UEFA Europa League

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ UEFA Cup)
UEFA Europa League
Thành lập1971; 52 năm trước (1971)
(thay đổi hiệu vào năm 2009)
Khu vựcChâu Âu (UEFA)
Số đội32 (vòng bảng)[a]
58 (tổng cộng)
Vòng loại choUEFA Super Cup
UEFA Champions League
Giải đấu
liên quan
UEFA Champions League
(hạng nhất)
UEFA Europa Conference League
(hạng ba)
Đội vô địch
hiện tại
Đức Eintracht Frankfurt
(lần thứ 2)
Câu lạc bộ
thành công nhất
Tây Ban Nha Sevilla
(6 lần)
Truyền hìnhDanh sách các đài truyền hình
Trang webTrang web chính thức
UEFA Europa League 2022–23

UEFA Europa League (viết tắt là UEL), trước đây là Cúp UEFA, là một giải đấu bóng đá cấp câu lạc bộ thường niên được tổ chức từ năm 1971 bởi Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) cho các câu lạc bộ bóng đá châu Âu đủ điều kiện. Đây là giải đấu hạng hai của bóng đá cấp câu lạc bộ châu Âu, xếp dưới UEFA Champions League và trên UEFA Europa Conference League. Cúp UEFA là giải đấu hạng ba từ năm 1971 đến 1999 trước khi UEFA Cup Winners' Cup ngừng tổ chức.[1][2] Các câu lạc bộ lọt vào giải đấu dựa trên thành tích của họ tại các giải vô địch quốc gia và cúp quốc gia.

Được giới thiệu vào năm 1971 với tên gọi Cúp UEFA, giải thay thế cho Inter-Cities Fairs Cup. Vào năm 1999, UEFA Cup Winners' Cup được hợp nhất với Cúp UEFA và ngừng tổ chức.[3] Từ mùa giải 2004–05, một vòng bảng đã được thêm vào trước vòng đấu loại trực tiếp. Giải đấu có tên gọi mới là Europa League kể từ mùa giải 2009–10,[4][5] sau khi thay đổi thể thức.[6] Việc tái xây dựng thương hiệu năm 2009 bao gồm việc hợp nhất với UEFA Intertoto Cup, tạo ra một thể thức thi đấu lớn hơn với một vòng bảng mở rộng và thay đổi tiêu chí vòng loại. Đội vô địch của UEFA Europa League giành quyền tham dự UEFA Super Cup, và kể từ mùa giải 2014–15, lọt vào vòng bảng UEFA Champions League mùa giải tiếp theo.

Các câu lạc bộ Tây Ban Nha có số lần vô địch nhiều nhất (13 lần), tiếp theo là Anh và Ý (mỗi quốc gia 9 lần). Đã có 29 câu lạc bộ giành được danh hiệu, 13 trong số đó đã giành được nhiều hơn một lần. Câu lạc bộ thành công nhất ở giải đấu này là Sevilla, với sáu danh hiệu. Eintracht Frankfurt là nhà đương kim vô địch sau khi đánh bại Rangers với tỷ số 5–4 trên chấm luân lưu trong trận chung kết năm 2022.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Ý tưởng thành lập giải đấu này của 3 người gồm Sir Stanlay Rous (người Anh), Ernst Thornmen (người Thụy Sĩ) và Ottorino Barrasi (người Ý). Ngày 18 tháng 4 năm 1955, Cúp các hội chợ liên thành phố (Inter-Cities Fairs Cup) chính thức được tổ chức với 10 đội bóng của 10 thành phố: Barcelona (Tây Ban Nha), BaselLausanne (Thụy Sĩ), LondonBirmingham (Anh), Copenhagen (Đan Mạch), Frankfurt (Tây Đức), Leipzig (Đông Đức), Milan (Ý) và Zagreb (Croatia). Giải đầu tiên kéo dài trong 3 năm (1955 - 1958) và đội đoạt cúp là câu lạc bộ FC Barcelona. Giải lần thứ 2 kéo dài trong 2 năm (19581960) với 16 câu lạc bộ chứ không phải là đội tuyển các thành phố. Các giải sau được tổ chức đều đặn hàng năm. Đến mùa bóng 1971–72, giải đổi tên thành Cúp UEFA.

Từ mùa bóng 1999–2000, cúp C2 (Tên gọi tắt của UEFA Cup Winners' Cup) bị khai tử và sáp nhập vào cúp C3 làm một và vẫn giữ tên là Cúp UEFA, khi đó, đội đoạt các cúp trong nước sẽ giành quyền tham dự giải đấu này. Thể thức của giải cũng được thay đổi như áp dụng thể thức đấu bảng (từ năm 2004); các đội bị loại ở vòng loại thứ ba và 8 đội xếp thứ 3 ở vòng đấu bảng UEFA Champions League được chuyển sang thi đấu; các đội bóng giành cúp Liên đoàn cũng giành quyền tham dự.

Từ năm 1958 đến 1997, các trận chung kết được tổ chức 2 lượt đi và về (trừ các năm 19641965). Từ mùa giải 1997-98, trận tranh cúp vô địch chỉ diễn ra 1 lượt trên sân vận động đã chọn trước.

Mùa bóng 20092010, UEFA tăng số lượng câu lạc bộ tham dự vòng bảng lên 48 đội và đổi tên giải đấu thành UEFA Europa League.[7]

Huy hiệu đặc biệt[sửa | sửa mã nguồn]

Các CLB giành 3 chức vô địch UEFA Europa League liên tiếp hoặc có ít nhất 5 lần lên ngôi sẽ vinh dự được UEFA gắn một biểu tượng chiến thắng đặc biệt lên tay áo. Cho đến nay chỉ có một câu lạc bộ có được vinh dự này là Sevilla (vô địch 6 lần).

Thay đổi format[sửa | sửa mã nguồn]

Bắt đầu với giải 2018–19, tất cả các nhà vô địch quốc nội bị loại ở vòng loại UEFA Champions League sẽ chuyển tới UEFA Europa League chứ không chỉ là các đội bị loại ở vòng loại thứ ba và vòng play-off. Vòng loại UEFA Champions League cũng sẽ cung cấp một tuyến vô địch riêng cho các đội này (gọi là Champions Route), cho phép các nhà vô địch quốc nội nhiều cơ hội hơn để cạnh tranh với nhau.

Kể từ mùa giải 2021-22, với sự ra đời của UEFA Europa Conference League, vòng bảng của giải đấu sẽ giảm xuống còn 32 đội, đồng thời số đội thi đấu vòng loại sẽ giảm đi đáng kể. Ngoài ra, vòng 32 đội cũ sẽ chuyển thành 1 vòng đấu giữa vòng bảng và vòng loại trực tiếp, nơi các đội nhì bảng sẽ gặp các đội ba bảng tại Champions League.

Chiếc cúp vô địch[sửa | sửa mã nguồn]

UEFA Cup, còn được gọi là Coupe UEFA, là chiếc cúp được UEFA trao hàng năm cho câu lạc bộ bóng đá giành chức vô địch UEFA Europa League. Trước mùa giải 2010–11, cả giải đấu và cúp đều được gọi là 'Cúp UEFA'.

Trước khi giải đấu được đổi tên thành UEFA Europa League trong mùa giải 2009–10, các quy định của UEFA quy định rằng một câu lạc bộ có thể giữ chiếc cúp ban đầu trong một năm trước khi trả lại cho UEFA. Sau khi trở lại, câu lạc bộ có thể giữ một bản sao tỷ lệ 4/5 của chiếc cúp ban đầu. Sau chiến thắng thứ ba liên tiếp hoặc chiến thắng thứ năm chung cuộc, một câu lạc bộ có thể giữ lại danh hiệu vĩnh viễn. Tuy nhiên, theo các quy định mới, chiếc cúp vẫn được UEFA lưu giữ tại mọi thời điểm. Mỗi đội vô địch sẽ được trao một chiếc cúp mô phỏng kích thước đầy đủ. Hơn nữa, một câu lạc bộ vô địch ba lần liên tiếp hoặc tổng cộng năm lần sẽ nhận được huy hiệu lưu niệm. Kể từ năm 2016–17, chỉ có Sevilla có vinh dự được đeo huy hiệu lưu niệm, sau khi đạt được cả hai thành tích yêu cầu tiên quyết vào năm 2016.

Chiếc cúp được thiết kế và chế tác bởi Silvio Gazzaniga, đồng tác giả của chiếc cúp FIFA World Cup, làm việc cho Bertoni, cho trận Chung kết UEFA Cup 1972. Nó nặng 15 kg (33 lb) và có màu bạc trên một cột đá cẩm thạch màu vàng. Cao 67 cm (26 in), cúp được tạo thành bởi một đế có hai đĩa mã não, trong đó có một dải có cờ của các quốc gia có liên đoàn là thành viên của UEFA. Phần dưới của tác phẩm điêu khắc tượng trưng cho các cầu thủ cách điệu và được bao phủ bởi một phiến chạm nổi bằng tay.

Silvio Gazzaniga phát biểu: “Một dàn hợp xướng gồm các vận động viên trong chuyển động năng động hỗ trợ chiếc cúp hình lục giác mảnh mai với các chóp thon dài được kéo dài lên trên. UEFA Cup, ngày nay được gọi là Europa League Trophy, sau chiếc cúp UEFA Champions League, rất truyền thống và tròn như một chiếc amphora Hy Lạp cổ đại, nhẵn và bóng như gương. Tôi muốn đi theo một hướng khác, hiện đại và táo bạo. Yếu tố bóng loáng đã được thay thế bằng màu bạc đục, được đánh bởi hàng ngàn cú đánh, giống như hàng ngàn cú đá để đưa một đội bóng giành chiến thắng trong cuộc thi. Tôi quyết định cho nổ một hình có mặt cắt hình lục giác, giống như niềm vui, bùng nổ từ tầng hầm để vươn tới bầu trời chiến thắng. Sau đó, một nét chạm khắc hiện đại và điêu khắc với dải phù điêu đại diện cho các vận động viên đang đuổi nhau khắp châu Âu của chúng tôi được lấy từ chính giải đấu này. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, Cup có một dải thạch cao màu xanh lá cây rõ ràng, nhắc nhở về các sân bóng đá ”.

Nhạc hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Một bản nhạc chủ đề cho giải đấu, The Anthem, được phát trước mỗi trận đấu Europa League tại một sân vận động tổ chức sự kiện như vậy và cũng trước mỗi buổi phát sóng truyền hình của trận đấu ở Europa League như một yếu tố âm nhạc trong phần mở đầu của giải đấu.

Bài hát đầu tiên của cuộc thi do Yohann Zveig sáng tác và được ghi âm bởi Nhà hát Opera Paris vào đầu năm 2009. Chủ đề cho cuộc thi UEFA Cup tái thương hiệu lần đầu tiên được chính thức công bố tại Diễn đàn Grimaldi vào ngày 28 tháng 8 năm 2009 trước khi bốc thăm vòng bảng mùa giải 2009–10. Một bài quốc ca mới được sáng tác bởi Michael Kadelbach và được thu âm tại Berlin và được đưa ra như một phần trong quá trình đổi thương hiệu của cuộc thi vào đầu mùa giải 2015–16.

Một bài hát mới do MassiveMusic sáng tác đã được sáng tác để bắt đầu mùa giải 2018–19. Bản nhạc này hiện cũng đang được sử dụng tại UEFA Europa Conference League.

Thể thức[sửa | sửa mã nguồn]

Mỗi liên đoàn quốc gia thành viên sẽ có 3 câu lạc bộ tham dự, trừ liên đoàn xếp thứ 52-54 chỉ có 2 đội, liên đoàn thứ 55 và Liechtenstein chỉ có một đội tham dự. Dựa trên thành tích từ mùa giải trước, các đội sẽ được vào thẳng vòng bảng hay phải tham gia vòng loại nhánh không vô địch. Các đội bị loại ở vòng loại Champions League cũng sẽ được trao cơ hội ở vòng loại Europa League nhánh vô địch, và 8 đội đứng thứ 3 vòng bảng Champions League cũng sẽ tham dự vòng 32 đội. Trước đây, giải đấu bao gồm vòng loại, vòng bảng 12 bảng 4 đội, vòng 32 đội, vòng 16 đội, tứ kết, bán kết và chung kết.

Từ mùa giải 2021/22, thể thức thi đấu có sự thay đổi, số lượng đội tham dự vòng bảng còn 32 đội chia thành 8 bảng đấu và thi đấu 2 lượt đi và về. Kết thúc vòng bảng, 8 đội đứng đầu sẽ vào vòng 16 đội, còn đội xếp thứ 2 vòng bảng sẽ thi đấu 2 trận playoff lượt đi và về với đội xếp thứ 3 vòng bảng UEFA Champions League để chọn ra 8 đội cuối cùng tham dự vòng 16 đội. Vòng 16 đội, tứ kết, bán kết và chung kết, thể thức vẫn giữ nguyên.

Tiền thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Tương tự như UEFA Champions League, số tiền thưởng mà các câu lạc bộ nhận được được chia thành các khoản thanh toán cố định dựa trên sự tham gia và kết quả, và các khoản khác nhau tùy thuộc vào giá trị thị trường TV của họ.

Đối với mùa giải 2021-22, suất tham dự vòng bảng tại Europa League được hưởng mức phí cơ bản là €3.630.000. Một chiến thắng trong vòng bảng €630,000 và một trận hòa €210,000. Ngoài ra, mỗi câu lạc bộ giành vị trí nhất bảng kiếm được €1.100.000 và mỗi câu lạc bộ giành vị trí nhì bảng là €550.000. Việc lọt vào vòng loại trực tiếp sẽ tăng thêm tiền thưởng: €500.000 cho vòng 32, €1.200.000 cho vòng 16, €1.800.000 cho trận tứ kết và €2.800.000 cho trận bán kết. Câu lạc bộ thua trận chung kết nhận được €4.600.000 và câu lạc bộ vô địch nhận được €8.600.000.

  • Đủ điều kiện vào vòng bảng: €3,630,000
  • Thắng trận trong vòng bảng: €630,000
  • Hòa trận trong vòng bảng: €210,000
  • Đầu bảng: €1,100,000
  • Nhì bảng: €550,000
  • Vòng play-off loại trực tiếp: €500,000
  • Vòng 16 đội: €1,200,000
  • Tứ kết: €1,800,000
  • Bán kết: €2,800,000
  • Á quân: €4,600,000
  • Vô địch: €8,600,000

Tài trợ[sửa | sửa mã nguồn]

UEFA Europa League được tài trợ bởi bảy tập đoàn đa quốc gia, có chung đối tác với UEFA Europa Conference League.

Các nhà tài trợ chính của giải đấu cho giai đoạn 2021–24:

Molten là nhà tài trợ phụ và cung cấp bóng cho các trận đấu chính thức. Kể từ khi ra đời với thương hiệu Europa League, giải đấu đã sử dụng những tích trữ riêng (năm đó ra mắt ở vòng 32 đội) giống như UEFA Champions League. LED ra mắt lần đầu tiên trong trận chung kết 2012–13 và sẽ xuất hiện trong mùa giải 2015–16 từ vòng 16; trong cùng một mùa giải, kể từ vòng bảng, các đội không được phép trưng ra nhà tài trợ của mình. Nó sẽ xuất hiện trong mùa giải 2018–19 cho các trận đấu được chọn ở vòng bảng và vòng 32.

Các câu lạc bộ có thể mặc áo đấu có quảng cáo, ngay cả khi các nhà tài trợ đó xung đột với các nhà tài trợ của Europa League. Tuy nhiên, chỉ cho phép in hai tài trợ trên mỗi áo đấu (cộng với tài trợ của nhà sản xuất), ở ngực và tay áo bên trái. Các trường hợp ngoại lệ được thực hiện đối với các tổ chức phi lợi nhuận, các tổ chức này có thể hiển thị ở mặt trước của áo đấu, được kết hợp với nhà tài trợ chính hoặc ở mặt sau, bên dưới số đội hoặc giữa tên cầu thủ và cổ áo.

Thống kê[sửa | sửa mã nguồn]

Thành tích theo câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Thành tích ở Cúp UEFA và UEFA Europa League theo câu lạc bộ
Câu lạc bộ Vô địch Về nhì Năm vô địch Năm về nhì
Tây Ban Nha Sevilla 6 0 2006, 2007, 2014, 2015, 2016, 2020
Ý Inter Milan 3 2 1991, 1994, 1998 1997, 2020
Anh Liverpool 3 1 1973, 1976, 2001 2016
Ý Juventus 3 1 1977, 1990, 1993 1995
Tây Ban Nha Atlético Madrid 3 0 2010, 2012, 2018
Đức Borussia Mönchengladbach 2 2 1975, 1979 1973, 1980
Anh Tottenham Hotspur 2 1 1972, 1984 1974
Hà Lan Feyenoord 2 0 1974, 2002
Thụy Điển IFK Göteborg 2 0 1982, 1987
Tây Ban Nha Real Madrid 2 0 1985, 1986
Ý Parma 2 0 1995, 1999
Bồ Đào Nha Porto 2 0 2003, 2011
Anh Chelsea 2 0 2013, 2019
Đức Eintracht Frankfurt 2 0 1980, 2022
Bỉ Anderlecht 1 1 1983 1984
Hà Lan Ajax 1 1 1992 2017
Anh Manchester United 1 1 2017 2021
Hà Lan PSV Eindhoven 1 0 1978
Anh Ipswich Town 1 0 1981
Đức Bayer Leverkusen 1 0 1988
Ý Napoli 1 0 1989
Đức Bayern Munich 1 0 1996
Đức Schalke 04 1 0 1997
Thổ Nhĩ Kỳ Galatasaray 1 0 2000
Tây Ban Nha Valencia 1 0 2004
Nga CSKA Moscow 1 0 2005
Nga Zenit Saint Petersburg 1 0 2008
Ukraina Shakhtar Donetsk 1 0 2009
Tây Ban Nha Villarreal 1 0 2021
Bồ Đào Nha Benfica 0 3 1983, 2013, 2014
Pháp Marseille 0 3 1999, 2004, 2018
Scotland Rangers 0 2 2008, 2022
Tây Ban Nha Athletic Bilbao 0 2 1977, 2012
Tây Ban Nha Espanyol 0 2 1988, 2007
Đức Borussia Dortmund 0 2 1993, 2002
Anh Arsenal 0 2 2000, 2019
Anh Wolverhampton Wanderers 0 1 1972
Hà Lan Twente 0 1 1975
Bỉ Club Brugge 0 1 1976
Pháp Bastia 0 1 1978
Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư Red Star Belgrade 0 1 1979
Hà Lan AZ 0 1 1981
Đức Hamburger SV 0 1 1982
Hungary Fehérvár 0 1 1985
Đức 1. FC Köln 0 1 1986
Scotland Dundee United 0 1 1987
Đức VfB Stuttgart 0 1 1989
Ý Fiorentina 0 1 1990
Ý Roma 0 1 1991
Ý Torino 0 1 1992
Áo Red Bull Salzburg 0 1 1994
Pháp Bordeaux 0 1 1996
Ý Lazio 0 1 1998
Tây Ban Nha Alavés 0 1 2001
Scotland Celtic 0 1 2003
Bồ Đào Nha Sporting CP 0 1 2005
Anh Middlesbrough 0 1 2006
Đức Werder Bremen 0 1 2009
Anh Fulham 0 1 2010
Bồ Đào Nha Braga 0 1 2011
Ukraina Dnipro 0 1 2015

Thành tích theo quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

Thành tích ở các trận chung kết theo quốc gia
Quốc gia Vô địch Về nhì Tổng cộng
 Tây Ban Nha 13 5 18
 Anh 9 8 17
 Ý 9 7 16
 Đức[A] 7 8 15
 Hà Lan 4 3 7
 Bồ Đào Nha 2 5 7
 Nga 2 0 2
 Thụy Điển 2 0 2
 Bỉ 1 2 3
 Ukraina 1 1 2
 Thổ Nhĩ Kỳ 1 0 1
 Pháp 0 5 5
 Scotland 0 3 3
 Áo 0 1 1
 Hungary 0 1 1
 Nam Tư[B] 0 1 1
Ghi chú
  • ^ Bao gồm các câu lạc bộ Tây Đức, không có câu lạc bộ Đông Đức xuất hiện trong một trận chung kết.
  • ^ Lần xuất hiện trận chung kết của Nam Tư là bởi câu lạc bộ từ CHXHCN Serbia.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ 8 câu lạc bộ tham dự sau vòng bảng UEFA Champions League: đội nhất của mỗi bảng đi tiếp vào vòng 16 đội, đội đứng thứ hai ở mỗi bảng bắt đầu thi đấu từ vòng play-off đấu loại trực tiếp, nơi các đội đối đầu với 8 đội đứng thứ ba ở vòng bảng Champions League.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Nakrani, Sachin (14 tháng 2 năm 2018). “The Europa League is back and more than ever is a competition to savour”. theguardian.com.
  2. ^ “UEFA Europa Conference League: all you need to know”. UEFA.com (Thông cáo báo chí). Union of European Football Associations. 3 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2021.
  3. ^ “UEFA Europa League History”. UEFA.com (Thông cáo báo chí). Union of European Football Associations. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2008.
  4. ^ “UEFA Cup gets new name in revamp”. BBC Sport (British Broadcasting Corporation). 26 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2008.
  5. ^ “UEFA Cup to become UEFA Europa League”. UEFA.com (Thông cáo báo chí). Union of European Football Associations. 26 tháng 9 năm 2008.
  6. ^ “New format provides fresh impetus”. UEFA.com (Thông cáo báo chí). Union of European Football Associations. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2010.
  7. ^ [1] Lưu trữ 2009-05-15 tại Wayback Machine Cúp UEFA đổi tên thành UEFA Europa League và sửa đổi thể lệ thi đấu
  8. ^ Carp, Sam. “Uefa's Just Eat sponsorship covers Champions League and Women's Euro”. SportsPro. SportsPro Media Limited. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2022.
  9. ^ UEFA.com (27 tháng 8 năm 2021). “Hankook Tire renews longstanding UEFA Europa League and UEFA Europa Conference League partnership | Inside UEFA”. UEFA.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2022.
  10. ^ UEFA.com (27 tháng 7 năm 2021). “Engelbert Strauss signs three-year UEFA Europa League and UEFA Europa Conference League partnership | Inside UEFA”. UEFA.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2022.
  11. ^ UEFA.com (1 tháng 9 năm 2021). “Swissquote signs three-year UEFA Europa League and UEFA Europa Conference League partnership | Inside UEFA”. UEFA.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2022.
  12. ^ UEFA.com (7 tháng 9 năm 2021). “bwin becomes Official Partner of the UEFA Europa League and new UEFA Europa Conference League | Inside UEFA”. UEFA.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2022.
  13. ^ “Socios.com becomes the Official Fan Token Partner of UEFA Club Competitions | Inside UEFA” (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Anh). UEFA. 15 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2022.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]