Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Khang Hi”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Gens Baps (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 45: Dòng 45:
| nơi an táng = [[Cảnh lăng]] (景陵), [[Đông Thanh Mộ]]
| nơi an táng = [[Cảnh lăng]] (景陵), [[Đông Thanh Mộ]]
}}
}}
'''Thanh Thánh Tổ''' ([[chữ Hán]]: 清聖祖; [[4 tháng 5]] năm [[1654]] – [[20 tháng 12]] năm [[1722]]), Hãn hiệu '''Ân Hách A Mộc Cổ Lãng hãn''' (恩赫阿木古朗汗), [[Tây Tạng]] tôn vị '''Văn Thù Hoàng đế''' (文殊皇帝), là vị [[Hoàng đế]] thứ tư của [[nhà Thanh]] <ref>Schirokauer, Conrad. A Brief History of Chinese Civilization(Thompson Wadsworth, 2006), tr. 234-235.</ref><ref>Ông có thể được xem là hoàng đế thứ tư của nhà Thanh, tính từ người đặt nền móng cho nhà Thanh là [[Nỗ Nhĩ Cáp Xích]], người xưng [[Hãn|Hãn vương]] nhưng được tôn hiệu Hoàng đế sau khi chết, trên thực tế chưa giữ ngôi vị Hoàng đế một ngày nào.</ref> và là Hoàng đế nhà Thanh thứ hai trị vì toàn cõi [[Trung Quốc]], từ năm [[1662]] đến khi qua đời vào năm [[1722]], tổng cộng là 60 năm. Ông có [[niên hiệu]] là '''Khang Hi''' (康熙), nên thường được gọi là '''Khang Hi Đế''' (康熙帝).
'''Thanh Thánh Tổ''' ([[chữ Hán]]: 清聖祖; [[4 tháng 5]] năm [[1654]] – [[20 tháng 12]] năm [[1722]]), Hãn hiệu '''Ân Hách A Mộc Cổ Lãng hãn''' (恩赫阿木古朗汗), [[Tây Tạng]] tôn vị '''Văn Thù Hoàng đế''' (文殊皇帝), là vị [[Hoàng đế]] thứ tư của [[nhà Thanh]] <ref>Schirokauer, Conrad. A Brief History of Chinese Civilization(Thompson Wadsworth, 2006), tr. 234-235.</ref><ref>Ông có thể được xem là hoàng đế thứ tư của nhà Thanh, tính từ người đặt nền móng cho nhà Thanh là [[Nỗ Nhĩ Cáp Xích]], người xưng [[Hãn|Hãn vương]] nhưng được tôn hiệu Hoàng đế sau khi chết, trên thực tế chưa giữ ngôi vị Hoàng đế một ngày nào.</ref> và là Hoàng đế nhà Thanh thứ hai trị vì toàn cõi [[Trung Quốc]], từ năm [[1662]] đến khi qua đời vào năm [[1722]], tổng cộng là 61 năm. Ông có [[niên hiệu]] là '''Khang Hi''' (康熙), nên thường được gọi là '''Khang Hi Đế''' (康熙帝).


Trong lịch sử triều Thanh, Khang Hi Đế được đánh giá là vị Hoàng đế tài ba lỗi lạc bậc nhất, là người đã thiết lập sự thịnh trị dài trên 130 năm của nhà Thanh sau một loạt chiến tranh và những chính sách tích cực khiến dòng họ Ái Tân Giác La ngồi vững vị trí Hoàng đế ở Trung nguyên. Ông được đánh giá là một trong những vị Hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Quốc và được xưng tụng là ['''Khang Hi Đại đế''']. Dưới thời cai trị của ông, Đế quốc Thanh đã [[Mãn Thanh chinh phục Trung Hoa|hoàn thành thống nhất]] và kiểm soát toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, [[Mãn Châu]], [[Đài Loan (đảo)|Đài Loan]], nhiều phần của vùng Cận Đông nước [[Nga]], bảo hộ [[Mông Cổ]] và [[Triều Tiên]].
Trong lịch sử triều Thanh, Khang Hi Đế được đánh giá là vị Hoàng đế tài ba lỗi lạc bậc nhất, là người đã thiết lập sự thịnh trị dài trên 130 năm của nhà Thanh sau một loạt chiến tranh và những chính sách tích cực khiến dòng họ Ái Tân Giác La ngồi vững vị trí Hoàng đế ở Trung nguyên. Ông được đánh giá là một trong những vị Hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Quốc và được xưng tụng là ['''Khang Hi Đại đế''']. Dưới thời cai trị của ông, Đế quốc Thanh đã [[Mãn Thanh chinh phục Trung Hoa|hoàn thành thống nhất]] và kiểm soát toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, [[Mãn Châu]], [[Đài Loan (đảo)|Đài Loan]], nhiều phần của vùng Cận Đông nước [[Nga]], bảo hộ [[Mông Cổ]] và [[Triều Tiên]].

Phiên bản lúc 15:38, ngày 9 tháng 11 năm 2019

Khang Hi Đế
康熙帝
Hoàng đế Trung Hoa
Hoàng đế Đại Thanh
Trị vì7 tháng 2 năm 166220 tháng 12 năm 1722 (60 năm, 316 ngày)
Đăng quang1662
Tiền nhiệmThanh Thế Tổ
Kế nhiệmThanh Thế Tông
Thông tin chung
Sinh(1654-05-04)4 tháng 5, 1654
Cảnh Nhân cung, Tử Cấm Thành, Bắc Kinh
Mất20 tháng 12, 1722(1722-12-20) (68 tuổi)
Sướng Xuân viên, Thuận Thiên phủ, Đại Thanh
An tángCảnh lăng (景陵), Đông Thanh Mộ
Thê thiếpHiếu Thành Nhân Hoàng hậu
Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu
Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu
Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu
Hậu duệXem văn bản
Tên thật
Ái Tân Giác La Huyền Diệp
(爱新觉罗玄燁)
Niên hiệu
Khang Hi (康熙)
Thụy hiệu
Hợp Thiên Hoằng Vận Văn Vũ Duệ Triết Cung Kiệm Khoan Du Hiếu Kính Thành Tín Trung Hòa Công Đức Đại Thành Nhân Hoàng đế
(合天弘運文武睿哲恭儉寬裕孝敬誠信中和功德大成仁皇帝)
Miếu hiệu
Thánh Tổ (聖祖)
Triều đạiNhà Thanh
Thân phụThanh Thế Tổ
Thân mẫuHiếu Khang Chương Hoàng hậu

Thanh Thánh Tổ (chữ Hán: 清聖祖; 4 tháng 5 năm 165420 tháng 12 năm 1722), Hãn hiệu Ân Hách A Mộc Cổ Lãng hãn (恩赫阿木古朗汗), Tây Tạng tôn vị Văn Thù Hoàng đế (文殊皇帝), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Thanh [1][2] và là Hoàng đế nhà Thanh thứ hai trị vì toàn cõi Trung Quốc, từ năm 1662 đến khi qua đời vào năm 1722, tổng cộng là 61 năm. Ông có niên hiệuKhang Hi (康熙), nên thường được gọi là Khang Hi Đế (康熙帝).

Trong lịch sử triều Thanh, Khang Hi Đế được đánh giá là vị Hoàng đế tài ba lỗi lạc bậc nhất, là người đã thiết lập sự thịnh trị dài trên 130 năm của nhà Thanh sau một loạt chiến tranh và những chính sách tích cực khiến dòng họ Ái Tân Giác La ngồi vững vị trí Hoàng đế ở Trung nguyên. Ông được đánh giá là một trong những vị Hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Quốc và được xưng tụng là [Khang Hi Đại đế]. Dưới thời cai trị của ông, Đế quốc Thanh đã hoàn thành thống nhất và kiểm soát toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, Mãn Châu, Đài Loan, nhiều phần của vùng Cận Đông nước Nga, bảo hộ Mông CổTriều Tiên.

Vào thời kỳ cuối, con trai lớn của ông là Dận Nhưng liên tục gặp vấn đề về nhân cách, đã hai lần bị phế ngôi Thái tử cùng một lần phục vị. Chính điều này đã khiến các hoàng tử khác bước vào trường kỳ phấn đấu đoạt chức Thái tử, hòng kế thừa Hoàng vị do cha mình để lại. Cuộc tranh đấu này thường được gọi là [Cửu tử đoạt đích; 九子夺嫡], và phần thắng thuộc về con trai thứ tư của ông, Ung Chính Đế. Tuy nhiên, việc Khang Hi Đế băng hà tại Sướng Xuân viên và việc Ung Chính Đế thừa di mệnh lên ngôi đến nay vẫn còn gây tranh cãi. Liệu Khang Hi Đế có thực sự truyền ngôi cho người con thứ 4 là Ung Chính Đế, hay chính vị Hoàng đế này đã sửa di chiếu để đoạt ngôi, đến nay vẫn chưa có lời giải đáp. Tuy nhiên, Ung Chính Đế sau khi lên ngôi đã chứng minh được mình là một Hoàng đế tài giỏi và siêng năng, đã kế tục và duy trì sự cường thịnh của Đế quốc Đại Thanh, do vậy vấn đề chính thống của ông dần trở thành một câu chuyện bên lề để đưa ra bàn luận mà thôi.

Khang Hi là Hoàng đế ngồi trên ngai vàng lâu nhất trong lịch sử Trung Quốc (61 năm) và là một trong những nhà cai trị tại vị lâu nhất trong lịch sử thế giới. Thời gian tại vị của ông được xem là mở đầu của [Khang Càn thịnh thế; 康乾盛世] kéo dài hơn 100 năm. Cháu nội của ông, Càn Long Đế đã rất ngưỡng mộ ông, do đó không dám vượt quá số năm trị vì của ông, mà thực hiện việc thiện nhượng.

Lên ngôi

Chân dung của Hoàng đế Khang Hi lúc trẻ

Khang Hi Đế tên thật là Huyền Diệp (玄燁; tiếng Mãn: ᡥᡳᠣᠸᠠᠨ
ᠶᡝᡳ
, Möllendorff: hiowan yei, Abkai: hiuwan yei), họ Ái Tân Giác La, sinh vào ngày 18 tháng 3 (tức ngày 4 tháng 5 dương lịch) năm Thuận Trị thứ 11 (1654) tại Cảnh Nhân cung, Tử Cấm Thành, Bắc Kinh. Ông Là con trai thứ ba của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Hoàng đế, mẹ ông là Hiếu Khang Chương hoàng hậu Đông Giai thị, vốn là Hán Quân Chính Lam kỳ, sau được nhập vào Mãn Châu Tương Hoàng kỳ.

Từ nhỏ, Huyền Diệp đã được chú ý dạy dỗ chu đáo và tỏ ra thông minh ham học, lên 5 tuổi bắt đầu học hành[3][4]. Khoảng lúc này, ông bị mắc bệnh đậu mùa, gần như là một loại bệnh không thể nào chữa trị được, thế nhưng ông cuối cùng lại sống sót qua khỏi, điều này đã khiến cha ông là Thuận Trị Đế ấn tượng và chú ý ông hơn. Nhà Hán học Herbert Giles ghi chép lúc đương thời, mô tả ông là một người tương đối cao và có thân hình cân đối, ông rất thích các môn thể dục hay luyện tập của phái nam và dành hẳn 3 tháng mỗi năm để thực hiện săn bắn, một loại hình vận động truyền thống của các Hoàng đế thời cổ đại. Mắt ông to và sáng bừng cả mặt, có thể thấy vài đốm nhỏ do di chứng của căn bệnh đậu mùa[5].

Năm Thuận Trị thứ 18 (1661), ngày 2 tháng 1 (âm lịch), Huyền Diệp mới lên 8 tuổi thì Thuận Trị Đế đã lâm bệnh nặng nằm liệt giường. Mẹ của Thuận Trị Đế, cũng là bà nội của Huyền Diệp là Hiếu Trang Hoàng thái hậu ủng hộ việc lập Huyền Diệp lên kế vị. Thuận Trị Đế bèn tuyên bố lấy cớ Huyền Diệp từng mắc đậu mùa mà khỏi, cho là điềm lành, ra chỉ bố cáo lập Huyền Diệp trở thành Thái tử, đồng thời bổ nhiệm 4 đại thần làm phụ chính là Sách Ni, Tô Khắc Tát Cáp, Át Tất LongNgao Bái[6].

Sang ngày 6 tháng 1 (tức ngày 4 tháng 2 dương lịch) cùng năm, Thuận Trị Đế giá băng. Ngày 7 tháng 2 (tức ngày 5 tháng 2 dương lịch), Hoàng tam tử Huyền Diệp đăng cơ. Định sang năm sau (1662) là niên hiệuKhang Hi (康熙), sử gọi là Khang Hi Đế (康熙帝).

Trừ Ngao Bái

Khang Hi Đế khi thành niên.

Vì Khang Hi mới lên 8 tuổi, chính sự do 4 đại thần phụ chính lo liệu[7]. Trong số 4 đại thần phụ chính, Ngao Bái là người có nhiều chiến công nhất và được phong thưởng nhiều, nên tỏ ra ngang tàng, coi thường vua nhỏ. Sách Ni tuổi già lắm bệnh nên ngại việc, ít tham gia chính sự; Át Tất Long tính tình mềm mỏng, ngại va chạm, không muốn gây xung đột với người khác; chỉ có Tô Khắc Sa Cáp tính tình thẳng thắn cương trực, thường hay tranh luận với Ngao Bái. Ngao Bái cho con trai làm thị vệ nội đại thần.

Năm 1666, Ngao Bái giết hại Tổng đốc Trực Khang – Sơn Đông là Chu Xương Tô, Tuần phủ Vương Đăng Liên. Trước sự chuyên quyền của Ngao Bái, Tô Khắc Táp Cáp tức giận, hai người trở thành đối đầu nhau. Tô Khắc Táp Cáp ít kinh nghiệm, lại một mình một chủ trương, không chỉ đối đầu với Ngao Bái mà còn mâu thuẫn với Sách Ni, do đó bị cô lập. Ngao Bái tìm cách vu cáo Tô Khắc Táp Cáp để buộc tội, và thúc ép Khang Hi ban lệnh xử tử. Sau khi 3 đại thần qua đời, không còn ai phản đối Ngao Bái, vì vậy Ngao Bái càng chuyên quyền. Những ai muốn tâu việc lên vua đều phải tâu qua Ngao Bái và đút lót mới được cất nhắc, bổ dụng[8]. Ngao Bái muốn tiếp tục duy trì đường lối chỉ dùng người Mãn làm quan, hạn chế người Hán vào triều[9]. Sự chuyên quyền của Ngao Bái khiến Khang Hi không hài lòng.

Năm 1667, Khang Hi lên 14 tuổi. Ông tự mình đứng ra xem xét việc triều chính và muốn trừ bỏ Ngao Bái. Do Ngao Bái đang là phụ chính, bè cánh lại đông, Khang Hi biết chưa thể trừ bỏ ngay, bề ngoài tỏ ra bình thường. Ngao Bái ngạo mạn khinh thường vua nhỏ, thường cáo bệnh ốm không vào triều, khiến ông phải đến tận nhà thăm hỏi. Một lần ông cùng thị vệ Hòa Thác tới thăm, thấy Ngao Bái không hề ốm yếu. Hòa Thác tới giường Ngao Bái xem, phát hiện ra dưới đệm có con dao. Ngao Bái rất lo lắng nhưng Khang Hi lại không tỏ thái độ gì, cho rằng việc mang dao bên người là tập quán bình thường của người Mãn. Do đó Ngao Bái yên tâm không bị Khang Hi nghi ngờ[8].

Lấy lý do thích đánh cờ, ông triệu tập con Sách Ni là Sách Ngạch Đồ vào cung để bàn kế trừ Ngao Bái. Ông phong cho Ngao Bái làm Nhất đẳng công để Ngao Bái lơ là mất cảnh giác, mặt khác ông lấy cớ thích học võ nghệ để tuyển chọn nhiều người trong hàng ngũ con em thân vương làm thị vệ cho Ngao Bái. Sau đó, ông lấy cớ điều bớt những người vây cánh của Ngao Bái đi làm quan ở nơi xa.

Năm 1669, khi Ngao Bái vào cung yết kiến, Khang Hi ra lệnh cho đội thị vệ thân tín bắt giữ. Ông kể tội, cách chức Ngao Bái. Vì nể công lao từng cứu sống Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực, Khang Hi tha chết và giam Ngao Bái vào ngục, và lệnh bắt những người trong cùng vây cánh Ngao Bái.

Không lâu sau khi bị bắt giữ, Ngao Bái lâm bệnh chết trong ngục. Khang Hi chính thức nắm quyền điều hành triều chính, khi đó ông 16 tuổi.

Hoàn thành thống nhất quốc gia

Dẹp loạn Tam phiên

Khang Hi Đế năm 40 tuổi.

Việc Khang Hi trừ bỏ Ngao Bái khiến nhiều quan lại chính trực rất vui mừng và khâm phục. Tuy trong triều đã yên nhưng tình hình bên ngoài còn nhiều việc. Lãnh thổ Trung Quốc chưa hoàn toàn được thống nhất, vẫn còn nguy cơ để lại từ cuối thời Minh: đó là "tam phiên" tức 3 vị vương từng là hàng tướng của nhà Minh gồm có Bình Tây vương Ngô Tam QuếVân Nam, Bình Nam vương Thượng Khả HỷQuảng Đông và Tĩnh Nam vương Cảnh Tinh TrungPhúc Kiến; Trịnh Thành Công vẫn chiếm giữ Đài Loan, vua Nga là Sa Hoàng nhiều lần gây chiến ở biên giới. Vì vậy từ khi chính thức trực tiếp nắm quyền hành, Khang Hi đã tự mình viết tấm biển "tam phiên, hà vụ, tào vận" để đặt ra nhiệm vụ giải quyết những mối lo của triều đình.

Tam phiên có địa bàn cai quản rộng lớn, thế lực ngày càng mạnh, lại là tướng cũ của nhà Minh, trở thành mối lo với nhà Thanh, do đó Khang Hi quyết tâm trừ bỏ. Tháng 3 năm 1673, Bình Nam vương Thượng Khả Hỷ tuổi cao sức yếu dâng thư lên triều đình xin được về hưu dưỡng lão và xin cho con là Thượng Chi Tín kế chức. Khang Hi nắm được cơ hội bắt đầu trừ bỏ tam phiên, bèn đồng ý với thỉnh cầu từ chức của Khả Hỷ, nhưng không cho Chi Tín kế vị.

Lúc đó con trai Ngô Tam Quế là Ngô Ứng Hùng đang ở Bắc Kinh đã nhanh chóng đưa tin về Vân Nam. Tháng 7 năm đó, tin tức đưa tới miền nam. Ngô Tam Quế và Cảnh Tinh Trung thấy Khang Hi đồng ý với đề nghị rút lui của Thượng Khả Hỷ, lấy làm lo lắng, bèn đồng loạt viết thư xin cáo lão. Các đại thần cho rằng hai Ngô Tam Quế và Cảnh Tinh Trung không thực lòng rút lui, khuyên ông không nên phê chuẩn vì sẽ gây biến loạn[10].

Trong khi đó, chỉ có số ít đại thần đồng tình với ý định triệt phiên của Khang Hi như Thượng thư Bộ Hộ là Mễ Tư Hàn, Thượng thư Bộ Hình là Mạc Lạc, Thượng thư Bộ Binh là Minh Châu. Khang Hi muốn nhân cơ hội này trừ bỏ tam phiên nên chấp thuận luôn, và sai Bác Nhĩ Khẳng, Chiết Mại Lễ tới Vân Nam, sai Lương Thanh Tiêu tới Quảng Đông, Trần Nhất Bỉnh tới Phúc Kiến để thi hành mệnh lệnh, thúc giục tam vương rời bỏ ngôi vị.

Khang Hi Đế năm 45 tuổi.

Thấy rõ ý định của Khang Hi muốn trừ bỏ mình, Ngô Tam Quế bèn cầm đầu tam vương khởi sự chống lại nhà Thanh. Tam Quế viết thư cho Phúc Kiến và Quảng Đông đề nghị cùng khởi binh với danh nghĩa "phục Minh diệt giặc", tự xưng là "thiên hạ đô chiêu thảo binh mã đại nguyên soái". Thượng Chi Tín và Cảnh Tinh Trung đều hưởng ứng. Con Trịnh Thành Công là Trịnh Tuyền cũng nhân dịp đó mang quân từ đảo Đài Loan vào đất liền đánh chiếm Ôn châu, Tuyền châu, Chương châu…[11].

Quân nổi dậy của Ngô Tam Quế nhanh chóng chiếm giữ Nguyên châu, Thường Đức rồi tiến vào Tứ Xuyên. Tam Quế đích thân tới Thường Đức, Lễ châu chỉ huy chiến trận.

Trước thế mạnh của Tam vương, một số đại thần nhà Thanh khuyên Khang Hi theo nếp cũ của Hán Cảnh Đế từng chém Triều Thố để yên lòng Ngô vương Lưu Tỵ khi mới xảy ra loạn bảy nước, vì vậy nên chém những người đồng tình triệt phiên như Mễ Tư Hàn, Mạc Lạc và Minh Châu để làm vừa lòng Tam phiên. Nhưng Khang Hi kiên quyết phản đối chủ trương đó, vì ông đã thấy trong quá khứ sau khi Hán Cảnh Đế chém Triều Thố, Lưu Tỵ vẫn không giải binh. Vì vậy ông tuyên bố một mình chịu trách nhiệm việc triệt phiên, và lệnh bắt giam con cháu Ngô Tam Quế ở Bắc Kinh là Ngô Ưng Hùng, Ngô Thế Lâm.

Giữa lúc đó Ngô Tam Quế thông qua Đạt Lai Lạt Ma gửi thư tới Khang Hi yêu cầu cho mình được cát cứ phía nam Trường Giang.

Khang Hi bác bỏ đề nghị cát cứ nam Trường Giang của Tam Quế, ra lệnh chém Ngô Ưng Hùng và Ngô Thế Lâm. Ngô Tam Quế thúc quân tấn công 30 thành trì vùng Giang Tây. Thủ hạ của Tam Quế là Vương Bỉnh Phiên tấn công vào Thiểm Cam – hậu phương nhà Thanh. Tháng 1 năm 1675, con nuôi Ngô Tam Quế là Vương Phụ Thần đang làm Đề đốc Thiểm Tây mang quân chiếm Bình Lương. Được Vương Bính Phiên trợ giúp, Vương Phụ Thần chiếm được Thái châu, Lan Châu, Củng Xương, Định Biên. Ngô Tam Quế tuyên bố sẽ chiếm Kinh châu để tiến vào Bắc Kinh.

Trong lúc đó, Cảnh Tinh Trung và Thượng Chi Tín cũng ra quân hưởng ứng Ngô Tam Quế.

Trước tình hình biến loạn, Khang Hi vẫn bình tĩnh chỉ huy cuộc chiến. Ông xác định Ngô Tam Quế cầm đầu cuộc nổi dậy, chỉ cần tập trung lực lượng diệt Ngô Tam Quế. Vì vậy ông tận dụng mâu thuẫn giữa Cảnh Tinh Trung và Trịnh Kinh, ra chiếu gửi Quảng ĐôngPhúc Kiến, chấp thuận cho Thượng Chi Tín và Cảnh Tinh Trung tiếp tục làm vương. Đồng thời, ông điều quân Thanh đánh bật quân Đài Loan bị cô lập ra khỏi đại lục.

Năm 1677, Thượng Khả Hy vì mâu thuẫn với Ngô Tam Quế, buồn bực lâm bệnh qua đời. Quân hai xứ Phúc Kiến, Quảng Đông sau khi gặp một số bất lợi bèn chấp nhận yêu cầu của Khang Hi, dâng sớ chấp nhận bãi binh. Yên được hai phía, Khang Hi tập trung lực lượng đối phó với Ngô Tam Quế[12]. Tuy đồng ý trên giấy tờ, hai xứ này vẫn chưa chịu hoàn toàn thần phục.

Thấy vai trò quan trọng của Vương Phụ Thần trong việc giúp lực lượng Ngô Tam Quế phát triển, Khang Hi dùng sách lược vừa đánh vừa dụ. Ông sai con Phụ Thần tới hàng quân Vân Nam, rồi sai Đồ Hải mang quân tới chống Phụ Thần. Phụ Thần trúng kế điệu hổ ly sơn của Đồ Hải, bị hao binh tổn tướng. Bị quân Thanh vây hãm lâu ngày, Vương Phụ Thần hết lương phải ra hàng triều đình.

Quân Thanh chiếm lại trọng điểm Bình Lương khiến Ngô Tam Quế ở Thiểm Tây bị thất thế. Sang năm 1678, quân Thanh giành thắng lợi, đánh chiếm lại Thiểm Tây. Một số tướng lĩnh của Tam Quế là Lâm Hưng Chu, Hàn Đại Nhiệm xin hàng nhà Thanh. Cùng lúc Vương Kiệt Thư đánh bại quân Ngô ở Giang Tây và Chiết Giang khiến Cảnh Tinh Trung không còn ngoại viện, thế cùng phải xin hàng.

Thế cục đã thay đổi, Ngô Tam Quế phải rút về chỉ còn giữ được Vân Nam. Nhưng đầu năm 1678 Ngô Tam Quế vẫn cố xưng đế hiệu ở Hành Dương, đặt quốc hiệu là Chu. Chỉ 5 tháng sau Tam Quế già yếu mắc bệnh qua đời. Cháu Tam Quế là Ngô Thế Phan kế vị.

Năm 1680, Khang Hi điều 3 cánh quân tấn công Vân Nam. Ngô Thế Phan thất bại liên tiếp, quân Thanh chiếm được Côn Minh. Thế Phan bị dồn vào đường cùng, phải uống thuốc độc tự sát. Sang năm 1681, Khang Hi hoàn toàn dẹp được Vân Nam, chấm dứt loạn Tam phiên.

Chiếm Đài Loan

Sau khi dẹp xong Tam vương, Khang Hi tính tới việc thu hồi Đài Loan bị dòng họ Trịnh Thành Công chiếm trong nhiều năm.

Cha Thành Công là Trịnh Chi Long đã hàng nhà Thanh nhưng Thành Công vẫn một lòng thờ nhà Minh, không thần phục nhà Thanh. Năm 1662, Trịnh Thành Công được sự giúp sức của Hà Đình Bân (phiên dịch cho người Hà Lan), đánh đuổi người Hà Lan trên đảo, chiếm toàn bộ Đài Loan.

Sau khi Trịnh Thành Công chết, họ Trịnh truyền 3 thế hệ qua Trịnh Kinh tới Trịnh Khắc Xương vẫn giữ Đài Loan. Theo đề nghị của Tổng đốc Phúc Kiến là Diêu Khải Thánh, Khang Hi quyết định tấn công Đài Loan nhân có tranh chấp trong nội tộc họ Trịnh. Ông sai Diêu Khải Thánh đánh Đài Loan. Khải Thánh thi hành chính sách vừa đánh vừa dụ của Khang Hi, kết quả dụ được 13 vạn dân Đài Loan quy phục[13].

Theo sự tiến cử của Diêu Khải Thánh, Khang Hi bất chấp sự phản đối của nhiều người, sai thủ hạ cũ của Trịnh Thành Công là Thi Lang làm đề đốc thủy sư Phúc Kiến phụ trách việc đánh Đài Loan. Nhưng sau khi nhận chức, Thi Lang lại bất đồng quan điểm với Diêu Khải Thánh về việc tiến quân. Khang Hi cho Thi Lang toàn quyền quyết định việc chiến dịch đánh Đài Loan. Mùa hè năm 1683, Thi Lang ra quân một trận đánh bại quân chủ lực họ Trịnh, chiếm được Bành Hồ. Thế cùng, tháng 8 năm đó họ Trịnh xin đầu hàng.

Theo đề nghị của Thi Lang, Khang Hi xóa bỏ chủ trương bỏ Đài Loan để trao cho người Hà Lan. Ông điều quân và dân tới sống tại đảo, xây dựng các huyện Phượng Sơn, Đài Loan, Chư La trên đảo trở thành đơn vị hành chính của Trung Quốc.

Xung đột biên giới phía bắc

Khang Hi Đế mặc quân phục.

Xung đột với nước Nga

Trong lúc Khang Hi còn phải đánh dẹp trong nước thì quân Nga liên tiếp tấn công vùng Hắc Long Giang của Trung Quốc. Sa hoàng Nga Ivan V còn xây dựng căn cứ Yaksa để dễ bề tấn công Trung Quốc.

Đầu năm 1682, Hoàng đế Khang Hi lên biên giới xem xét tình hình để tổ chức kháng cự. Vào năm 1683, ông bổ nhiệm Tát Bố Tố làm tướng quân Hắc Long Giang tới Ái Huy triển khai phòng ngự.

Vào năm 1685, ông sai đô đốc Bành Xuân và Tát Bố Tố chia hai đường thủy bộ tấn công Yaksa, hạ được thành này và rút về Ái Huy.

Quân Nga điều đại bác từ kinh thành Moskva tới, kéo thêm viện binh từ Nerchinsk tấn công trở lại. Khang Hi lại sai Tát Bố Tố tấn công Yaksa lần thứ 2 vào năm 1686. Sau 3 tháng giao tranh ác liệt, cuối cùng hai bên đều cầm cự. Tới năm 1689, hai bên ký kết hòa ước Nerchinsk xác định biên giới 2 nước. Hòa ước này đảm bảo hòa bình cho biên giới Nga – Trung trong hơn 100 năm[14][15].

Chiến tranh với người Mông Cổ

Một mặt tấn công chính diện, mặt khác Sa hoàng còn giúp cho các tộc Mông Cổ phía bắc tấn công nhà Thanh. Do Sa hoàng ủng hộ, Cát Nhĩ Đan (Galdan, 1670 - 1697) - hãn của Chuẩn Cát Nhĩ, ngày càng lớn mạnh, thống nhất các bộ lạc Mông và năm 1690 mang quân tấn công vào Nội Mông, chỉ còn cách Bắc Kinh 90 km.

Khang Hi bèn thân chinh đi đánh Cát Nhĩ Đan, bất chấp sự phản đối của nhiều đại thần muốn cầu hòa. Hai bên giao chiến ác liệt tại Ô Lan Bố Thông. Cát Nhĩ Đan bố trí phòng thủ "thành lạc đà", dùng hàng ngàn con lạc đà trói chân nằm dưới đất, trên lưng xếp đầy hòm gỗ đựng chăn đệm ướt tạo ra bức thành dài[16]. Nhưng sau đó thành lạc đà bị quân Thanh dùng đại bác bắn vỡ. Cát Nhĩ Đan phải phá vây bỏ chạy.

Năm 1696, Cát Nhĩ Đan lại liên kết với Sa hoàng, mang 3 vạn quân[16] tấn công Trung Quốc lần thứ 2. Khang Hi lại thân chinh mang 10 vạn quân[16] đi đánh, chia làm 3 cánh: Tát Bố Tố phía đông, Phí Dương Cổ chỉ huy phía tây và ông tự mình đi trung quân. Kết quả quân Thanh thắng trận, đuổi được Cát Nhĩ Đan.

Sang năm 1697, Cát Nhĩ Đan tấn công lần thứ 3. Khang Hi lại phải thân chinh một lần nữa. Lần này Cát Nhĩ Đan thất bại nặng, phải chạy về căn cứ Y Lợi, nhưng Y Lợi đã bị cháu là Sách Vọng A Na Bố Thản làm phản chiếm giữ. Cát Nhĩ Đan định chạy sang Tây Tạng nhưng đường đi bị quân Thanh ngăn trở. Nhiều thủ hạ đầu hàng quân Thanh, Cát Nhĩ Đan bèn tự vẫn chết trong tuyệt vọng[16][17].

Sau này Sách Vọng A Na Bố Thản (Tsewang Rabtan) lại mang quân chiếm Tây Tạng. Năm 1720 Khang Hi điều binh đánh đuổi Sách Vọng, hộ tống vị Đạt Lai Lạt Ma VII của Tây Tạng về nước. Từ đó nhà Thanh cử sứ thần và quân sĩ tới chiếm lĩnh vùng Tây Tạng[18]. Từ năm 1722, Khang Hi phái quân tiến vào Urumqi, mở đầu việc chiếm giữ Tân Cương sau này[4].

Xây dựng đất nước

Lãnh thổ

Thời kỳ Khang Hi cai trị, lãnh thổ Trung Quốc phía đông giáp biển, phía nam giáp Đại Việt, phía tây vượt Thông Lãnh, phía bắc đến Siberi. Từ trước đến thời Khang Hi, Trung Quốc chưa từng có thời kỳ nào lãnh thổ rộng lớn, thống nhất, đa sắc tộc và được quản lý hiệu quả, lâu dài như vậy[4].

Chế độ quan lại

Sau khi thống nhất quốc gia, Khang Hi bắt tay vào chỉnh đốn bộ máy quan lại. Ông thực thi thưởng phạt nghiêm minh, chiêu nạp nhân tài trong toàn quốc để thu dụng[17].

Khang Hi luôn dậy sớm từ 3 giờ sáng làm việc[19]. Ông không hài lòng về tình trạng quan lại tham ô, ức hiếp dân chúng. Trong những lần đi tuần thú, ông được các quan lại địa phương dâng mỹ nữ nhưng ông kiên quyết từ chối và còn trách phạt viên quan đó. Điều này được xem là hiếm có trong các vị vua Trung Quốc[19].

Ông rất chú trọng chỉnh đốn bộ máy chính quyền. Ông nghiêm trị những viên quan đục khoét dân như Tuần phủ Sơn Tây là Mục Nhĩ Trại, Tổng đốc Hồ Quảng là Sái Dục Vinh, Tri phủ Thái Nguyên là Triệu Phương Chiếu, Tổng đốc Lưỡng Giang là Cát Lễ giáng chức nhiều người có tội khác. Nhiều vị quan thanh liêm được ông cất nhắc[17][20].

Phát triển kinh tế

Nhằm tăng cường kiểm soát Giang Nam sau khi dẹp loạn Tam phiên, từ năm 1684 Khang Hi nhiều lần đi tuần thú vùng này. Việc đi tuần thú của Khang Hi góp phần ổn định xã hội Giang Nam và thúc đẩy kinh tế nơi đây phát triển.

Khang Hi Đế trở về sau một chuyến năm tuần năm 1689.
  • Xóa bỏ chế độ khoanh đất sản xuất: Năm 1669, Khang Hi hạ lệnh xóa bỏ chế độ khoanh đất sản xuất theo kiểu nông nô, song bị Ngao Bái ngăn trở nên không thực thi được hiệu quả. Năm 1685, ông cho thi hành lệnh này một lần nữa, nhờ vậy đất đai được trả về tay nông dân[17].
  • Xây dựng các công trình thủy lợi: công trình thủy lợi nổi bật nhất thời Khang Hi là đê sông Hoàng Hà. Ông đã dồn tâm huyết suốt 30 năm để trị thủy dòng sông này. Ban đầu ông sai đại thần Cận Phụ vốn nổi tiếng về nghề nông lo việc này. Sau khi Cận Phụ mất, ông trực tiếp tham gia vào việc này[21]. Trong 6 lần ông đi tuần sát xuống phía nam, lần nào cũng quan tâm tới thủy lợi sông Hoàng Hà. Việc làm thủy lợi sông Hoàng Hà đảm bảo sự thông suốt của Đại Vận Hà (kênh đào lớn từ thời Tùy), giúp vận chuyển hàng triệu tấn lương thực trong nước.
  • Khuyến khích khẩn hoang: Khang Hi cho thi hành chính sách khuyến khích khai khẩn, ai có công khai khẩn thì được hưởng. Ông yêu cầu các quan lại phải thực thi, trong 5 năm phải khẩn hoang hết vùng đất do mình cai trị[21]. Ông ra lệnh kêu gọi lưu dân tham gia sản xuất nông nghiệp, bất kể ai dù là người bản địa hay di cư đều xếp vào Bảo, Giáp để tham gia khẩn hoang. Lưu dân tham gia khẩn hoang được sở hữu một phần đất đai, do đó họ được đảm bảo chỗ ở và nguồn kiếm sống. Nhờ chính sách này, sản lượng lương thực trong nước tăng từ 527 vạn tấn lên 581 vạn tấn[17].
  • Giảm nhẹ thuế khóa: Thấy rõ bài học mất nước của triều Minh do chính sách thuế khóa nặng nề, ông cho thi hành cải cách thuế. Trong thời gian làm vua, ông cho hủy bỏ 3 lần miễn thuế cho các địa phương, miễn thu lương thực 2 lần cho phía nam[22]. Khi có mất mùa hoặc có chiến tranh, ông đều hạ lệnh giảm thu tiền mặt và thu lương thực. Trước đây, thuế thu theo đầu người ("đinh ngân"), nhiều người không đủ tiền nộp. Năm 1712, ông tuyên bố lấy năm trước (1711) làm năm chuẩn để tính số đinh toàn quốc, về sau nếu số đinh gia tăng cũng không phải nộp thêm. Việc này gọi là "thịnh thế tư đinh, vĩnh bất gia phú" (Thêm tráng đinh thời thịnh, mãi không tăng thuế). Chính sách này làm giảm gánh nặng cho dân, góp phần ổn định xã hội.

Cùng nhiều đóng góp tích cực, Khang Hi vẫn còn hạn chế về việc duy trì lợi ích thái quá cho những người quý tộc Mãn châu[23].

Với vấn đề văn hóa

Thành tựu

Khang Hi cũng rất chú trọng tới văn hóa. Ham học từ nhỏ, Khang Hi tiếp tục học tập suốt đời. Ông rất quan tâm tới truyền thống văn hóa cổ xưa của người Hán, đã học qua các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh, Sử ký, Hán thư, Tư trị thông giám... Ông biết cách dùng văn hóa Hán để tận dụng tài năng của các tri thức người Hán giúp việc trong bộ máy chính quyền[4].

Khang Hi xem những tư tưởng cơ bản của Nho giáo như Tam cương ngũ thường, trung hiếu tiết nghĩa là nền tảng trị quốc. Việc áp dụng mạnh tư tưởng đó là một nguyên nhân giúp ông thống nhất quốc gia, khiến mâu thuẫn dân tộc tương đối hòa dịu[4]. Ngoài việc giữ thông lệ khoa cử cũ, ông còn mở ra chế độ khoa cử mới, có tên là "bác học hồng từ khoa". Ông cũng thu hút những nhân tài cũ của nhà Minh vào bộ máy[19].

Năm 1716, ông ban lệnh soạn bộ Khang Hi tự điển gồm 42 quyển, 47.035 chữ Hán, có giá trị rất lớn[18]. Bên cạnh đó, ông còn ra lệnh soạn "Toàn Đường thi", "Bội văn vận phủ". Ông tổ chức đo đạc trên toàn quốc và ban hành cuốn bản đồ "Hoàng dư toàn lãm đồ".

Khác với triều đình nhà Minh và các đời vua Thanh đầu tiên luôn cảnh giác với người phương Tây, Khang Hi tỏ ra cởi mở tiếp thu những thành tựu văn hóa của họ. Nhà Minh và các vua Thanh trước chỉ lợi dụng các giáo sĩ, cho vào truyền giáo nhằm học cách soạn lịch pháp và chế súng ống, ngoài ra rất dè dặt với lớp người này. Khang Hi tiếp cận sâu hơn với người phương Tây để tiếp nhận nhiều học thuật từ họ trong các lĩnh vực: toán học, y học, địa lý học, thiên văn học[24].

Trong triều đình, ông trọng dụng hai người Tây Dương. Người thứ nhất là Adam Schall von Bell (Thang Nhược Vọng), quốc tịch Đức, Giám đốc Đài thiên văn Bắc Kinh, được Khang Hi gọi là Thông Minh Giáo sư. Người thứ hai là Ferdinand Verbiest (Nam Hoài Nhân), người Bỉ, có khả năng luyện kim, đúc súng. Cả hai đều có những đóng góp lớn lao trong công cuộc bình định Trung Quốc của Khang Hi. Johann Adam Schall von Bell bị nhóm người Dương Quang Tiên vu cáo và bị sát hại. Sau này ông ân hận, giải oan cho giáo sĩ Johann Adam Schall và công khai thừa nhận lịch pháp phương Tây chính xác hơn lịch truyền thống của Trung Quốc[25].

Năm 1713, ông gửi một số thanh niên Trung Quốc sang Pháp du học. Ông biết chơi viôlông, thích sử dụng đồng hồ Tây phương. Khang Hi chân thành học hỏi các giáo sĩ phương Tây về các ngành kỷ hà học, thiên văn học. Ông tổ chức cho các nhà khoa học Trung Hoa và phương Tây cùng hợp tác biên soạn những bộ sách kiến thức hỗn hợp đông – tây về thiên văn học, số học, âm nhạc như Lịch Tượng khảo thành, Số lý tinh uẩn, Luật lữ chính nghĩa… Ông hấp thu tri thức địa đồ học phương Tây để vẽ địa đồ toàn quốc; ông so sánh y học phương Tây và với học thuật Trung Quốc. Ngoài ra ông còn tìm hiểu triết học phương Tây[23].

Hạn chế

Tuy có những đóng góp tích cực, Khang Hi cũng có những tì vết đối với văn hóa Trung Hoa đương thời. Nhằm bảo vệ quyền lợi riêng của quý tộc Mãn Thanh, ông đã ra tay đàn áp nhiều trí thức người Hán trong các vụ án văn chương ("văn tự ngục") khi ông cho rằng họ có lời lẽ và câu văn ảnh hưởng tới lợi ích của Đại Thanh, đã xử họ rất nặng[19][26].

Sau này, do có sự can thiệp của Giáo hội Công giáo Rôma vào phương thức truyền giáo của các giáo sĩ khiến Khang Hi bất đồng, ông bèn ra lệnh "bế quan tỏa quốc", cấm họ không được phép truyền giáo tại Trung Quốc nữa[27].

Cuối đời

Cửu tử đoạt đích

Khang Hi Đế vốn đã lập con lớn Dận Nhưng làm Thái tử, song Dận Nhưng đạo đức kém, tính tình xấu xa[28] nên ông liền phế truất. Trước ngôi thái tử bỏ trống, các hoàng tử kéo bè cánh để tranh giành ngôi thừa kế, trong đó những người có ý định tranh ngôi là Đại A ca Dận Thì, Tam A ca Dận Chỉ, Tứ A ca Dận Chân, Bát A ca Dận Tự và Thập tứ A ca Dận Đề. Trong đó, Đại A ca vì bị tội nên bị tước đoạt vương vị, Tam A ca là người bác học không thông hiểu việc chính sự, Bát A ca uy vọng trong triều quá lớn khiến Khang Hi cảm thấy bị uy hiếp nên những người này đều bị bỏ qua. Cuộc chạy đua đến ngai vàng chỉ còn là cuộc đua giữa Dận Chân và Dận Đề. Đây được gọi là [Cửu tử đoạt đích; 九子夺嫡].

Năm Khang Hi thứ 61 (1722), ngày 13 tháng 11 (tức ngày 20 tháng 12 dương lịch), Khang Hi Hoàng đế băng hà tại Sướng Xuân viên, Thuận Thiên phủ. Hưởng thọ 69 tuổi, ở ngôi 61 năm, là hoàng đế ở ngôi lâu nhất trong lịch sử Trung Quốc[19][29][30].

Tranh cãi

Vãn niên Khang Hi Đế.

Các sử gia ghi nhận có nhiều ghi chép khác nhau về việc qua đời và truyền ngôi của Khang Hi Đế. Có ý kiến cho rằng ông bị Hoàng tử thứ tư Dận Chân đầu độc sát hại để lên nối ngôi[31]. Có ý kiến cho rằng Khang Hi Đế không bị giết; ông vốn có ý định truyền ngôi cho Hoàng tử thứ 14 là Dận Đề[32] - trong di chiếu ông đã viết "truyền ngôi cho con trai thứ 14". Khi ông qua đời, hoàng tử thứ tư là Dận Chân đã liên kết với Tổng đốc Xuyên Thiểm Niên Canh Nghiêu và Cửu Môn Đề Đốc Long Khoa Đa sửa chữ "thập" (十 - mười) thành chữ "vu" (于 - cho), vì vậy nghĩa di chiếu hiểu là "truyền ngôi cho con trai thứ 4"[33].

Theo Dịch Trung Thiên, cách nói trên chỉ để lừa gạt bọn vô học dân chợ búa, nói thế không chỉ để hạ thấp Ung Chính Đế mà còn là xem thường Khang Hi[34]. Người tạo ra cách nói trên không hiểu được quy chế vương triều Thanh, khi nói di chiếu "Truyền vị Thập tứ tử Dận Đề" mà bị Ung Chính và Long Khoa Đa sửa chữ "thập" thành chữ "vu" như trên thành "Truyền vị vu (cho) Tứ tử Dận Chân". Theo quy chế nhà Thanh, đàng trước số thứ tự phải có chữ "hoàng" và Dận Chân phải viết là hoàng tứ tử, Dận Đề là hoàng thập tứ tử. Như vậy di chiếu theo đúng quy chế nhưng theo cách nói trên phải viết là "Truyền vị Hoàng thập tứ tử Dận Đề" bị sửa thành "Truyền vị Hoàng vu tứ tử Dận Chân", thế này thì làm sao hiểu được?[34] Hơn nữa đây là triều Thanh, không phải triều Minh, di chiếu truyền ngôi phải được viết bằng cả tiếng Hán và tiếng Mãn. Dận Chân có thể sửa được văn bản tiếng Hán nhưng chẳng thể sửa văn bản tiếng Mãn được.[34]

Dịch Trung Thiên cũng cho rằng Khang Hi Đế vốn đã chọn Dận Chân làm người nối nghiệp. Có những dẫn chứng sau: vào đại lễ đăng cơ 60 năm (1721), Dận Chân được cha cử đi tế Tam đại lăng - những lăng mộ tổ tiên vương thất Đại Thanh ở Thịnh Kinh. Năm thứ 61 (1722), Dận Chân thay cha tế trời ở đàn Nam Giao, ngày Đông chí. Đây là ngày lễ lớn của đất nước, một hoàng tử thay cha đi tế trời đất tổ tông thì gần như được ngầm chỉ định là người kế vị[35]. Mùa xuân năm thứ 61, Khang Hi đi xem hoa ở vườn Viên Minh, thấy được Hoằng Lịch, con thứ tư của Dận Chân thông minh nhanh nhẹn thì mừng lắm, đem cháu về cung nuôi và tự dạy dỗ. Mọi người đều ngầm hiểu Khang Hi muốn truyền ngôi cho Dận Chân vì:"Để Hoằng Lịch làm hoàng đế thì trước hết phải để cha hắn làm hoàng đế"[36].

Khi thái tử Dận Nhưng bị phế, ai cũng muốn dồn vào chỗ chết, Đại A ca hận Dận Nhưng tận xương, Bát A ca ở thế đối đầu với Dận Nhưng, hai người này ai làm hoàng đế thì Dận Nhưng cũng chắc chắn phải chết. Chỉ có Dận Chân đứng ra bảo vệ anh. Khang Hi không muốn mình mất đi mà Dận Nhưng bị anh em giết hại nên đánh giá cao hành động của Dận Chân, cho rằng dưới tay người này thì anh em của y sẽ không bị khổ. Thực tế thì Dận Chân sau khi làm vua đối xứ rất tốt với Dận Nhưng và gia đình y. Đây có thể là một trong những nguyên nhân làm Khang Hi muốn truyền ngôi cho Dận Chân[37].

Việc Khang Hi Đế không lập Thái tử rất có thể là để bảo vệ Dận Chân khỏi sự công kích của đám anh em cũng như muốn an hưởng tuổi già những năm cuối đời[38]. Khang Hi đã sắp xếp xong: năm thứ 57 (1718), phong Dận Đề làm Đại tướng quân vương, ra trấn thủ Tây Bắc, tách xa khỏi bè đảng Dận Tự, Dận Đường. Chức "Đại tướng quân vương" này xem thì hay, nhưng thực ra chẳng là gì: nói là tướng quân nhưng lại là vương, là vương nhưng không có phong hiệu, chỉ là vương "giả"[39]. Đây là cách sắp xếp rất tinh tế: Dận Đề muốn ngôi báu nhưng ở xa nên chẳng thể làm gì; Dận Chân có đối thủ nên không thể kiêu ngạo; bọn Dận Tự có hy vọng nên sẽ không mạo hiểm[38]. Và Khang Hi cũng đã để lại đường rút: nếu Dận Chân không được như nguyện thì triệu Dận Đề về là xong. Dận Đề là Đại tướng quân vương, nối ngôi chẳng có gì là đường đột. Dận Chân được như ý thì cũng dễ nói với Dận Đề, dù sao cũng chỉ là vương "giả"[40]. Hơn nữa một hoàng đế mưu sâu chí xa như Khang Hi đã sắp đặt nhân sự hết: Niên Canh Nghiêu, nô tài của Dận Chân nắm giữ lương thảo của đại quân và khống chế đường về của Dận Tự. Có họ Niên ở đó, Dận Đề không thể bức cung đình, không thể mưu phản[41][41].

Nhận định

Đương thời, một giáo sĩ người phương Tây từng làm việc cạnh Khang Hi mô tả ông như sau[42]:

Hoàng đế là người tầm thước, hiền từ, chín chắn, cử chỉ đoan trang. Ông có vẻ bề ngoài uy nghiêm bất kể nhìn từ phương diện nào… Ông là người … hiểu biết rất nhiều lĩnh vực khoa học, hàng ngày đều dốc sức tìm tòi nghiên cứu, lại phải giải quyết công việc trong nước, vì thế buổi sáng và buổi tối ông đều định ra một thời gian nhất định để học tập

Khang Hi là vị vua thông minh, tài hoa, cẩn thận, cần cù, sống giản dị, tính tình khoan hòa, nhưng can đảm và cầm quân giỏi. Hàng ngày, ông thường tự tay xử lý 300-400 bản tấu, sớ, nhiều đêm làm việc tới tận canh ba[43]. Các sử gia Trung Hoa ví ông với Đường Thái Tông, còn các học giả phương Tây cho rằng triều đại ông rực rỡ như triều Sa hoàng Pyotr Đại đế (1682 - 1725) của nước Nga dưới Vương triều Romanovvua Louis XIV (16381715) của nước Pháp dưới vương triều Bourbon đương thời[9].

Dù còn một số hạn chế, Khang Hi được đánh giá là vị Hoàng đế có nhiều thành tích chính trị và có nhiều ảnh hưởng trong lịch sử vương triều Thanh[44]. Dưới thời cai trị của Khang Hi, vương triều Thanh mới thành lập đi vào con đường cường thịnh. Thời kỳ ông cai trị có cả thành tích văn và võ, củng cố cơ sở thống trị cho nhà Thanh một cách vững chắc. Ông đã để lại sự khai sáng cho đường lối cai trị đất nước vững vàng sang thế kỷ 18 cho người cháu nội là Càn Long, được các sử gia gọi là "Khang Càn thịnh thế"[45].

Gia đình

Hậu phi

Hoàng hậu

Tên Chân dung Sinh mất Cha Ghi chú
Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu
Hách Xá Lý thị
3 tháng 2 năm 1653
6 tháng 6 năm 1674
(21 tuổi)
Cát Bố Lạt
(噶布喇)
Năm 1665, nhập cung làm Chính cung Hoàng hậu cho Khang Hy, rất được ông yêu thương;
Qua đời do băng huyết, sinh Thừa Hỗ và Phế Thái tử Dận Nhưng.
Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu
Nữu Hỗ Lộc thị
1653
18 tháng 3 năm 1678
(26 tuổi)
Át Tất Long
(遏必隆)
Nhập cung cùng lúc với Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu, được sắc phong Phi;
Năm 1677, Nữu Hỗ Lộc thị được sách phong Chính cung Hoàng hậu, 6 tháng sau thì qua đời.

Không con.

Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu
Đông Giai thị
?
24 tháng 8 năm 1689
Đông Quốc Duy
(佟國維)
Em họ của Khang Hi Đế;

Nhập cung khi Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu được phong Mẫu nghi thiên hạ, được sắc phong Quý phi;

Dưỡng mẫu của Ung Chính đế

Lập làm Chính nhất phẩm Hoàng quý phi năm 1681;

Tấn phong Chính cung Hoàng hậu năm 1689, 1 ngày sau thì bạo băng. Sinh Hoàng bát nữ.

Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu
Ô Nhã thị
1660
23 tháng 5 năm 1723
(63 tuổi)
Ô Nhã Uy Vũ
(乌雅威武)
Nhập cung sơ phong Quý nhân (1673);
Thăng Đức tần (德嬪) năm 1679; 
Sách phong Đức phi (德妃) trong năm 1682;
Ung Chính Đế tấn tôn mẹ mình làm Nhân Thọ Hoàng thái hậu (仁壽皇太后);
Sinh 3 Hoàng tử và 3 Hoàng nữ.

Phi tần

Danh hiệu Sinh Mất Cha Ghi chú
Hoàng quý phi
Khác Huệ Hoàng Quý phi Đông Giai thị
(悫惠皇贵妃佟佳氏)
tháng 8 năm 1668 1 tháng 4 năm 1743 Đông Quốc Duy (佟國維) Em gái của Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu;
Thăng Quý phi năm 1700; 
Thời điểm đó, ba vị Tiên Hậu là Hiếu Thành, Hiếu ChiêuHiếu Ý đều đã tạ thế, Ôn Hi Quý phi cũng hoăng thệ, Đông Giai Quý phi làm chủ hậu cung;
Ung Chính Đế tôn làm Hoàng khảo Hoàng Quý phi (皇考皇贵妃) (1724);

Càn Long Đế tấn tôn làm Hoàng tổ Thọ Kì Hoàng Quý Thái phi (皇祖寿祺皇贵太妃) (1736).

Đôn Di Hoàng Quý phi
Qua Nhĩ Giai thị
(惇怡皇贵妃瓜尔佳氏)
16 tháng 10 năm 1683 14 tháng 3 năm 1768 Dụ Mãn (裕滿) Sách phong Hoà tần (和嬪) (1699) rồi Hoà phi (和妃) (1717). Sinh duy nhất Hoàng thập bát nữ;
Ung Chính Đế tôn làm Hoàng khảo Quý phi (皇考贵妃);
Càn Long Đế tôn làm Hoàng tổ Ôn Huệ Hoàng Quý Thái phi (皇祖温惠皇贵太妃).
Kính Mẫn Hoàng Quý phi Chương Giai thị
(敬敏皇贵妃章佳氏)
? 25 tháng 7 năm 1699 Hải Khoan (海寬) Nguyên là Thứ phi (庶妃), không rõ phong hiệu, thời gian nhập cung;
Qua đời truy phong Mẫn phi (敏妃);
Sinh 1 Hoàng tử và 2 Hoàng nữ
Sau này Ung Chính Đế truy thăng làm Hoàng Quý phi, do là mẹ của Hoàng thập tam tử Dận Tường.
Quý phi
Ôn Hi Quý phi Nữu Hỗ Lộc thị
(温僖贵妃钮祜禄氏)
? 3 tháng 11 năm 1694 Át Tất Long (遏必隆) Em gái của Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu;
Năm 1682, tháng 12, tiến cung sách phong Quý phi;
Sủng phi đương thời của Khang Hi Đế;
Sinh hạ 1 Hoàng tử và 1 Hoàng nữ.
Phi
Tuệ phi Bát Nhĩ Tể Cát Đặc thị
(慧妃博尔济吉特氏)
? 12 tháng 4 năm 1670 Tam đẳng Thai Cát A Úc Tích (台吉阿郁錫) của Khoa Nhĩ Thẩm bộ Cháu họ xa của Hiếu Trang Văn Thái hoàng Thái hậu;
Nhập cung khi còn nhỏ;
Sau khi qua đời mới được truy phong làm Tuệ phi (慧妃).
Huệ phi Nạp Lạt thị
(惠妃那拉氏)
? 1732 Lang trung Tác Nhĩ Hòa (索爾和) Sơ phong Thứ phi (庶妃);
Thăng Huệ tần (惠嬪) năm 1677; 
Tấn phong Huệ phi năm 1681;
Sinh Thừa Khánh và Hoàng trưởng tử Dận Thì.
Nghi phi Quách Lạc La thị
(宜妃郭络罗氏)
? 1733 Tá lĩnh Tam Quan Bảo (三官保), thuộc Chính Lam kỳ Nguyên là Thứ phi;
Thăng Nghi tần (宜嬪) năm 1677; 
Tấn phong Nghi phi năm 1681;
Sủng phi của Khang Hi Đế, ỷ sủng sinh kiêu, tranh sủng với Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu;
Sinh hạ 3 Hoàng tử.
Vinh phi Mã Giai thị
(荣妃马佳氏)
1652? 4 tháng 12 năm 1727 Viên ngoại lang Cái Sơn (盖山) Nhập cung khi còn nhỏ;
Thăng Vinh tần (荣嬪) năm 1677; 
Tấn phong Vinh phi năm 1681;
Sinh hạ 5 Hoàng tử và 1 Hoàng nữ.
Bình phi Hách Xá Lý thị
(平妃赫舍里氏)
? 20 tháng 6 năm 1696 Cát Bố Lạt (噶布喇) Em gái của Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu;
Nguyên là Thứ phi;
Qua đời mới được truy phong làm Bình phi (平妃).
Lương phi Vệ thị

(良妃卫氏)

? 29 tháng 12 năm 1711 Quản lãnh A Bố Nãi (阿布鼐) Cung nhân của Tân giả khố;
Thăng Lương tần (良妃) năm 1700; 
Tấn phong Lương phi không lâu sau;
Qua đời khi được hơn 40 tuổi;
Sinh Hoàng bát tử Dận Tự.
Tuyên phi Bác Nhĩ Tể Cát Đặc thị
(宣妃博尔济吉特氏)
? 12 tháng 9 năm 1736 Thân vương Hoà Tháp (和塔) của Khoa Nhĩ Thẩm thị Cháu gái của Điệu phi (悼妃), thiếp của Thuận Trị Đế;
Tấn phong Tuyên phi (宣妃) năm 1718.
Thành phi Đới Giai thị
(成妃戴佳氏)
? 13 tháng 10 năm 1740 Ti khố Trác Kỳ (卓奇) Sơ phong Thứ phi rồi Thành tần (成嬪); 
Tấn phong Thành phi năm 1718;
Hưởng thọ hơn 70 tuổi.
Sinh Hoàng thất tử Dận Hựu.
Thuận Ý Mật phi Vương thị
(顺懿密妃王氏)
thập niên 1660 16 tháng 10 năm 1744 Quản lãnh Vương Quốc Chinh (王國正) của Tô Châu Là người Hán;
Năm 1718 mới được sắc phong lên làm Mật tần (密嫔). Sinh được 3 Hoàng tử;
Ung Chính tôn Hoàng khảo Mật phi (皇考密妃); 
Càn Long tôn Hoàng tổ Thuận Ý Mật Thái phi (皇祖順懿密太妃).
Thuần Dụ Cần phi Trần thị
(纯裕勤妃陈氏)
thập niên 1660 20 tháng 12 năm 1753 Nhị đẳng Thị vệ Trần Hy Mẫn (陳希敏) Là người Hán;
Năm 1718 mới được sắc phong lên làm Cần tần (勤嬪);
Sinh Hoàng thập thất tử Dận Lễ;
Ung Chính tôn Hoàng khảo Cần phi (皇考勤妃); 
Càn Long tôn Hoàng tổ Thuần Dụ Cần Thái phi (皇祖純裕勤太妃).
Định phi Vạn Lưu Ha thị
(定妃万琉哈氏)
1661 24 tháng 5 năm 1757 Lang trung Tha Nhĩ Bật (拖爾弼), thuộc Chính Hoàng kỳ Nhập cung năm 13 tuổi;
Thăng Định tần (定嬪) năm 1718;
Ung Chính tôn làm Hoàng khảo Định phi (皇考定妃)
Sinh Hoàng thập nhị tử Dận Đào.
Tần
An tần Lý thị
(安嬪李氏)
? ? Tổng binh quan Cương A Thái (剛阿泰), thuộc Hán quân Chính Lam kỳ Cháu nội của hàng tướng Lý Viễn Phương (李永芳);
Nhập cung năm 1671, một trong những phi tần đầu tiên của Khang Hy;
Thăng An tần (安嬪) năm 1677.
Kính tần Chương Giai thị
(敬嬪章佳氏)
? ? Hộ quân Tham lĩnh Hoa Thiện (華善) Một trong những phi tần đầu tiên của Khang Hy;
Thăng Kính tần (敬嬪) năm 1677.
Đoan tần Đổng thị 
(端嬪董氏)
? 9 tháng 9 năm 1702 Viên ngoại lang Đổng Đạt Tề (董達齊) Một trong những phi tần đầu tiên của Khang Hy;
Thăng Đoan tần (端嬪) năm 1677.
Hy tần Hách Xá Lý thị
(僖嫔赫舍里氏)
? 11 tháng 9 năm 1702 Lãi Sơn (赉山) Sơ phong Thứ phi (庶妃);
Qua đời truy thăng Hy tần (僖嫔) (1677).
Thông tần Nạp Lạt thị 
(通嫔纳喇氏)
? 23 tháng 6 năm 1744 Giám sinh Thường Tố Đại (常素代) Sơ phong Quý nhân (贵人); 
Tấn tôn Hoàng khảo Thông tần (皇考通嬪) (1724) dưới thời Ung Chính.
Tương tần Cao thị 
(襄嫔高氏)
? 28 tháng 6 năm 1746 Cao Đình Tú (高廷秀) Xuất thân Hán quân Chính Lam kỳ.

Sơ phong Thứ phi (庶妃);
Ung Chính Đế tôn làm Hoàng khảo Quý nhân (皇考貴人) (1722);
Càn Long tấn tôn làm Hoàng tổ Tương tần (皇祖襄嬪) năm 1736.

Cẩn tần Sắc Hách Đồ thị
(谨嫔色赫图氏)
? 16 tháng 3 năm 1739 Viên ngoại lang Đa Nhĩ Tế (多爾濟) Sơ phong Thứ phi (庶妃);
Ung Chính Đế tôn làm Hoàng khảo Quý nhân (皇考貴人) (1722);
Càn Long tấn tôn làm Hoàng tổ Cẩn tần (皇祖谨嬪) năm 1736;
Hưởng thọ hơn 40 tuổi.
Tĩnh tần Thạch thị
(静嫔石氏)
? 6 tháng 6 năm 1758 Thạch Hoài Ngọc (石懷玉) Sơ phong Thứ phi (庶妃);
Ung Chính Đế tôn làm Hoàng khảo Quý nhân (皇考貴人) (1722);
Càn Long tấn tôn làm Hoàng tổ Tĩnh tần (皇祖静嬪) năm 1736;
Hưởng thọ hơn 60 tuổi.
Hi tần Trần thị
(熙嫔陈氏)
? 2 tháng 1 năm 1737 Trần Ngọc Khanh (陳玉卿) Sơ phong Thứ phi (庶妃);
Ung Chính Đế tôn làm Hoàng khảo Quý nhân (皇考貴人) (1722);
Càn Long tấn tôn làm Hoàng tổ Hi tần (皇祖熙嬪) năm 1736;
Hưởng thọ hơn 60 tuổi.
Linh tần Chương Giai thị
(伶嬪章佳氏)
? tháng 8 năm 1748 Chủ sự bộ Hộ Tùng Viễn
(叢遠)
Sơ phong Thứ Phi (庶妃);
Ung Chính Đế tôn làm Hoàng khảo Quý nhân (皇考貴人) (1722);
Càn Long tấn tôn làm Hoàng tổ Linh tần (皇祖伶嬪) năm 1736.
Mục tần Trần thị
(穆嫔陈氏)
? tháng 12 năm 1727 Trần Kì Sơn (陳岐山) Sơ phong Thứ phi (庶妃);
Ung Chính Đế tôn làm Hoàng khảo Quý nhân (皇考貴人) (1722);
Càn Long tấn tôn làm Hoàng tổ Mục tần (皇祖穆嬪) năm 1736;
Hưởng thọ khoảng 30 tuổi.
Thị thiếp khác
Quý nhân Quách Lạc La thị
(贵人郭络罗氏)
1717 Em gái của Nghi phi.

Sinh 1 hoàng tử và 1 hoàng nữ

Bố Quý nhân Triệu Giai thị[46]

(布贵人兆佳氏)

1717 Tham lĩnh Mệnh Khắc Mệnh Hách (塞克塞赫); Thăng Bố Thường tại (布常在; 1707). Dần thăng Bố Quý nhân (布贵人).

Sinh Hoà Thạc Đoan Tĩnh công chúa.

Viên Quý nhân Viên thị[47]

(袁贵人袁氏)

12 tháng 8 năm 1719 Sinh Hoà Thạc Khác Tĩnh công chúa
Bạch Quý nhân Trần thị[48]

(白贵人陳氏)

Trần Tú (陳秀) Sinh hạ 2 hoàng tử
Quý nhân Dịch thị
(贵人易氏)
1711 1785 Được phong Y Quý nhân (伊贵人).
Quý nhân Tân thị
(贵人新氏)
1716
Quý nhân Nạt Lạp thị
(贵人納喇氏)
Na Đan Châu (那丹珠)
Quý nhân Nạt Lạp thị
(贵人納喇氏)
Kiêu kỵ binh Chiêu Cách (昭格)
Quý nhân Mã thị
(贵人馬氏)
Quý nhân Doãn thị
(贵人尹氏)
Quý nhân Lạc thị
(贵人勒氏)
Quý nhân Văn thị
(贵人文氏)
Quý nhân Lam thị
(贵人藍氏)
Quý nhân Trương thị
(贵人常氏)
Quý nhân Tô thị
(贵人蘇氏)
Quý nhân Tiên thị
(贵人仙氏)
Thứ phi Nữu Hỗ Lộc thị
(庶妃钮祜禄氏)
Tấn Bảo (晉寶)
Thứ phi Trương thị
(庶妃张氏)
Thứ phi Lưu thị
(庶妃刘氏)
Thứ phi Vương thị
(庶妃王氏)
Từ Thường tại
(徐常在)
1702
Doãn Thường tại
(尹常在)
Sắc Thường tại
(色常在)
Lạc Thường tại
(路常在)
Thọ Thường tại
(壽常在)
Thường Thường tại
(常常在)
Thụy Thường tại
(瑞常在)
Quý Thường tại
(貴常在)
Thạch Thường tại
(石常在)
Ngưu Thường tại
(牛常在)
Tra Thường tại
(查常在)
Nghiêu Thường tại
(堯常在)
Nạp Thường tại
(內常在)
Hiểu Đáp ứng
(曉答應)
Ngưu Đáp ứng
(牛答應)
Linh Đáp ứng
(靈答應)
Xuân Đáp ứng
(春答應)
Khánh Đáp ứng
(慶答應)
Tú Đáp ứng
(秀答應)
Trì Đáp ứng
(治答應)
Diệu Đáp ứng
(妙答應)
Song Đáp ứng
(雙答應)
Thái Đáp ứng
(采答應)

Hậu duệ

# Danh hiệu Tên Sinh Mất Mẹ Ghi chú
Hoàng tử
Thừa Thụy
承瑞
5/11/1667 10/7/1670 Vinh phi Mất sớm
Thừa Hỗ
承祜
4/1/1670 3/3/1672 Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu Mất sớm
Thừa Khánh
承慶
21/3/1670 26/6/1671 Huệ phi Mất sớm
Tái Âm Sát Hồn
賽音察渾
24/1/1672 6/3/1674 Vinh phi Mất sớm;

Là Hoàng tử duy nhất được đặt tên theo tiếng Mông Cổ với Hiếu Trang Hoàng thái hậu.

1 Trực Quận vương
(直郡王)
Dận Thì
胤禔
12/3/1672 7/1/1735 Huệ phi Được phong Trực Quận vương năm 1698;

Bị tước bỏ tước hiệu năm 1708;

Chôn cất theo lễ nghi dành cho Bối tử.

Trường Hoa
長華
11/5/1674 12/5/1674 Vinh phi Mất sớm
2 Lý Mật Thân vương
(理密親王)
Dận Nhưng
胤礽
6/6/1674 27/1/1725 Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu

Đầu tiên có tên là Bảo Thành (保成);

Được phong Thái tử năm 1675;

Bị phế bỏ tước vị năm 1708; Tái phong Thái tử năm 1709;

Bị phế bỏ tước vị năm 1712.

Trường Sinh
長生
12/8/1675 27/4/1677 Vinh phi Mất sớm
Vạn Phủ
萬黼
4/12/1675 11/3/1679 Thông tần Mất sớm
3 Thành Ẩn Thân vương
(誠隱親王)
Dận Chỉ
胤祉
23/3/1677 10/7/1732 Vinh phi

Được phong Thành Quận vương (誠郡王) năm 1698;

Giáng Bối lặc năm 1699; lại thăng Thành Thân vương năm 1709;

Bị giáng xuống làm Bối tử năm 1730;

Được khôi phục Thành Thân vương sau khi mất.

4 Thế Tông Hiến Hoàng đế Dận Chân
胤禛
13/12/1678 8/10/1735 Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu

Được phong Bối lặc năm 1698;

Tiến phong Ung Thân vương (雍親王) năm 1709;

Kế vị, tức Ung Chính Đế.

Dận Tán
胤禶
10/4/1679 30/4/1680 Thông tần Mất sớm
5 Hằng Ôn Thân vương
(恆溫親王)
Dận Kì
胤祺
5/1/1680 10/7/1732 Nghi phi Được phong Bối lặc năm 1698;

Thăng Hằng Thân vương năm 1709.

6 Dận Tộ
胤祚
5/3/1680 15/6/1685 Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu Mất sớm
7 Thuần Độ Thân vương
(淳度親王)
Dận Hựu
胤祐
19/8/1680 18/5/1730 Thành phi

Được phong Bối lặc năm 1698;

Thăng Thuần Quận vương (淳郡王) năm 1709;

Được phong Thuần Thân vương (淳親王) vào năm 1723.

8 Dận Tự
胤禩
29/3/1681 5/10/1726 Lương phi

Được phong Bối lặc năm 1698;

Tiến phong Liêm Thân vương (廉親王) năm 1723;

Bị tước bỏ tước hiệu và xóa tên khỏi hoàng gia năm 1726;

Bị buộc phải đổi tên thành A Kỳ Na (阿其那, Akina) ("lợn");

Được khôi phục tên cũ và trở lại Hoàng tộc sau khi mất năm 1778.

Dận Vũ
胤䄔
13/9/1683 17/7/1684 Quý nhân Quách Lạc La thị Mất sớm
9 Dận Đường
胤禟
17/10/1683 22/9/1726 Nghi phi

Được phong Bối tử năm 1709;

Bị tước bỏ tước hiệu và xóa tên khỏi hoàng gia năm 1725; buộc phải đổi tên thành Tắc Tư Hắc (塞思黑, Sesihei) ("chó");

Được khôi phục tên cũ và trở lại Hoàng tộc sau khi mất năm 1778.

10 Dận Ngã
胤䄉
28/11/1683 18/10/1741 Ôn Hi Quý phi

Được phong Đôn Quận vương (敦郡王) năm 1709; Bị tước bỏ tước hiệu năm 1724;

Được phong tước Phụ quốc công (輔國公) năm 1737; Chôn cất theo lễ nghi dành cho Bối tử.

11 Dận Tư
胤禌
8/6/1685 22/8/1696 Nghi phi Mất sớm
12 Lý Ý Thân vương
(履懿親王)
Dận Đào
胤祹
18/1/1686 2/9/1763 Định phi

Được phong Bối tử năm 1709;

Phong Lý Quận vương năm 1722; Giáng xuống Bối tử năm 1724;

Tái phong Lý Quận vương năm 1730, thăng Lý Thân vương (履親王) năm 1735.

13 Di Hiền Thân vương
(怡賢親王)
Dận Tường
胤祥
16/11/1686 18/6/1730 Kính Mẫn Hoàng Quý phi

Được phong Bối tử năm 1709;

Bị tước vị và giam lỏng năm 1712 sau khi Thái tử Dận Nhưng bị phế;

Được thả và phong Di Thân vương (怡親王) năm 1722;

Là một trong 8 Thiết mạo tử vương của nhà Thanh.

14 Tuân Cần Quận vương
(恂勤郡王)
Dận Đề
胤禵
16/1/1688 13/1/1756 Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu

Tên khai sinh là Dận Trinh (胤禎), em ruột của Hoàng tứ tử Dận Chân;

Được phong Bối tử năm 1709; phong Tuần Quận vương (恂郡王) năm 1723;

Giáng làm Trấn quốc công rồi thăng Bối tử năm 1725;

Tước vị và giam lỏng trong Thọ Hoàng Điện năm 1726;

Được thả và phong Trấn quốc công năm 1737; gia phong Bối lặc năm 1747;

Tái phong Tuân Quận vương năm 1748.

Dận Ki
胤禨
23/2/1691 30/3/1691 Bình phi Mất sớm
15 Du Khác Quận vương
(愉恪郡王)
Dận Vu
胤禑
24/12/1693 8/3/1731 Thuần Ý Mật phi

Được phong Bối lặc năm 1726;

Gia phong Du Quận vương (愉郡王) năm 1730.

16 Trang Khác Thân vương
(莊恪親王)
Dận Lộc
胤祿
28/7/1695 20/3/1767 Thuần Ý Mật phi

Được cho làm con thừa tự của Trang Tĩnh Thân vương Bác Quả Đạt (莊靖親王博果鐸; 1650 – 1723), trưởng tử của Thừa Trạch Dụ Thân vương Thạc Tái (承泽裕亲王硕塞; 1629 - 1655), con thứ của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực; vì vậy ông kế thừa tước Trang Thân vương (莊親王).

17 Quả Nghị Thân vương
(果毅親王)
Dận Lễ
胤禮
24/3/1697 21/3/1738 Thuần Dụ Cần phi

Được phong Quả Quận vương (果郡王) năm 1723;

Tấn phong Quả Thân vương năm 1728;

Về sau, con trai Ung Chính Đế là Hoàng lục tử Hoằng Chiêm được nhận làm con thừa tự.

18 Dận Giới
胤祄
15/5/1701 17/10/1708 Thuần Ý Mật phi Mất vì bệnh sởi tại Tị Thử Sơn Trang.
19 Dận Cát
胤禝
25/10/1702 28/3/1704 Tương tần Mất sớm
20 Giản Tĩnh Bối lặc
(簡靖貝勒)
Dận Y
胤禕
1/9/1706 30/6/1755 Tương tần

Được phong Bối lặc năm 1726;

Bị giáng Phụ quốc công năm 1734; sau phục tước;

Có hai con trai là trưởng tử Hoằng Hướng (弘晌; 1741 - 1743), chết yểu và nhị tử Hoằng Nhuận (弘闰; 1752 - 1792), phong hiệu Bối tử, có bảy người con trai.

21 Thận Tĩnh Quận vương
(慎靖郡王)
Dận Hi
胤禧
27/2/1711 26/6/1758 Hi tần

Được phong Bối tử và thăng Bối lặc năm 1730;

Phong Thận Quận vương (慎郡王) vào năm 1735.

22 Cung Cần Bối lặc
(恭勤貝勒)
Dận Hỗ
胤祜
10/1/1712 12/2/1744 Cẩn tần Được phong Bối lặc năm 1730.
23 Thành Bối lặc
(誠貝勒)
Dận Kỳ
胤祁
14/1/1714 31/8/1785 Tĩnh tần Được phong Bối lặc năm 1730.
24 Hàm Khác Thân vương
(諴恪親王)
Dận Bí
胤祕
5/7/1716 3/12/1775 Mục tần

Được phong Bối tử và thăng làm Bối lặc năm 1730;

Phong Hàm Thân vương (諴親王) vào 1733.

Dận Viên
胤禐
2/3/1718 2/3/1718 Quý nhân Trần thị Mất ngay sau khi sinh.
Hoàng nữ
1 Hoàng trưởng nữ 23/12/1668 11/1671 Thứ phi Trương thị Chết yểu.
2 Hoàng nhị nữ 17/4/1671 8/1/1674 Đoan tần Chết yểu.
3 Cố Luân Vinh Hiến Công chúa
(固倫榮憲公主)
Hoàng tam nữ 20/6/1673 29/5/1728 Vinh phi Hạ giá vào tháng 7 năm 1691, lấy Bác Nhĩ Tế Cát Đặc Ô Nhĩ Cổn (博爾濟吉特烏爾袞) của Ba Lâm bộ.
4 Hoàng tứ nữ 16/3/1674 1678 Thứ phi Trương thị Chết yểu.
5 Hòa Thạc Đoan Tĩnh Công chúa
(和碩端靜公主)
Hoàng ngũ nữ 9/6/1674 4/1710 Quý nhân Triệu Giai thị Hạ giá vào tháng 11 (hay tháng 12) năm 1692, lấy Ô Lương Hãn Cát Nhĩ Tang (烏梁罕噶爾臧).
6 Cố Luân Khác Tĩnh Công chúa
(固倫恪靖公主)
Hoàng lục nữ 4/7/1679 1735 Quý nhân Quách Lạc La thị Hạ giá năm 1697, lấy Khách Nhĩ Khách Quận vương Đôn Đa Bố Đa Nhĩ Tể (敦多布多尔济) của Bác Nhĩ tế Cát Đặc bộ.
7 Hoàng thất nữ 5/7/1682 9/1682 Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu Chết yểu.
8 Hoàng bát nữ 13/7/1683 cuối 7 hoặc đầu 8/1683 Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu Chết yểu.
9 Cố Luân Ôn Hiến Công chúa
(固倫溫憲公主)
Hoàng cửu nữ 10/11/1683 8 hoặc 9/1702 Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu Hạ giá năm 1700, lấy Đông Giai Thuấn An Nhan (佟佳舜安顏).
10 Cố Luân Thuần Khác Công chúa
(固倫純愨公主)
Hoàng thập nữ 20/3/1685 1710 Thông tần Hạ giá năm 1706, lấy Bác Nhĩ Tể Cát Đặc Sách Lăng (博爾濟吉特策棱), sinh ra Bác Nhĩ Tể Cát Đặc Thành Cổn Trát Bố (博爾濟吉特成袞札布).
11 Hoàng thập nhất nữ 24/10/1685 6 hoặc 7/1686 Ôn Hi Quý phi Chết yểu.
12 Hoàng thập nhị nữ 14/6/1686 cuối 2 hoặc 3/1697 Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu Chết yểu.
13 Hòa Thạc Ôn Khác Công chúa
(和碩溫恪公主)
Hoàng thập tam nữ 1/1/1688 7 hoặc 8/1709 Kính Mẫn Hoàng Quý phi Hạ giá năm 1706, lấy Bác Nhĩ Tể Cát Đặc Thương Tân (博爾濟吉特倉津).
14 Hòa Thạc Khác Tĩnh Công chúa
(和碩愨靖公主)
Hoàng thập tứ nữ 16/1/1690 1736 Quý nhân Viên thị Hạ giá năm 1706, lấy Nhất đẳng nam Tôn Thừa Vận (孫承運).
15 Hòa Thạc Đôn Khác Công chúa
(和碩敦恪公主)
Hoàng thập ngũ nữ 3/2/1691 1/1710 Kính Mẫn Hoàng Quý phi Hạ giá đầu năm 1709, lấy Bác Nhĩ Tể Cát Đặc Thai Cát Đa Nhĩ Tể (博爾濟吉特台吉多爾濟).
16 Hoàng thập lục nữ 27/11/1695 10 hoặc 11/1707 Thứ phi Vương thị Chết yểu.
17 Hoàng thập thất nữ 12/1/1699 12/1700 Thứ phi Lưu thị Chết yểu.
18 Hoàng thập bát nữ 17/11/1701 1701 Đôn Di Hoàng Quý phi Chết yểu.
19 Hoàng thập cửu nữ 30/3/1703 cuối 2 hoặc 3/1705 Tương tần Chết yểu.
20 Hoàng nhị thập nữ 20/11/1708 1 hoặc đầu 2/1709 Thứ phi Nữu Hỗ Lộc thị Chết yểu.
Dưỡng nữ
1 Cố Luân Thuần Hi Công chúa
(固倫純禧公主)
28 tháng 10, năm 1671 7 tháng 12, năm 1741 Con gái trưởng của Cung Thân vương Thường Ninh, em trai của Thanh Thánh Tổ và Thứ Phúc tấn Tấn thị. Từ nhỏ đem vào cung nuôi.

Năm 1690, phong Hòa Thạc Công chúa, hạ giá lấy Khoa Nhĩ Thẩm bộ Thai Cát Ban Đệ (班第). Sang năm 1723, tấn phong Cố Luân Công chúa. Sau khi Ban Đệ chết, về kinh sư ở. Mất những năm Càn Long.

Trong tiểu thuyết và phim

Tiểu thuyết

Trong tiểu thuyết võ hiệp Lộc đỉnh ký của nhà văn Kim Dung viết năm 1972, Khang Hi đã được xây dựng khá sát với hình tượng lịch sử, là một Hoàng đế kiệt xuất, văn võ song toàn bên cạnh nhân vật hư cấu Vi Tiểu Bảo. Tuy nhiên tác phẩm cũng có những chi tiết thực như diệt trừ Ngao Bái, dẹp Loạn tam phiên, thu phục Đài Loan và chiến tranh với Nga, Mông Cổ.

Phim ảnh

Phim ảnh truyền hình Diễn viên
Năm 1977 《Lộc Đỉnh ký Trình Tư Tuấn
Năm 1983 《Lộc Đỉnh ký Lưu Gia Huy
Năm 1984 《Lộc Đỉnh ký Lưu Đức Hoa
Năm 1984 《Ung Chính vương triều Tiêu Hoàng
Năm 1992 《Lộc Đỉnh ký Ôn Triệu Luân
Năm 1998 《Lộc Đỉnh ký Mã Tuấn Vĩ
Năm 2000 《Tiểu Bảo và Khang Hi Đàm Diệu Văn
Năm 2000 《Lộc Đỉnh ký Lương Dịch Luân
Năm 2011《Bộ Bộ Kinh Tâm Lưu Tùng Nhân
Năm 2011《Cung Toả Tâm Ngọc Thang Trấn Nghiệp
Năm 2012 《Thâm Cung Điệp Ảnh Nghê Tề Dân
Năm 2014 《Tân Lộc Đỉnh ký Ngụy Thiên Tường
Năm 2016 《Tịch Mịch Không Đình Xuân Dục Vãn Lưu Khải Uy
Năm 2017 《Long Châu Truyền Kỳ Tần Tuấn Kiệt

Xem thêm

Tham khảo

  • Thương Thánh (2011), Chính sử Trung Quốc qua các triều đại, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
  • Nguyễn Khắc Thuần (2003), Các đời đế vương Trung Quốc, Nhà xuất bản Giáo dục
  • Đặng Huy Phúc (2001), Các hoàng đế Trung Hoa, Nhà xuất bản Hà Nội
  • Cát Kiếm Hùng chủ biên (2006), Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc, tập 3, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
  • Tiêu Lê (2000), Những ông vua nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, Nhà xuất bản Đà Nẵng
  • Tiêu Lê, Mã Ngọc Chu, Lã Diên Đào (2004), 100 người đàn ông có ảnh hưởng đến lịch sử Trung Quốc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
  • Jonathan, Spence. Emperor of China: Self-Portrait of K'ang-hsi. Jonathan Cape (1974) ISBN 0-224-00940-0
  • Dịch Trung Thiên (2012), Luận anh hùng, Nhà xuất bản văn học

Chú thích

  1. ^ Schirokauer, Conrad. A Brief History of Chinese Civilization(Thompson Wadsworth, 2006), tr. 234-235.
  2. ^ Ông có thể được xem là hoàng đế thứ tư của nhà Thanh, tính từ người đặt nền móng cho nhà Thanh là Nỗ Nhĩ Cáp Xích, người xưng Hãn vương nhưng được tôn hiệu Hoàng đế sau khi chết, trên thực tế chưa giữ ngôi vị Hoàng đế một ngày nào.
  3. ^ Thương Thánh, sách đã dẫn, tr 609
  4. ^ a b c d e Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 390
  5. ^ Giles 1912, tr. 40.
  6. ^ 《清實錄康熙朝實錄》: 順治十八年。辛丑。春。正月。辛亥朔。越七日丁巳。夜子刻。世祖章皇帝賓天。先五日壬子。世祖章皇帝不豫。丙辰。遂大漸。召原任學士麻勒吉、學士王熙、至養心殿。降旨一一自責。定皇上御名。命立為皇太子。並諭以輔政大臣索尼、蘇克薩哈、遏必隆、鰲拜、姓名。令草遺詔。麻勒吉、王熙、遵旨於乾清門撰擬、付侍衛賈卜嘉進奏。諭曰、詔書著麻勒吉懷收。俟朕更衣畢、麻勒吉、賈卜嘉、爾二人捧詔、奏知皇太后。宣示王、貝勒、大臣。至是、麻勒吉、賈卜嘉、捧遺詔、奏知皇太后。即宣示諸王、貝勒、貝子、公、大臣、侍衛等。宣訖。諸王、貝勒、貝子、公、大臣、侍衛等、皆痛哭失聲。索尼等、跪告諸王、貝勒等曰、今主上遺詔、命我四人輔佐衝主。從來國家政務、惟宗室協理。索尼等、皆異姓臣子、何能綜理。今宜與諸王、貝勒等共任之。諸王、貝勒等曰、大行皇帝深知汝四大臣之心、故委以國家重務。詔旨甚明。誰敢干預。四大臣其勿讓。索尼等、奏知皇太后。乃誓告於皇天上帝大行皇帝靈位前。然後受事。其詞曰、茲者先皇帝不以索尼、蘇克薩哈、遏必隆、鰲拜等、為庸劣。遺詔寄托。保翊衝主。索尼等、誓協忠誠、共生死、輔佐政務。不私親戚。不計怨讎。不聽旁人、及兄弟子侄教唆之言。不求無義之富貴。不私往來諸王貝勒等府、受其饋遺。不結黨羽。不受賄賂。惟以忠心、仰報先皇帝大恩。若複各為身謀、有違斯誓。上天殛罰、奪算凶誅。大行皇帝神位前。誓詞與此同。是日、鹵簿大駕全設。王以下文武各官、俱成服。齊集舉哀
  7. ^ Thanh sử cảo, quyển 6: 順治十八年正月丙辰,世祖崩,帝即位,年八歲,改元康熙。遺詔索尼、蘇克薩哈、遏必隆、鰲拜四大臣輔政
  8. ^ a b Đặng Huy Phúc, sách đã dẫn, tr 473
  9. ^ a b Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 384
  10. ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 537
  11. ^ Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 389
  12. ^ Đặng Huy Phúc, sách đã dẫn, tr 476
  13. ^ Thương Thánh, sách đã dẫn, tr 612
  14. ^ Thương Thánh, sách đã dẫn, tr 613
  15. ^ Năm 1858, lợi dụng nhà Thanh suy yếu, quân Nga quay lại và chiếm giữ vùng này cho tới nay, hiện là Nertohinska của Nga
  16. ^ a b c d Đặng Huy Phúc, sách đã dẫn, tr 480
  17. ^ a b c d e Thương Thánh, sách đã dẫn, tr 614
  18. ^ a b Đặng Huy Phúc, sách đã dẫn, tr 481
  19. ^ a b c d e Thương Thánh, sách đã dẫn, tr 615
  20. ^ Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 388
  21. ^ a b Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 386
  22. ^ Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 387
  23. ^ a b Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 392
  24. ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 535-537
  25. ^ Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 391
  26. ^ Đặng Huy Phúc, sách đã dẫn, tr 482
  27. ^ Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 391-392
  28. ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 593
  29. ^ Đặng Huy Phúc, sách đã dẫn, tr 472
  30. ^ Tiêu Lê, Mã Ngọc Chu, Lã Diên Đào, sách đã dẫn, tr 479. Các nhà nghiên cứu thống nhất theo quan điểm không tính các vị quân chủ truyền thuyết như Hoàng Đế, Chuyên Húc, Nghiêu, Thuấn
  31. ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 586
  32. ^ Theo Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 587: tên gọi của 2 anh em theo âm và cả chữ trong tiếng Hán đều rất giống nhau
  33. ^ Thương Thánh, sách đã dẫn, tr 616
  34. ^ a b c Dịch Trung Thiên, sách đã dẫn, tr 370
  35. ^ Dịch Trung Thiên, sách đã dẫn, tr 359 - 360
  36. ^ Dịch Trung Thiên, sách đã dẫn, tr 360 - 361
  37. ^ Dịch Trung Thiên, sách đã dẫn, tr 359
  38. ^ a b Dịch Trung Thiên, sách đã dẫn, tr 365
  39. ^ Dịch Trung Thiên, sách đã dẫn, tr 364
  40. ^ Dịch Trung Thiên, sách đã dẫn, tr 365 -366
  41. ^ a b Dịch Trung Thiên, sách đã dẫn, tr 366
  42. ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 581-582
  43. ^ Tiêu Lê, Mã Ngọc Chu, Lã Diên Đào, sách đã dẫn, tr 481
  44. ^ Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 383
  45. ^ Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 384-385
  46. ^ 布贵人兆佳氏 布贵人亦稱作卜貴人。參領塞克塞赫之女。康熙十三年,生皇五女和碩端靜公主。康熙四十六年已為布常在。康熙五十六年正月十一日亥时卒,依三公主之母、嬪出殯,即兆佳氏的喪葬禮儀同嬪位。
  47. ^ 袁贵人袁氏 康熙二十八年,生皇十四女和碩愨靖公主。康熙五十八年八月十二日病逝於景山,为袁常在。[59]移送、安放、掃墓諸事依新貴人之例。
  48. ^ 白貴人陳氏 陳秀之女。康熙五十七年二月初一日午時,生皇子允禐,同日允禐天折。雍正至乾隆三十多年間仍在檔案出現。永憲錄將白貴人陳氏與貴人陳氏(穆嬪)混在一談

Liên kết ngoài