Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Maria Yuryevna Sharapova”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 128: Dòng 128:
|-
|-
|-bgcolor="#CCFFCC"
|-bgcolor="#CCFFCC"
|[[2004]]||[[WTA Tour Championships|Los Angeles]]||{{Cờ|Hoa Kỳ}} [[Serena Williams]]||4-6, 6-2, 6-4
|[[2004]]||[[Los Angeles]]||{{Cờ|Hoa Kỳ}} [[Serena Williams]]||4-6, 6-2, 6-4
|}
|}



Phiên bản lúc 02:11, ngày 12 tháng 6 năm 2013

Maria Sharapova
Quốc tịch Nga
Nơi cư trúLongBoat Key, Florida, Hoa Kỳ
Sinh19 tháng 4, 1987
 Nước Nga Xô viết, Nyagan, Siberia
Chiều cao1,88 m (6 ft 2 in)[chuyển đổi: số không hợp lệ]
Lên chuyên nghiệp2001
Tay thuậnTay phải; Revers hai tay
Tiền thưởng16,428,154$
Đánh đơn
Thắng/Thua408 - 100
Số danh hiệu24
Thứ hạng cao nhất1 (22/8/2005[1])
Thứ hạng hiện tại1 (11 tháng 6, 2012)
Thành tích đánh đơn Gland Slam
Úc Mở rộngVô địch (2008)
Pháp mở rộngVô địch (2012)
WimbledonVô địch (2004)
Mỹ Mở rộngVô địch (2006)
Đánh đôi
Thắng/Thua23-17
Số danh hiệu3
Thứ hạng cao nhất41
Cập nhật lần cuối: 22 tháng 8, 2011.

Maria Yuryevna Sharapova (tiếng Nga: Мари́я Ю́рьевна Шара́пова; sinh ngày 19 tháng 4 năm 1987) là một vận động viên quần vợt quốc tịch Nga hiện sinh sống ở Mỹ và là nữ vận động viên kiếm được nhiều tiền nhất trên thế giới.[2]

Sharapova cho đến thời điểm này đã giành được trọn bộ 4 danh hiệu Grand Slam ở nội dung đánh đơn. Danh hiệu đầu tiên là Wimbledon 2004, khi hạ Serena Williams tại trận chung kết, tiếp đó là tại Mỹ Mở rộng, sau khi thắng Justine Henin tại trận chung kết năm 2006. Danh hiệu thứ ba là tại Úc Mở rộng đánh bại Ana Ivanović năm 2008. Danh hiệu thứ tư, hoàn tất bộ sưu tập Grand Slam sự nghiệp tại giải Pháp Mở rộng năm 2012 khi vượt qua Sara Errani.

Sự nghiệp

Năm 2004, Sharapova trở thành người thứ ba trẻ nhất trong lịch sử giành chức vô địch Wimbledon đơn nữ (sau Lottie DodMartina Hingis), người trẻ thứ hai nếu ta bắt đầu tính từ kỷ open khi đánh bại Ai Sugiyama (5-7, 7-5, 6-1) ở tứ kết, Lindsay Davenport (2-6, 7-6, 6-1) ở trận bán kết, và ĐKVĐ Serena Williams (6-1, 6-4) ở trận chung kết. Cô cũng trở thành người Nga đầu tiên giành danh hiệu vô địch tại đây. Sharapova kết thúc năm 2004 với chiến thắng tại WTA Championships, khi hạ Williams (4-6, 6-2, 6-4) sau khi bị dẫn 0-4 ở set quyết định.

Từ tháng 06, 2004 đến trận bán kết Wimbledon 2005, Sharapova đã có một mạch 22 trận bất bại trên mặt sân cỏ (trong đó có 2 chức vô địch liên tiếp ở Birmingham và một chức vô địch ở Wimbledon). Sau thành công trong năm 2004, Sharapova tiếp tục trụ vững, cô lọt vào bán kết giải Úc mở rộng 2005, và chỉ chịu thua sát nút Serena Williams 2-6, 7-5, 8-6, sau khi đã có 3 cơ hội kết thúc trận đấu (match point).

Tại giải Wimbledon năm 2005, trên đường bảo vệ danh hiệu của mình Sharapova thẳng tiến tới trận bán kết mà không thua một séc nào cả, nhưng tới đây cô đã vấp phải tay vợt đang hồi sinh Venus Williams và đành chịu thua với tỉ số (7-6, 6-1). Đồng thời chấm dứt mạch 22 trận bất bại trên mặt sân cỏ của mình.

Cũng trong năm này, do Lindsay Davenport bị chấn thương ở trận chung kết Wimbledon nên phải nghỉ thi đấu trong khoảng thời gian từ sau Wimbledon đến sau US Open, vì vậy mà lần đầu tiên Sharapove leo lên vị trí số một thế giới và ở tại vị trí này trong vòng sáu tuần lễ cho đến khi Davenport giành được chức vô địch giải Tier I (chỉ kém 4 giải Grand Slam) tại Zürich vào tháng 10.

Cũng trong năm 2005, một điều hy hữu đã xảy ra với Sharapova. Tại 4 giải Grand Slam cô đã thua 4 tay vợt mà sau đó đã giành chức vô địch. (Thua Kim Clijsters ở bán kết US Open, Serena Williams ở bán kết Úc Mở rộng, Justine Henin-Hardenne ở giải Roland Garros và Venus Williams ở bán kết Wimbledon.

Sharapova thắng giải Mỹ Mở rộng năm 2006

Năm 2006 Sharapova giành danh hiệu đầu tiên trong năm ở giải Pacific Life Open tại Indian Wells (giải được xếp hạng Tier 1), sau khi hạ hạt giống số 4 Elena Dementieva ở trận chung kết, 6-1 6-2. Đông thời Sharapova và Dementieva trở thành hai tay vợt Nga đầu tiên lọt vào trận chung kết của giải đấu này. Ngay sau đó, Sharapova cũng lọt vào trận chung kết của giải Nasdaq-100 Open, nhưng đã chịu thua Svetlana Kuznetsova 6-4, 6-3.

Danh hiệu thứ hai của năm 2006 mà cô giành được là giải Acura ClassicSan Diego, sau khi thắng Clijsters, 7-5, 7-5. Đây là chiến thắng đầu tiên của Sharapova trước Clijsters sau năm lần gặp mặt.

Được coi là một trong những ứng cử viên cho chức vô địch ở giải Mỹ Mở rộng, cô đã xuất sắc giành chức vô địch Grand Slam thứ hai trong sự nghiệp của mình khi lần lượt đánh bại Mauresmo ở trận bán kết với tỉ số 6-0, 4-6, 6-0, rồi Henin-Hardenne ở trận chung kết.

Vào tháng 10 Sharapova giành danh hiệu thứ tư của năm khi vô địch giải Zurich Open 2006.

Cô giành danh hiệu thứ 15- cũng là danh hiệu thứ 5 trong năm sau chức vô địch giải Generali Ladies Linz, đánh bại ĐKVĐ Nadia Petrova sau 2 set.

Giải thưởng

2003

  • Tay vợt nữ của WTA mới xuất hiện ấn tượng nhất
  • Nữ vẫn động viên thể thao quyến rũ nhất (Maxim)

2004

  • Tay vợt nữ của WTA xuất sắc nhất
  • Tay vợt nữ của WTA tiến bộ nhất
  • Nữ vẫn động viên thể thao quyến rũ nhất (Maxim)

2005

  • Tay vợt nữ xuất sắc nhất do ESPN trao tặng
  • Tay vợt Nga xuất sắc nhất do Liên đoàn quần vợt Nga trao tặng
  • Nữ vẫn động viên thể thao quyến rũ nhất (Maxim)

2006

  • Nữ vẫn động viên thể thao quyến rũ nhất (Maxim)
  • Tay vợt Nga xuất sắc nhất do Liên đoàn quần vợt Nga trao tặng

Đời sống riêng tư

  • Sharapova đã sống ở Mỹ từ khi cô còn nhỏ nhưng cô vẫn giữ quốc tịch Nga.
  • Gần đây Sharapova đã mua một ngôi nhà nhìn ra bờ biển ở Manhattan Beach, ngoại ô Los Angeles, California, nhưng suốt thời gian trong năm, cô sống gần cơ sở huấn luyện của IMG ở Bradenton.
  • Năm 19, Sharapova đã hoàn thành xong chương trình trung học.[3]
  • Sharapova có một thói quen là hay hét trên sân thi đấu. Là tay vợt ồn áo nhất kể từ khi Monica Seles từ giã sự nghiệp, một tờ bào lá cải ở London đã viết "giọng hét của cô lúc cao điểm đạt tới âm lực 102 decibel" (ngang với còi của một ôtô cảnh sát).[4]
  • Sharapova là bạn thân với tay vợt nữ người Nga Maria Kirilenko, nếu không thì không thân thiết với các tay vợt Nga khác.[5]
  • Tên gọi thân mật của Sharapova là "Masha".[6]
  • Sharapova tặng cây vợt mà cô đã sử dụng tại trận chung kết Wimbledon cho Regis Philbin khi quay Trực tiếp với Regis và Kelly (Live with Regis and Kelly).
  • Sharapova là tay vợt Nga duy nhất đã giành được nhiều hơn một chức vô địch Grand Slam.
  • Nhà tạo mốt mà Sharapova thích nhất là Marc Jacobs. Cô thỉnh thoảng tới dự các buổi trình diễn thời trang của ông.

Trích dẫn

  • "Khi tôi cố gắng để trở thành tay vợt quần vợt hàng đầu, tôi không bao giờ nói tôi là thứ hai, tôi nói tôi muốn là số một".[7]
  • "Sau khi đã suy nghĩ kĩ càng, cá nhân tôi tin rằng, cuộc đời tôi không chỉ là về một quả chuối". (Phát biểu trong buổi họp báo sau chức VĐ US Open khi có người cho rằng HLV của cô đã ra dấu để cô ăn một quả chuối)

Chung kết Grand Slam đơn nữ đã tham dự

Vô địch (4)

Năm Giải đấu Đối thủ ở trận chung kết Kết quả
2004 Wimbledon Serena Williams 6-1, 6-4
2006 Mỹ Mở rộng Justine Henin-Hardenne 6-4, 6-4
2008 Úc Mở rộng {{{alias}}} Ana Ivanović 7-5, 6-3
2012 Pháp Mở rộng {{{alias}}} Sara Errani 6-3, 6-2

Thua ở trận chung kết (2)

Năm Giải đấu Đối thủ ở trận chung kết Kết quả
2007 Úc Mở rộng {{{alias}}} Serena Williams 6-1 6-2
2011 Wimbledon {{{alias}}} Petra Kvitova 6-3, 6-4
2012 Úc Mở rộng {{{alias}}} Victoria Azarenka 6-0,6-3
2013 Pháp Mở rộng {{{alias}}} Serena Williams 6-4 6-4

Chung kết giải WTA Tour Championships đơn nữ đã tham dự

Vô địch (1)

Năm Thành phố đăng cai Đối thủ ở trận chung kết Kết quả
2004 Los Angeles {{{alias}}} Serena Williams 4-6, 6-2, 6-4

Thua ở trận chung kết (1)

Năm Thành phố đăng cai Đối thủ ở trận chung kết Kết quả
2007 Madrid {{{alias}}} Justine Henin 5-7, 7-5, 6-3
2012 Istanbul {{{alias}}} Serena Williams 6-3, 6-4

Chung kết các giải WTA Tour đã tham dự

Vô địch (19)

Ghi chú
Grand Slam (3)
WTA Championships (1)
Tier I (4)
WTA Tour (9)
Chức vô địch theo mặt sân
Cứng (13)
Đất nện (1)
Cỏ (3)
Trải thảm (1)
Stt. Ngày Giải Mặt sân Đối thủ ở trận chung kết Kết quả
1. 29 tháng 09, 2003 {{{alias}}} Tokyo Cứng Aniko Kapros 2-6, 6-2, 7-6(5)
2. 27 tháng 10, 2003 {{{alias}}} Quebec Cứng Milagros Sequera 6-2 bỏ cuộc
3. 07 tháng 06, 2004 {{{alias}}} Birmingham Cỏ Pháp Tatiana Golovin 4-6, 6-2, 6-1
4.|bgcolor="e5d1cb"|21 tháng 06, 2004|bgcolor="e5d1cb"|{{{alias}}} Wimbledon|bgcolor="e5d1cb"|Cỏ|bgcolor="e5d1cb"| Serena Williams |bgcolor="e5d1cb"|6-1, 6-4
5. 27 tháng 09, 2004 {{{alias}}} Seoul Cứng {{{alias}}} Marta Domachowska 6-1, 6-1
6. 4 tháng 10, 2004 {{{alias}}} Tokyo (2) Cứng Mashona Washington 6-0, 6-1
7.|bgcolor="ffffcc"|08 tháng 11, 2004|bgcolor="ffffcc"|{{{alias}}} WTA Championships, Los Angeles|bgcolor="ffffcc"|Cứng|bgcolor="ffffcc"| Serena Williams|bgcolor="ffffcc"|4-6, 6-2, 6-4
8.|bgcolor="#dfe2e9"|06 tháng 02, 2005|bgcolor="#dfe2e9"|{{{alias}}} Tōkyō|bgcolor="#dfe2e9"|Trải thảm Lindsay Davenport|bgcolor="#dfe2e9"|6-1, 3-6, 7-6(5)
9. 21 tháng 02, 2005 {{{alias}}} Doha Cứng Alicia Molik 4-6, 6-1, 6-4
10. 06 tháng 06, 2005 {{{alias}}} Birmingham (2) Cỏ Jelena Jankovic 6-2, 4-6, 6-1
11.|bgcolor="#dfe2e9"|18 tháng 03, 2006|bgcolor="#dfe2e9"|{{{alias}}} Indian Wells|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"|{{{alias}}} Elena Dementieva|bgcolor="#dfe2e9"|6-1, 6-2
12.|bgcolor="#dfe2e9"|06 tháng 08, 2006|bgcolor="#dfe2e9"|{{{alias}}} San Diego|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"|Belgium Kim Clijsters|bgcolor="#dfe2e9"|7-5, 7-5
13.|bgcolor="e5d1cb"|09 tháng 09, 2006|bgcolor="e5d1cb"|{{{alias}}} Mỹ Mở rộng, Thành phố New York|bgcolor="e5d1cb"|Cứng|bgcolor="e5d1cb"|{{{alias}}} Justine Henin-Hardenne|bgcolor="e5d1cb"|6-4, 6-4
14.|bgcolor="#dfe2e9"|22 tháng 10, 2006|bgcolor="#dfe2e9"|{{{alias}}} Zürich|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"|{{{alias}}} Daniela Hantuchova|bgcolor="#dfe2e9"|6-1, 4-6, 6-3
15. 29 tháng 10, 2006 {{{alias}}} Linz, Áo Cứng {{{alias}}} Nadia Petrova 7-5, 6-2
16.|bgcolor="#dfe2e9"|06 tháng 08, 2007|bgcolor="#dfe2e9"|{{{alias}}} San Diego (2)|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"|{{{alias}}} Patty Schyder|bgcolor="#dfe2e9"|6-3, 3-6,6-1|- bgcolor="e5d1cb" 17. 26 tháng 1, 2008 {{{alias}}} Úc Mở rộng, Úc Cứng {{{alias}}} Ana Ivanović 7-5, 6-3
18. 24 tháng 2, 2008 Qatar Total Mở rộng, Doha Cứng Nga Vera Zvonareva 6–1, 2–6, 6–0
19. 13 tháng 4, 2008 Bausch & Lomb Championships, Amelia Island, Florida,Mỹ Đất nện Slovakia Dominika Cibulková 7–6(7), 6–3

Thua ở trận chung kết (7)

Stt. Ngày Giải Mặt sân Đối thủ ở trận chung kết Kết quả
1.|bgcolor="#dfe2e9"|18 tháng 10, 2004|bgcolor="#dfe2e9"|{{{alias}}} Zürich|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"|{{{alias}}} Alicia Molik|bgcolor="#dfe2e9"|6-4, 2-6, 3-6
2.|bgcolor="#dfe2e9"|21 tháng 03, 2005|bgcolor="#dfe2e9"|{{{alias}}} Miami|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"|{{{alias}}} Kim Clijsters|bgcolor="#dfe2e9"|3-6, 5-6
3. 20 tháng 02, 2006 {{{alias}}} Dubai Cứng {{{alias}}} Justine Henin-Hardenne 5-7, 2-6
4. 30 tháng 03, 2006 {{{alias}}} Miami (2) Cứng {{{alias}}} Svetlana Kuznetsova 4-6, 3-6
5. 27 tháng 1, 2007 {{{alias}}} Úc Mở rộng Cứng {{{alias}}} Serena Williams 1-6, 2-6
6. 18 tháng 06, 2007 {{{alias}}} Birmingham Cỏ {{{alias}}} Jelena Janković 4-6, 6-3, 7-5
7. 11 tháng 11, 2007 {{{alias}}} WTA Tour Championships, Madrid Cứng {{{alias}}} Justine Henin 5-7, 7-5, 6-3

Vô địch đôi nữ (3)

Stt. Ngày Giải Mặt sân Đồng đội Đối thủ ở trận chung kết Kết quả
1. 29 tháng 09, 2003 {{{alias}}} Tokyo Cứng Tamarine Tanasugarn Ansley Cargill
Ashley Harkleroad
7-6 (1), 6-0
2. 20 tháng 10, 2003 {{{alias}}} Luxembourg Cứng Tamarine Tanasugarn Elena Tatarkova
Marlene Weingartner
6-1, 6-4
3. 07 tháng 06, 2004 {{{alias}}} Birmingham Cỏ Maria Kirilenko Lisa Mcshea
Milagros Sequera
6-2, 6-1

Thua ở trận chung kết đôi nữ (1)

Stt. Ngày Giải Mặt sân Đồng đội Đối thủ ở trận chung kết Kết quả
1. 12 tháng 02, 2004 {{{alias}}} Memphis Cứng Vera Zvonareva Åsa Svensson
Meilen Tu
6-4, 7-6 (0)

Bảng tổng kết thành tích

Để tránh việc nhầm lẫn do sự trùng lặp khi đếm, bảng sau đây chỉ được cập nhật khi một giải đấu đã hoàn toàn kết thúc. Lần cuối cùng cập nhật là sau Giải quần vợt Úc Mở rộng 2007

Giải đấu 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 SR
Úc mở rộng A V1 V3 BK BK CK 1 / 6
Pháp mở rộng A V1 TK TK V4 BK V4 0 / 6
Wimbledon A V4 BK BK V4 V2 1 / 6
Mỹ mở rộng A V2 V3 BK V3 A 1 / 5
Grand Slam SR 0 / 0 0 / 4 1 / 4 0 / 4 1 / 4 0 / 4 1 / 3 2 / 20
Grand Slam Thắng-Thua 0-0 4-4 15-3 19-4 20-3 16-4 11-3 N/A
Tokyo A A V2 BK BK 1 / 4
Indian Wells V2 V1 V4 BK V4 BK 1 / 7
Miami A V1 V4 CK CK V4 A 0 / 4
Charleston A V1 A A A A TK 0 / 2
Berlin A A V3 TK A A A 0 / 2
Rome A A V3 BK A A BK 0 / 3
San Diego A A TK A 2 / 3
Montreal/Toronto A V1 V3 A A A V3 0 / 3
Moskva A A A TK TK V2 0 / 3
Zurich A A CK A A 1 / 2
WTA Tour Championships A A BK BK CK 1 / 3
Tổng số giải thi đấu 2 14 20 15 15 14 N/A
Số lần lọt vào trận chung kết 0 2 6 4 7 1 N/A
Số chức vô địch 0 2 5 3 5 1 N/A
Vị trí xếp hạng vào cuối năm 186 32 4 4 2 5 N/A

A = Không tham gia giải đấu

SR = Tỉ lệ số lần đoạt chức vô địch trên tổng số lần tham dự giải

V1, V2, V3... = Vòng 1, Vòng 2, Vòng 3

TK = Tứ kết

BK = Bán kết

CK = Thua ở trận chung kết

VĐ = Vô địch

Chú thích

  1. ^ MARIA SHARAPOVA (RUS)
  2. ^ Martin, John (7 tháng 11 năm 2006). “The Highest Paid Female Athlete On The Planet; Why Sharapova Is So Hot”. ABC News. Truy cập 7 tháng 11, 2006. Đã định rõ hơn một tham số trong |author=|last= (trợ giúp)
  3. ^ [1]
  4. ^ Sharapova's decibel levels
  5. ^ Good friend of a fellow Russian tennis player
  6. ^ Tiểu sử
  7. ^ Newbery|title=Sharapova proves her worth|date=10 tháng 9, 2006|accessdate=23 tháng 10, 2006‎

Liên kết ngoài

Vị trí

Tiền nhiệm:
Lindsay Davenport
Lindsay Davenport
Justine Henin
Số 1 thế giới
22/08/2005 - 28/08/2005
12/09/2005 - 23/10/2005
29/01/2007 - 18/03/2007
Kế nhiệm:
Lindsay Davenport
Lindsay Davenport
Justine Henin
Giải thưởng
Tiền nhiệm:
Nadia Petrova
Tay vợt nữ của WTA tiến bộ nhất
2004
Kế nhiệm:
Ana Ivanović
Tiền nhiệm:
Justine Henin-Hardenne
Tay vợt nữ của WTA của năm
2004
Kế nhiệm:
Kim Clijsters

Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt