Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Maria Yuryevna Sharapova”
Dòng 141: | Dòng 141: | ||
|-bgcolor="#CCFFCC" |
|-bgcolor="#CCFFCC" |
||
|[[2007]]||[[WTA Tour Championships|Madrid]]||{{Cờ|Bỉ}} [[Justine Henin]]||5-7, 7-5, 6-3 |
|[[2007]]||[[WTA Tour Championships|Madrid]]||{{Cờ|Bỉ}} [[Justine Henin]]||5-7, 7-5, 6-3 |
||
|-bgcolor="#FFCCFF" |
|||
|[[2012]]||[[WTA Tour Championships|Istanbul]]||{{Cờ|Mỹ}} [[Serena Williams]]||6-3, 6-4 |
|||
|} |
|} |
||
Phiên bản lúc 02:09, ngày 12 tháng 6 năm 2013
Quốc tịch | Nga |
---|---|
Nơi cư trú | LongBoat Key, Florida, Hoa Kỳ |
Sinh | 19 tháng 4, 1987 Nước Nga Xô viết, Nyagan, Siberia |
Chiều cao | 1,88 m (6 ft 2 in)[chuyển đổi: số không hợp lệ] |
Lên chuyên nghiệp | 2001 |
Tay thuận | Tay phải; Revers hai tay |
Tiền thưởng | 16,428,154$ |
Đánh đơn | |
Thắng/Thua | 408 - 100 |
Số danh hiệu | 24 |
Thứ hạng cao nhất | 1 (22/8/2005[1]) |
Thứ hạng hiện tại | 1 (11 tháng 6, 2012) |
Thành tích đánh đơn Gland Slam | |
Úc Mở rộng | Vô địch (2008) |
Pháp mở rộng | Vô địch (2012) |
Wimbledon | Vô địch (2004) |
Mỹ Mở rộng | Vô địch (2006) |
Đánh đôi | |
Thắng/Thua | 23-17 |
Số danh hiệu | 3 |
Thứ hạng cao nhất | 41 |
Cập nhật lần cuối: 22 tháng 8, 2011. |
Maria Yuryevna Sharapova (tiếng Nga: ⓘ; sinh ngày 19 tháng 4 năm 1987) là một vận động viên quần vợt quốc tịch Nga hiện sinh sống ở Mỹ và là nữ vận động viên kiếm được nhiều tiền nhất trên thế giới.[2]
Sharapova cho đến thời điểm này đã giành được trọn bộ 4 danh hiệu Grand Slam ở nội dung đánh đơn. Danh hiệu đầu tiên là Wimbledon 2004, khi hạ Serena Williams tại trận chung kết, tiếp đó là tại Mỹ Mở rộng, sau khi thắng Justine Henin tại trận chung kết năm 2006. Danh hiệu thứ ba là tại Úc Mở rộng đánh bại Ana Ivanović năm 2008. Danh hiệu thứ tư, hoàn tất bộ sưu tập Grand Slam sự nghiệp tại giải Pháp Mở rộng năm 2012 khi vượt qua Sara Errani.
Sự nghiệp
Năm 2004, Sharapova trở thành người thứ ba trẻ nhất trong lịch sử giành chức vô địch Wimbledon đơn nữ (sau Lottie Dod và Martina Hingis), người trẻ thứ hai nếu ta bắt đầu tính từ kỷ open khi đánh bại Ai Sugiyama (5-7, 7-5, 6-1) ở tứ kết, Lindsay Davenport (2-6, 7-6, 6-1) ở trận bán kết, và ĐKVĐ Serena Williams (6-1, 6-4) ở trận chung kết. Cô cũng trở thành người Nga đầu tiên giành danh hiệu vô địch tại đây. Sharapova kết thúc năm 2004 với chiến thắng tại WTA Championships, khi hạ Williams (4-6, 6-2, 6-4) sau khi bị dẫn 0-4 ở set quyết định.
Từ tháng 06, 2004 đến trận bán kết Wimbledon 2005, Sharapova đã có một mạch 22 trận bất bại trên mặt sân cỏ (trong đó có 2 chức vô địch liên tiếp ở Birmingham và một chức vô địch ở Wimbledon). Sau thành công trong năm 2004, Sharapova tiếp tục trụ vững, cô lọt vào bán kết giải Úc mở rộng 2005, và chỉ chịu thua sát nút Serena Williams 2-6, 7-5, 8-6, sau khi đã có 3 cơ hội kết thúc trận đấu (match point).
Tại giải Wimbledon năm 2005, trên đường bảo vệ danh hiệu của mình Sharapova thẳng tiến tới trận bán kết mà không thua một séc nào cả, nhưng tới đây cô đã vấp phải tay vợt đang hồi sinh Venus Williams và đành chịu thua với tỉ số (7-6, 6-1). Đồng thời chấm dứt mạch 22 trận bất bại trên mặt sân cỏ của mình.
Cũng trong năm này, do Lindsay Davenport bị chấn thương ở trận chung kết Wimbledon nên phải nghỉ thi đấu trong khoảng thời gian từ sau Wimbledon đến sau US Open, vì vậy mà lần đầu tiên Sharapove leo lên vị trí số một thế giới và ở tại vị trí này trong vòng sáu tuần lễ cho đến khi Davenport giành được chức vô địch giải Tier I (chỉ kém 4 giải Grand Slam) tại Zürich vào tháng 10.
Cũng trong năm 2005, một điều hy hữu đã xảy ra với Sharapova. Tại 4 giải Grand Slam cô đã thua 4 tay vợt mà sau đó đã giành chức vô địch. (Thua Kim Clijsters ở bán kết US Open, Serena Williams ở bán kết Úc Mở rộng, Justine Henin-Hardenne ở giải Roland Garros và Venus Williams ở bán kết Wimbledon.
Năm 2006 Sharapova giành danh hiệu đầu tiên trong năm ở giải Pacific Life Open tại Indian Wells (giải được xếp hạng Tier 1), sau khi hạ hạt giống số 4 Elena Dementieva ở trận chung kết, 6-1 6-2. Đông thời Sharapova và Dementieva trở thành hai tay vợt Nga đầu tiên lọt vào trận chung kết của giải đấu này. Ngay sau đó, Sharapova cũng lọt vào trận chung kết của giải Nasdaq-100 Open, nhưng đã chịu thua Svetlana Kuznetsova 6-4, 6-3.
Danh hiệu thứ hai của năm 2006 mà cô giành được là giải Acura Classic ở San Diego, sau khi thắng Clijsters, 7-5, 7-5. Đây là chiến thắng đầu tiên của Sharapova trước Clijsters sau năm lần gặp mặt.
Được coi là một trong những ứng cử viên cho chức vô địch ở giải Mỹ Mở rộng, cô đã xuất sắc giành chức vô địch Grand Slam thứ hai trong sự nghiệp của mình khi lần lượt đánh bại Mauresmo ở trận bán kết với tỉ số 6-0, 4-6, 6-0, rồi Henin-Hardenne ở trận chung kết.
Vào tháng 10 Sharapova giành danh hiệu thứ tư của năm khi vô địch giải Zurich Open 2006.
Cô giành danh hiệu thứ 15- cũng là danh hiệu thứ 5 trong năm sau chức vô địch giải Generali Ladies Linz, đánh bại ĐKVĐ Nadia Petrova sau 2 set.
Giải thưởng
2003
- Tay vợt nữ của WTA mới xuất hiện ấn tượng nhất
- Nữ vẫn động viên thể thao quyến rũ nhất (Maxim)
2004
- Tay vợt nữ của WTA xuất sắc nhất
- Tay vợt nữ của WTA tiến bộ nhất
- Nữ vẫn động viên thể thao quyến rũ nhất (Maxim)
2005
- Tay vợt nữ xuất sắc nhất do ESPN trao tặng
- Tay vợt Nga xuất sắc nhất do Liên đoàn quần vợt Nga trao tặng
- Nữ vẫn động viên thể thao quyến rũ nhất (Maxim)
2006
- Nữ vẫn động viên thể thao quyến rũ nhất (Maxim)
- Tay vợt Nga xuất sắc nhất do Liên đoàn quần vợt Nga trao tặng
Đời sống riêng tư
- Sharapova đã sống ở Mỹ từ khi cô còn nhỏ nhưng cô vẫn giữ quốc tịch Nga.
- Gần đây Sharapova đã mua một ngôi nhà nhìn ra bờ biển ở Manhattan Beach, ngoại ô Los Angeles, California, nhưng suốt thời gian trong năm, cô sống gần cơ sở huấn luyện của IMG ở Bradenton.
- Năm 19, Sharapova đã hoàn thành xong chương trình trung học.[3]
- Sharapova có một thói quen là hay hét trên sân thi đấu. Là tay vợt ồn áo nhất kể từ khi Monica Seles từ giã sự nghiệp, một tờ bào lá cải ở London đã viết "giọng hét của cô lúc cao điểm đạt tới âm lực 102 decibel" (ngang với còi của một ôtô cảnh sát).[4]
- Sharapova là bạn thân với tay vợt nữ người Nga Maria Kirilenko, nếu không thì không thân thiết với các tay vợt Nga khác.[5]
- Tên gọi thân mật của Sharapova là "Masha".[6]
- Sharapova tặng cây vợt mà cô đã sử dụng tại trận chung kết Wimbledon cho Regis Philbin khi quay Trực tiếp với Regis và Kelly (Live with Regis and Kelly).
- Sharapova là tay vợt Nga duy nhất đã giành được nhiều hơn một chức vô địch Grand Slam.
- Nhà tạo mốt mà Sharapova thích nhất là Marc Jacobs. Cô thỉnh thoảng tới dự các buổi trình diễn thời trang của ông.
Trích dẫn
- "Khi tôi cố gắng để trở thành tay vợt quần vợt hàng đầu, tôi không bao giờ nói tôi là thứ hai, tôi nói tôi muốn là số một".[7]
- "Sau khi đã suy nghĩ kĩ càng, cá nhân tôi tin rằng, cuộc đời tôi không chỉ là về một quả chuối". (Phát biểu trong buổi họp báo sau chức VĐ US Open khi có người cho rằng HLV của cô đã ra dấu để cô ăn một quả chuối)
Chung kết Grand Slam đơn nữ đã tham dự
Vô địch (4)
Năm | Giải đấu | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
2004 | Wimbledon | Serena Williams | 6-1, 6-4 |
2006 | Mỹ Mở rộng | Justine Henin-Hardenne | 6-4, 6-4 |
2008 | Úc Mở rộng | Ana Ivanović | 7-5, 6-3 |
2012 | Pháp Mở rộng | Sara Errani | 6-3, 6-2 |
Thua ở trận chung kết (2)
Năm | Giải đấu | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
2007 | Úc Mở rộng | Serena Williams | 6-1 6-2 |
2011 | Wimbledon | Petra Kvitova | 6-3, 6-4 |
2012 | Úc Mở rộng | Victoria Azarenka | 6-0,6-3 |
2013 | Pháp Mở rộng | Serena Williams | 6-4 6-4 |
Chung kết giải WTA Tour Championships đơn nữ đã tham dự
Vô địch (1)
Năm | Thành phố đăng cai | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
2004 | Los Angeles | Serena Williams | 4-6, 6-2, 6-4 |
Thua ở trận chung kết (1)
Năm | Thành phố đăng cai | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
2007 | Madrid | Justine Henin | 5-7, 7-5, 6-3 |
2012 | Istanbul | Serena Williams | 6-3, 6-4 |
Chung kết các giải WTA Tour đã tham dự
Vô địch (19)
|
|
Stt. | Ngày | Giải | Mặt sân | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả | |
1. | 29 tháng 09, 2003 | Tokyo | Cứng | Aniko Kapros | 2-6, 6-2, 7-6(5) | |
2. | 27 tháng 10, 2003 | Quebec | Cứng | Milagros Sequera | 6-2 bỏ cuộc | |
3. | 07 tháng 06, 2004 | Birmingham | Cỏ | Tatiana Golovin | 4-6, 6-2, 6-1 | |
4.|bgcolor="e5d1cb"|21 tháng 06, 2004|bgcolor="e5d1cb"| Wimbledon|bgcolor="e5d1cb"|Cỏ|bgcolor="e5d1cb"| Serena Williams |bgcolor="e5d1cb"|6-1, 6-4 | ||||||
5. | 27 tháng 09, 2004 | Seoul | Cứng | Marta Domachowska | 6-1, 6-1 | |
6. | 4 tháng 10, 2004 | Tokyo (2) | Cứng | Mashona Washington | 6-0, 6-1 | |
7.|bgcolor="ffffcc"|08 tháng 11, 2004|bgcolor="ffffcc"| WTA Championships, Los Angeles|bgcolor="ffffcc"|Cứng|bgcolor="ffffcc"| Serena Williams|bgcolor="ffffcc"|4-6, 6-2, 6-4 | ||||||
8.|bgcolor="#dfe2e9"|06 tháng 02, 2005|bgcolor="#dfe2e9"| Tōkyō|bgcolor="#dfe2e9"|Trải thảm | Lindsay Davenport|bgcolor="#dfe2e9"|6-1, 3-6, 7-6(5) | |||||
9. | 21 tháng 02, 2005 | Doha | Cứng | Alicia Molik | 4-6, 6-1, 6-4 | |
10. | 06 tháng 06, 2005 | Birmingham (2) | Cỏ | Jelena Jankovic | 6-2, 4-6, 6-1 | |
11.|bgcolor="#dfe2e9"|18 tháng 03, 2006|bgcolor="#dfe2e9"| Indian Wells|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"| Elena Dementieva|bgcolor="#dfe2e9"|6-1, 6-2 | ||||||
12.|bgcolor="#dfe2e9"|06 tháng 08, 2006|bgcolor="#dfe2e9"| San Diego|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"| Kim Clijsters|bgcolor="#dfe2e9"|7-5, 7-5 | ||||||
13.|bgcolor="e5d1cb"|09 tháng 09, 2006|bgcolor="e5d1cb"| Mỹ Mở rộng, Thành phố New York|bgcolor="e5d1cb"|Cứng|bgcolor="e5d1cb"| Justine Henin-Hardenne|bgcolor="e5d1cb"|6-4, 6-4 | ||||||
14.|bgcolor="#dfe2e9"|22 tháng 10, 2006|bgcolor="#dfe2e9"| Zürich|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"| Daniela Hantuchova|bgcolor="#dfe2e9"|6-1, 4-6, 6-3 | ||||||
15. | 29 tháng 10, 2006 | Linz, Áo | Cứng | Nadia Petrova | 7-5, 6-2 | |
16.|bgcolor="#dfe2e9"|06 tháng 08, 2007|bgcolor="#dfe2e9"| San Diego (2)|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"| Patty Schyder|bgcolor="#dfe2e9"|6-3, 3-6,6-1|- bgcolor="e5d1cb" | 17. | 26 tháng 1, 2008 | Úc Mở rộng, Úc | Cứng | Ana Ivanović | 7-5, 6-3 |
18. | 24 tháng 2, 2008 | Qatar Total Mở rộng, Doha | Cứng | Vera Zvonareva | 6–1, 2–6, 6–0 | |
19. | 13 tháng 4, 2008 | Bausch & Lomb Championships, Amelia Island, Florida,Mỹ | Đất nện | Dominika Cibulková | 7–6(7), 6–3 |
Thua ở trận chung kết (7)
Stt. | Ngày | Giải | Mặt sân | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
1.|bgcolor="#dfe2e9"|18 tháng 10, 2004|bgcolor="#dfe2e9"| Zürich|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"| Alicia Molik|bgcolor="#dfe2e9"|6-4, 2-6, 3-6 | |||||
2.|bgcolor="#dfe2e9"|21 tháng 03, 2005|bgcolor="#dfe2e9"| Miami|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"| Kim Clijsters|bgcolor="#dfe2e9"|3-6, 5-6 | |||||
3. | 20 tháng 02, 2006 | Dubai | Cứng | Justine Henin-Hardenne | 5-7, 2-6 |
4. | 30 tháng 03, 2006 | Miami (2) | Cứng | Svetlana Kuznetsova | 4-6, 3-6 |
5. | 27 tháng 1, 2007 | Úc Mở rộng | Cứng | Serena Williams | 1-6, 2-6 |
6. | 18 tháng 06, 2007 | Birmingham | Cỏ | Jelena Janković | 4-6, 6-3, 7-5 |
7. | 11 tháng 11, 2007 | WTA Tour Championships, Madrid | Cứng | Justine Henin | 5-7, 7-5, 6-3 |
Vô địch đôi nữ (3)
Stt. | Ngày | Giải | Mặt sân | Đồng đội | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
1. | 29 tháng 09, 2003 | Tokyo | Cứng | Tamarine Tanasugarn | Ansley Cargill Ashley Harkleroad |
7-6 (1), 6-0 |
2. | 20 tháng 10, 2003 | Luxembourg | Cứng | Tamarine Tanasugarn | Elena Tatarkova Marlene Weingartner |
6-1, 6-4 |
3. | 07 tháng 06, 2004 | Birmingham | Cỏ | Maria Kirilenko | Lisa Mcshea Milagros Sequera |
6-2, 6-1 |
Thua ở trận chung kết đôi nữ (1)
Stt. | Ngày | Giải | Mặt sân | Đồng đội | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
1. | 12 tháng 02, 2004 | Memphis | Cứng | Vera Zvonareva | Åsa Svensson Meilen Tu |
6-4, 7-6 (0) |
Bảng tổng kết thành tích
Để tránh việc nhầm lẫn do sự trùng lặp khi đếm, bảng sau đây chỉ được cập nhật khi một giải đấu đã hoàn toàn kết thúc. Lần cuối cùng cập nhật là sau Giải quần vợt Úc Mở rộng 2007
Giải đấu | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | SR |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Úc mở rộng | A | V1 | V3 | BK | BK | CK | VĐ | 1 / 6 |
Pháp mở rộng | A | V1 | TK | TK | V4 | BK | V4 | 0 / 6 |
Wimbledon | A | V4 | VĐ | BK | BK | V4 | V2 | 1 / 6 |
Mỹ mở rộng | A | V2 | V3 | BK | VĐ | V3 | A | 1 / 5 |
Grand Slam SR | 0 / 0 | 0 / 4 | 1 / 4 | 0 / 4 | 1 / 4 | 0 / 4 | 1 / 3 | 2 / 20 |
Grand Slam Thắng-Thua | 0-0 | 4-4 | 15-3 | 19-4 | 20-3 | 16-4 | 11-3 | N/A |
Tokyo | A | A | V2 | VĐ | BK | BK | 1 / 4 | |
Indian Wells | V2 | V1 | V4 | BK | VĐ | V4 | BK | 1 / 7 |
Miami | A | V1 | V4 | CK | CK | V4 | A | 0 / 4 |
Charleston | A | V1 | A | A | A | A | TK | 0 / 2 |
Berlin | A | A | V3 | TK | A | A | A | 0 / 2 |
Rome | A | A | V3 | BK | A | A | BK | 0 / 3 |
San Diego | A | A | TK | A | VĐ | VĐ | 2 / 3 | |
Montreal/Toronto | A | V1 | V3 | A | A | A | V3 | 0 / 3 |
Moskva | A | A | A | TK | TK | V2 | 0 / 3 | |
Zurich | A | A | CK | A | VĐ | A | 1 / 2 | |
WTA Tour Championships | A | A | VĐ | BK | BK | CK | 1 / 3 | |
Tổng số giải thi đấu | 2 | 14 | 20 | 15 | 15 | 14 | N/A | |
Số lần lọt vào trận chung kết | 0 | 2 | 6 | 4 | 7 | 1 | N/A | |
Số chức vô địch | 0 | 2 | 5 | 3 | 5 | 1 | N/A | |
Vị trí xếp hạng vào cuối năm | 186 | 32 | 4 | 4 | 2 | 5 | N/A |
A = Không tham gia giải đấu
SR = Tỉ lệ số lần đoạt chức vô địch trên tổng số lần tham dự giải
V1, V2, V3... = Vòng 1, Vòng 2, Vòng 3
TK = Tứ kết
BK = Bán kết
CK = Thua ở trận chung kết
VĐ = Vô địch
Chú thích
- ^ MARIA SHARAPOVA (RUS)
- ^ Martin, John (7 tháng 11 năm 2006). “The Highest Paid Female Athlete On The Planet; Why Sharapova Is So Hot”. ABC News. Truy cập 7 tháng 11, 2006. Đã định rõ hơn một tham số trong
|author=
và|last=
(trợ giúp) - ^ [1]
- ^ Sharapova's decibel levels
- ^ Good friend of a fellow Russian tennis player
- ^ Tiểu sử
- ^ Newbery|title=Sharapova proves her worth|date=10 tháng 9, 2006|accessdate=23 tháng 10, 2006
- "Maria puts world domination on hold". (11 tháng 11, 2005). New Straits Times, p. 42.
- "Sharapova makes 'too much noise'" by Piers Newbery, bbc.co.uk, 4 tháng 7, 2006, truy cập 5 tháng 9, 2006
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Maria Yuryevna Sharapova. |
- Thống kê về các trận giữa Sharapova với các đối thủ
- Trang chủ của Maria Sharapova
- Đoạn phim về cú đánh quyết định trận chung kết giải Mỹ mở rộng năm 2006
- Maria Sharapova tại Hiệp hội quần vợt nữ
- Maria Sharapova trên IMDb
- Đoạn phim khi Masha Sharapova nhận cúp vô địch giải Mỹ mở rộng năm 2006
Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt