưu trữ 13 Tháng Ba năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2013.
- ^ Barlow, Matt (ngày 9 tháng 12 năm 2012). “Oscar determined to make Chelsea champions of the world after European failure”. London: Daily Telegraph. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2014.
- ^ “Nasce filha do jogador Oscar da Seleção brasileira [Daughter of Brazil national team player Oscar born]” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). São Paulo: Globo. ngày 5 tháng 6 năm 2014.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Oscar dos Santos Emboaba Júnior tại National-Football-Teams.com
- Oscar dos Santos Emboaba Júnior tại Soccerway
- Oscar dos Santos Emboaba Júnior – Thành tích thi đấu FIFA
- Người São Paulo
- Cầu thủ bóng đá nam Brasil
- Cầu thủ bóng đá São Paulo FC
- Cầu thủ bóng đá Sport Club Internacional
- Cầu thủ bóng đá Chelsea F.C.
- Cầu thủ bóng đá Premier League
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2014
- Sinh năm 1991
- Nhân vật còn sống
- Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2012
- Huy chương bóng đá Thế vận hội
- Huy chương Thế vận hội Mùa hè 2012
- Huy chương bạc Thế vận hội của Brasil
- Cầu thủ bóng đá Thế vận hội của Brasil
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil
- Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2013
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Trung Quốc
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-20 quốc gia Brasil
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Brasil
- Cầu thủ bóng đá nam Brasil ở nước ngoài
- Cầu thủ bóng đá Campeonato Brasileiro Série A
- Tiền vệ bóng đá nam
- Cầu thủ vô địch UEFA Europa League