Quan hệ ngoại giao của Việt Nam
Việt Nam hiện nay, dưới chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 188 nước[1][2] thuộc tất cả châu lục và có quan hệ bình thường với tất cả nước lớn, các Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Việt Nam hiện có quan hệ ngoại giao với 2 thực thể được nhiều nước thừa nhận, nhưng thực tế không độc lập: Palestine và Tây Sahara. Chưa có quan hệ ngoại giao với 5 quốc gia và 1 quan sát viên thuộc Liên Hiệp Quốc: Tuvalu, Tonga, Bahamas, Nam Sudan, Malawi và Thành Vatican.
Trong số các nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao, Việt Nam đã tuyên bố thiết lập quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện với 3 quốc gia gồm: Trung Quốc (2008), Nga (2012), Ấn Độ (2016); quan hệ Đối tác Chiến lược với 13 quốc gia gồm: Nhật Bản (2006), Hàn Quốc (2009), Tây Ban Nha (2009), Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (2010), Đức (2011), Ý (2013), Pháp (2013), Indonesia (2013), Thái Lan (2013), Singapore (2013), Malaysia (2015), Philippines (2015) và Úc (2018); và quan hệ Đối tác Toàn diện với 11 quốc gia gồm: Nam Phi (2004), Venezuela (2007), Chile (2007), Brasil (2007), New Zealand (2009), Argentina (2010), Ukraina (2011), Hoa Kỳ (2013), Đan Mạch (2013), Myanmar (2017) và Canada (2017), Triều Tiên (2018)
Về chủ trương, theo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã nêu lên chính sách đối ngoại: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh[3]
Mục lục
Lịch sử ngoại giao[sửa | sửa mã nguồn]
Việt Nam có hàng nghìn năm lịch sử với nền ngoại giao tinh tế và hiển hách. Trừ 1000 năm Bắc thuộc, trải qua các triều đại từ Vua Hùng, An Dương Vương, Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn, Việt Nam chủ yếu có quan hệ ngoại giao với các triều đình phong kiến Trung Quốc. Nền ngoại giao hiện đại của Việt Nam ra đời khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập ngày 2/9/1945. Hồ Chí Minh là người đầu tiên đứng đầu ngành ngoại giao của Việt Nam.
Thời kỳ chiến tranh[sửa | sửa mã nguồn]
- Giai đoạn 1945–1946: Là thời kỳ cực kỳ khó khăn của đất nước nói chung và ngoại giao Việt Nam nói riêng. Nhà nước độc lập non trẻ chưa được nước nào công nhận. Chính sách ngoại giao của Việt Nam lúc đó đã hòa hoãn với Quốc dân Đảng và quân đội Tưởng Giới Thạch, tập trung đánh Pháp ở miền Nam, rồi hòa với Pháp bằng việc ký kết Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946.
- Giai đoạn 1947–1954: Ngoại giao đã đấu tranh chính trị để hình thành liên minh với Lào, Campuchia chống Pháp; xây dựng quan hệ với Thái Lan, Miến Điện, Indonesia, Ấn Độ. Đầu năm 1950, tranh thủ chiến thắng của Chiến dịch Biên giới, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với 2 đồng minh quan trọng là Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết. Ngoài ra, còn các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Á, Đông Âu.
- Giai đoạn 1954–1975: Ngoại giao đã "tấn công" hậu phương quốc tế của Mỹ, mở rộng hậu phương quốc tế của Việt Nam, hình thành phong trào phản chiến trên toàn thế giới.
Năm 1964, Chu Ân Lai lo lắng về sự leo thang của Mỹ tại miền Nam Việt Nam, nên đã ký thỏa thuận chính thức với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thỏa thuận này quy định rằng, nếu các lực lượng Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa xâm lược, đánh phá Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Trung Quốc sẽ phản ứng bằng cách cho mượn phi công. Nhưng trong các cuộc tấn công của Mỹ, Mao Trạch Đông không gửi nhiều phi công được đào tạo như ông đã hứa. Kết quả dẫn đến việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhận viện trợ quốc phòng của Liên Xô là chủ yếu.[4]
Đồng thời, ngoại giao đã phối hợp với chiến trường, đấu tranh chính trị, tiến hành đàm phán và ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973). Hiệp định Paris là thắng lợi của ngoại giao Việt Nam, buộc Mỹ và các nước liên quan rút quân khỏi Việt Nam, chấm dứt chiến tranh, tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam. Trong quá trình đàm phán Hiệp định này, ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã phối hợp nhịp nhàng, theo phương châm "Tuy hai mà một, tuy một mà hai", "Vừa đánh, vừa đàm".
Thời kỳ bao cấp[sửa | sửa mã nguồn]
- Giai đoạn 1975–1986: Đây là thời kỳ ngoại giao khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Những năm đầu sau chiến tranh, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hàng chục nước, nhất là các nước tư bản chủ nghĩa, tranh thủ được sự giúp đỡ về vật chất của nhiều quốc gia, các tổ chức quốc tế nhằm khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Việt Nam nhanh chóng gia nhập Liên Hợp Quốc (20/9/1977).
Đến năm 1975, căng thẳng bắt đầu phát triển vì Bắc Kinh ngày càng coi Việt Nam là công cụ của Liên Xô để bao vây Trung Quốc. Trong khi đó, hỗ trợ ngày càng tăng của Bắc Kinh đối với chính quyền Khmer Đỏ đã khiến Việt Nam nghi ngờ về động cơ của Trung Quốc.
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc xấu đi đáng kể, sau khi Hà Nội thiết lập lệnh cấm tháng 3 năm 1978 về thương mại tư nhân, động thái đặc biệt ảnh hưởng đến cộng đồng Hoa kiều. Việt Nam buộc phải tấn công Khmer Đỏ để bảo vệ chủ quyền quốc gia (12/1978). Đó là nguyên nhân trực tiếp (cái cớ) để Trung Quốc phát động cuộc xâm lược biên giới Việt Nam (2/1979). Phải đối mặt với việc cắt đứt viện trợ của Trung Quốc và quan hệ quốc tế căng thẳng, Việt Nam thiết lập quan hệ gần gũi hơn với Liên Xô bằng cách tham gia Hội đồng Tương trợ Kinh tế (6/1978), ký Hiệp ước với Liên Xô (11/1978). Trong suốt thập niên 1980, Việt Nam đã nhận được gần 3 tỷ USD/năm viện trợ kinh tế và quân sự của Liên Xô và thực hiện hầu hết các giao dịch thương mại với Liên Xô và khối Comecon.
Cuộc chiến tranh với Trung Quốc và Khmer Đỏ đã dẫn đến việc Trung Quốc, phương Tây và ASEAN bao vây, cô lập, cấm vận Việt Nam hơn 1 thập kỷ, gây rất nhiều khó khăn cho việc khôi phục và phát triển kinh tế.

Thời kỳ Đổi mới[sửa | sửa mã nguồn]
- Giai đoạn 1986 đến nay: Với Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI (12/1986), Việt Nam đã khởi đầu công cuộc thay đổi toàn diện đất nước, trong đó có đường lối, chính sách đối ngoại và hoạt động ngoại giao.
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (5/1988) đã tạo ra bước ngoặt trong đường lối chính sách đối ngoại của Việt Nam. Các Đại hội tiếp theo từ Đại hội VII (1991), Đại hội VIII (1996), Đại hội IX (2001) đến Đại hội X (2006) đã quyết định đưòng lối đối ngoại của Việt Nam là độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực[5]
Đại hội XI đã phát triển và bổ sung nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hiệp Quốc và luật pháp quốc tế [6]
Hội nhập quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]
Với việc rút hoàn toàn quân đội khỏi Campuchia, vấn đề Campuchia được giải quyết, Việt Nam đã phá được bao vây, cấm vận và không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa dạng hóa và đa phương hóa; bình thường hóa và từng bước xác lập quan hệ ổn định lâu dài với tất cả nước lớn, các nước công nghiệp phát triển. Cho đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 187 nước, trong đó có tất cả các nước lớn, có quan hệ kinh tế với hơn 220 thị trường nước ngoài và là thành viên của nhiều tổ chúc và diễn đàn quốc tế như:
- Cộng đồng Pháp ngữ (1970)
- Liên Hiệp Quốc (1977),
- Phong trào Không liên kết (1976)
- ASEAN (1995).
- Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM) (1996)
- Diễn đàn Hợp tác Kinh tế khu vực châu Á- Thái Bình Dương (APEC) (1998)
- Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) (2006)
Việt Nam đã giải quyết ổn thỏa nhiều tranh chấp biên giới, lãnh thổ, biển đảo, giữ vững môi trường hòa bình; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tranh thủ nhiều ODA, FDI, mở rộng thị trường ngoài nước; tăng cường ngoại giao đa phương. Các sự kiện lớn của ngoại giao Việt Nam trong những năm gần đây là: Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao VII tổ chức Pháp ngữ (1997), Hội nghị cấp cao ASEAN VII (1998), Hội nghị cấp cao Diễn đàn Hợp tác Á-Âu lần V (2004), Hội nghị thượng đỉnh APEC 14 (2006). Hoa Kỳ dành cho Việt Nam quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (11/2006). Vào ngày 16 tháng 10 năm 2007, Việt Nam đã được bầu làm một trong các thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008–2009.[7]
Năm 2010, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đối ngoại nổi bật: Việt Nam đảm nhận thành công vai trò Chủ tịch ASEAN: Với chủ đề Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn tới hành động, chủ trì thành công Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) Đông Á, tổ chức thành công Hội thảo quốc tế Việt Nam – châu Phi lần thứ II. Năm 2012, Việt Nam tổ chức thành công Diễn đàn Việt Nam – Mỹ Latin về Thương mại và Đầu tư.
Việt Nam thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với các cường quốc khu vực và thế giới. Đến tháng 6/2013, các nước có quan hệ loại này với Việt Nam gồm 3 thành viên thường trực Liên Hiệp Quốc: Nga (2001), Anh (2010), Trung Quốc (2008) và Pháp (2013)[8]; 2 cường quốc Bắc Á là Hàn Quốc và Nhật Bản (2009); 1 cường quốc Nam Á là Ấn Độ (2007); 3 nước Đông Nam Á là Thái Lan, Indonesia và Singapore (2013); tại châu Âu, 2 đối tác chiến lược của Việt Nam là Đức (2011), Tây Ban Nha (2009), Ý (2013). Trong số này, mối quan hệ với Trung Quốc (2008), Nga (2012) và Ấn Độ (2016) đã được nâng lên tầm "đối tác chiến lược toàn diện". Ngoài ra, từ năm 2009, Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ "đối tác toàn diện" với Australia[9][10] và Hoa Kỳ (2013).[11]
Chủ trương đối ngoại[sửa | sửa mã nguồn]
Chủ trương đối ngoại của Việt Nam có 3 trụ cột chính là:
- Đảm bảo an ninh quốc gia, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc, bản sắc dân tộc
- Đảm bảo sự thống nhất, ổn định của hệ thống chính trị
- Tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, đảm báo đời sống nhân dân và nâng cao vị thế quốc gia
Chủ trương đảm bảo an ninh quốc gia, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc, bản sắc dân tộc: Được coi là mục tiêu tiên quyết trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Với lịch sử là nước phải hứng chịu nhiều cuộc xâm lược của nước ngoài và không có đạo quân xâm lược nào quan tâm, chăm lo cho cuộc của người dân nước họ chiếm đóng. Mọi cường quốc dù dưới bất kì hình thức hay màu cờ nào cũng đều chỉ muốn làm lợi cho riêng mình trên lưng nhân dân Việt Nam. Lịch sử Việt Nam cho thấy muốn cuộc sống ấm no hạnh phúc thì nhất định người Việt Nam phải làm chủ đất nước của mình và phải đảm bảo chiến tranh không xảy ra. Chỉ cần chiến tranh nổ ra thì dù kết quả thế nào đi chăng nữa, người dân Việt Nam cũng sẽ luôn phải chịu vô cùng nhiều đau thương và mất mát. Một đất nước xảy ra chiến tranh triền miên sẽ không thể nào phát triển kinh tế và đảm bảo cuộc sống ấm no hạnh phúc cho người dân được.[12] Điểm mấu chốt của trụ cột này là Việt Nam không bị quân đội nước ngoài xâm lược, công việc nội bộ của Việt Nam do người Việt Nam quyết định và chính quyền Việt Nam không bị thao túng bởi bất kỳ thế lực nào từ bên ngoài.[12]
Chủ trương đảm bảo sự thống nhất, ổn định của hệ thống chính trị: Từ góc độ lịch sử dân tộc cho thấy, yếu tố ổn định của hệ thống chính trị đóng vai trò quan trọng đối với nền hòa bình, an ninh và phát triển của Việt Nam. Bất kỳ sự thay đổi đột ngột nào, bạo loạn gần như chắc chắn sẽ xảy ra. Tuy nội chiến không nhất thiết sẽ nổ ra nhưng nó là nguy cơ không thể loại trừ. Lịch sử ngàn năm của Việt Nam cho thấy, khi đất nước bị chia rẽ, các cường quốc ở bên ngoài sẽ luôn chớp lấy thời cơ thao túng Việt Nam để trục lợi. Do đó, có thể nói rằng việc duy trì ổn định chính trị quốc nội và chính quyền vững mạnh là yếu tố mang tính then chốt để đảm bảo an ninh quốc gia.[12]
Chủ trương tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống nhân dân và nâng cao vị thế quốc gia: Khu vực càng ít biến động, các cường quốc càng hạn chế tranh giành quyền lực, thì Việt Nam càng có thể tập trung nguồn lực phát triển kinh tế và đầu tư cho giáo dục, an sinh xã hội. Khi nền kinh tế phát triển bền vững, ổn định chính trị sẽ đi theo. Theo giới tinh hoa Việt Nam, đảm bảo kinh tế phát triển và nâng cao đời sống người dân là yếu tố quyết định tới ổn định chính trị.[12] Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là một trong các nội dung để xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. Trong đó, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân được coi là quan trọng nhất.[13]
Một trong các biện pháp để Việt Nam đảm bảo 3 trụ cột vừa nói là "Cân bằng quan hệ", đặc biệt là cân bằng quan hệ các nước lớn. Theo Ngoại trưởng Phạm Bình Minh: "Chính sách đối ngoại của đất nước ta trong 70 năm qua luôn bảo đảm nhất quán lập trường giữ cân bằng trong quan hệ với các nước để phục vụ lợi ích dân tộc. Quan hệ quốc tế đúc kết ra thực tế rằng các nước lớn có thương lượng trên lưng các nước nhỏ. Nhiều quốc gia khác cũng trải qua việc này, không chỉ có Việt Nam. Để đạt được lợi ích quốc gia, các nước cũng có nhiều thỏa thuận gây hại cho quốc gia khác. Điều quan trọng là chúng ta phải đánh giá và có chủ trương đúng đắn, linh hoạt để tránh những tác hại từ những thỏa thuận của các nước lớn đối với lợi ích dân tộc. Đây cũng là thách thức to lớn bởi vì ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang diễn ra sự cạnh tranh rất quyết liệt giữa các nước". [14]
Quan hệ quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]
Đông Nam Á[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia | Ngày bắt đầu quan hệ ngoại giao[15] | Ghi chú |
---|---|---|
![]() |
5/9/1962 | Xem Quan hệ Việt Nam – Lào |
![]() |
24/6/1967 | Xem Quan hệ Việt Nam – Campuchia |
![]() |
6/8/1976 | Xem Quan hệ Việt Nam – Thái Lan (Đối tác chiến lược từ năm 2013) |
![]() |
30/3/1973 | Xem Quan hệ Việt Nam – Malaysia (Đối tác chiến lược từ năm 2013) |
![]() |
1/8/1973 | Xem Quan hệ Việt Nam – Singapore (Đối tác chiến lược từ năm 2015) |
![]() |
30/12/1955 | Xem Quan hệ Việt Nam – Indonesia (Đối tác chiến lược từ năm 2013) |
![]() |
28/5/1975 | Xem Quan hệ Việt Nam – Myanmar (Đối tác toàn diện từ năm 2017) |
![]() |
12/7/1976 | Xem Quan hệ Việt Nam – Philippines (Đối tác chiến lược từ năm 2015) |
![]() |
29/2/1992 | Xem Quan hệ Việt Nam – Brunei |
![]() |
28/7/2002 | Xem Quan hệ Việt Nam – Đông Timor |
Châu Á[sửa | sửa mã nguồn]
Châu Mỹ[sửa | sửa mã nguồn]
Châu Âu[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia | Ngày bắt đầu quan hệ ngoại giao[15] | Ghi chú |
---|---|---|
![]() |
30/1/1950 | Xem Quan hệ Việt – Nga (Đối tác chiến lược toàn diện từ năm 2016) |
![]() |
2/2/1950 | Xem Quan hệ Việt Nam – Séc
Trước là Tiệp Khắc |
![]() |
2/2/1950 | Xem Quan hệ Việt Nam – Slovakia |
![]() |
3/2/1950 | Xem Quan hệ Việt Nam - Hungary |
![]() |
3/2/1950 | Xem Quan hệ Việt Nam - Romania |
![]() |
4/2/1950 | Xem Quan hệ Việt Nam - Ba Lan |
![]() |
8/2/1950 | Xem Quan hệ Việt Nam – Bulgaria
|
![]() |
11/2/1950 | Xem Quan hệ Việt Nam – Albania |
![]() |
10/3/1957 | Xem Quan hệ Việt Nam – Serbia
Trước là Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư (1943–1992) |
![]() |
11/1/1969 | Xem Quan hệ Việt Nam – Thụy Điển
|
![]() |
11/10/1971 | Xem Quan hệ Việt Nam – Thụy Sĩ
|
![]() |
25/11/1971 | Xem Quan hệ Việt Nam – Đan Mạch (Đối tác toàn diện từ năm 2013)
|
![]() |
25/11/1971 | Xem Quan hệ Việt Nam - Na Uy |
![]() |
1/12/1973 | Xem Quan hệ Việt Nam - Áo |
![]() |
25/1/1973 | Xem Quan hệ Việt Nam - Phần Lan |
![]() |
22/3/1973 | Xem Quan hệ Việt Nam - Bỉ |
![]() |
23/3/1973 | Xem Quan hệ Việt Nam - Italy (Đối tác chiến lược từ năm 2013) |
![]() |
9/4/1973 | Xem Quan hệ Việt Nam - Hà Lan |
![]() |
12/4/1973 (ngày Pháp thiết lập ngoại giao đặc biệt với VNDCCH) | Xem Quan hệ Việt Nam – Pháp (Đối tác chiến lược từ năm 2013)
|
![]() |
5/8/1973 | Xem Quan hệ Việt Nam - Iceland |
![]() |
12/4/1973 | Xem Quan hệ Việt Nam – Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (Đối tác chiến lược từ năm 2010) |
![]() |
15/11/1973 | Xem Quan hệ Việt Nam – Luxembourg |
![]() |
14/11/1974 | Xem Quan hệ Việt Nam - Malta |
![]() |
15/4/1975 | Xem Quan hệ Việt Nam - Hy Lạp |
![]() |
1/7/1975 | Xem Quan hệ Việt Nam - Bồ Đào Nha |
![]() |
23/9/1975 | Xem Quan hệ Việt Nam – Đức (Đối tác chiến lược từ năm 2011) |
![]() |
1/12/1975 | Xem Quan hệ Việt Nam - Síp |
![]() |
23/5/1977 | Xem Quan hệ Việt Nam - Tây Ban Nha (Đối tác chiến lược từ năm 2009) |
![]() |
23/1/1992 | Xem Quan hệ Việt Nam - Ukraine (Đối tác toàn diện từ năm 2011) |
![]() |
24/1/1992 | Xem Quan hệ Việt Nam - Belarus |
![]() |
12/2/1992 | Xem Quan hệ Việt Nam - Latvia |
![]() |
20/2/1992 | Xem Quan hệ Việt Nam - Estonia |
![]() |
18/3/1992 | Xem Quan hệ Việt Nam - Lithuania |
![]() |
11/6/1992 | Xem Quan hệ Việt Nam - Moldova |
![]() |
30/6/1992 | Xem Quan hệ Việt Nam - Georgia |
![]() |
14/7/1992 | Xem Quan hệ Việt Nam - Armenia |
![]() |
7/6/1994 | Xem Quan hệ Việt Nam - Slovenia |
![]() |
10/6/1994 | Xem Quan hệ Việt Nam - Macedonia |
![]() |
1/7/1994 | Xem Quan hệ Việt Nam - Croatia |
![]() |
26/1/1996 | Xem Quan hệ Việt Nam - Bosnia và Herzegovina |
![]() |
5/4/1996 | Xem Quan hệ Việt Nam - Ireland |
![]() |
4/8/2006 | Xem Quan hệ Việt Nam - Montenegro |
![]() |
12/6/2007 | Xem Quan hệ Việt Nam - Andorra |
![]() |
6/7/2007 | Xem Quan hệ Việt Nam - San Marino |
![]() |
29/11/2007 | Xem Quan hệ Việt Nam - Monaco |
![]() |
2/7/2008 | Xem Quan hệ Việt Nam - Liechtenstein |
![]() |
Chưa thiết lập quan hệ ngoại giao | Xem Quan hệ Việt Nam Tòa Thánh
Sau khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam, Khâm sứ Tòa Thánh đã bị buộc phải rời Việt Nam. Từ đó, Khâm sứ Tòa Thánh không có quyền hạn như đại sứ, không phải là đại diện ngoại giao của một Nhà nước, các Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam không bị đàn áp, nhưng vẫn không được hoạt động kể từ năm 1975.[23] Vào 1/2011, Tòa Thánh bổ nhiệm đại sứ đầu tiên làm "Đại diện không thường trú tại Việt Nam" là Tổng Giám mục Leopoldo Girelli. Ông là Tổng Giám mục đầu tiên kiêm nhiệm vai trò khác như Sứ thần Tòa Thánh tại Singapore và Khâm sứ Tòa Thánh tại Malaysia. |
Châu Phi[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia | Ngày bắt đầu quan hệ ngoại giao[15] | Ghi chú |
---|---|---|
![]() |
9/10/1958 | Xem Quan hệ Việt Nam - Guinea |
![]() |
30/10/1960 | Xem Quan hệ Việt Nam - Mali |
![]() |
27/3/1961 | Xem Quan hệ Việt Nam - Maroc |
![]() |
13/4/1961 | Xem Quan hệ Việt Nam - Cộng hoà Dân chủ Congo |
![]() |
28/10/1962 | Xem Quan hệ Việt Nam - Algeria |
![]() |
1/9/1963 | Xem Quan hệ Việt Nam - Ai cập |
![]() |
16/7/1964 | Xem Quan hệ Việt Nam - Cộng hòa Congo |
![]() |
14/2/1965 | Xem Quan hệ Việt Nam - Tanzania |
![]() |
15/3/1965 | Xem Quan hệ Việt Nam - Mauritania |
![]() |
25/3/1965 | Xem Quan hệ Việt Nam - Ghana |
![]() |
26/8/1969 | Xem Quan hệ Việt Nam - Sudan |
![]() |
29/12/1969 | Xem Quan hệ Việt Nam - Senegal |
![]() |
7/6/1970 | Xem Quan hệ Việt Nam - Somali |
![]() |
30/8/1972 | Xem Quan hệ Việt Nam - Cameroon |
![]() |
1/9/1972 | Xem Quan hệ Việt Nam - Ghi nê Xích đạo |
![]() |
15/9/1972 | Xem Quan hệ Việt Nam - Zambia |
![]() |
15/12/1972 | Xem Quan hệ Việt Nam - Tunisia |
![]() |
19/12/1972 | Xem Quan hệ Việt Nam - Madagascar |
![]() |
9/2/1973 | Xem Quan hệ Việt Nam - Uganda |
![]() |
14/3/1973 | Xem Quan hệ Việt Nam - Benin |
![]() |
30/9/1973 | Xem Quan hệ Việt Nam - Guiné-Bissau |
![]() |
16/11/1973 | Xem Quan hệ Việt Nam - Burkina Faso |
![]() |
30/11/1973 | Xem Quan hệ Việt Nam - Gambia |
![]() |
9/1/1975 | Xem Quan hệ Việt Nam - Gabon |
![]() |
8/2/1975 | Xem Quan hệ Việt Nam - Togo |
![]() |
7/3/1975 | Xem Quan hệ Việt Nam - Niger |
![]() |
15/3/1975 | Xem Quan hệ Việt Nam - Libya |
![]() |
16/4/1975 | Xem Quan hệ Việt Nam - Burundi |
![]() |
25/6/1975 | Xem Quan hệ Việt Nam - Mozambique |
![]() |
8/7/1975 | Xem Quan hệ Việt Nam - Cape Verde |
![]() |
30/9/1975 | Xem Quan hệ Việt Nam - Rwanda |
![]() |
6/10/1975 | Xem Quan hệ Việt Nam - Bờ Biển Ngà |
![]() |
12/11/1975 | Xem Quan hệ Việt Nam - Angola |
![]() |
23/2/1976 | Xem Quan hệ Việt Nam - Ethiopia |
![]() |
25/5/1976 | Xem Quan hệ Việt Nam - Nigeria |
![]() |
6/11/1976 | Xem Quan hệ Việt Nam - São Tomé và Príncipe |
![]() |
24/6/1978 | Xem Quan hệ Việt Nam - Sierra Leone |
![]() |
2/3/1979 | Xem Quan hệ Việt Nam - Sahrawi |
![]() |
16/8/1979 | Xem Quan hệ Việt Nam - Seychelles |
![]() |
24/7/1981 | Xem Quan hệ Việt Nam - Zimbabwe |
![]() |
5/10/1981 | Xem Quan hệ Việt Nam - Chad |
![]() |
21/3/1990 | Xem Quan hệ Việt Nam - Namibia |
![]() |
30/4/1991 | Xem Quan hệ Việt Nam - Djibouti |
![]() |
20/7/1993 | Xem Quan hệ Việt Nam - Eritrea |
![]() |
22/12/1993 | Xem Quan hệ Việt Nam - Nam Phi (Đối tác toàn diện từ năm 2004) |
![]() |
4/5/1994 | Xem Quan hệ Việt Nam - Mauritius |
![]() |
21/12/1995 | Xem Quan hệ Việt Nam - Kenya |
![]() |
6/1/1998 | Xem Quan hệ Việt Nam - Lesotho |
![]() |
10/11/2008 | Xem Quan hệ Việt Nam - Trung Phi |
![]() |
11/2/2009 | Xem Quan hệ Việt Nam - Botswana |
![]() |
21/5/2013 | Xem Quan hệ Việt Nam - Swaziland |
![]() |
25/9/2015 | Xem Quan hệ Việt Nam - Comoros |
![]() |
28/6/2016 | Xem Quan hệ Việt Nam - Liberia |
![]() |
Chưa thiết lập quan hệ ngoại giao | Xem Quan hệ Việt Nam - Malawi
|
![]() |
Chưa thiết lập quan hệ ngoại giao | Xem Quan hệ Việt Nam - Nam Sudan
|
Châu Đại Dương[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia | Ngày bắt đầu quan hệ ngoại giao[15] | Ghi chú |
---|---|---|
![]() |
26/2/1973 | Xem Quan hệ Việt Nam - Australia (Đối tác chiến lược từ năm 2018) |
![]() |
19/6/1975 | Xem Quan hệ Việt Nam - New Zealand (Đối tác toàn diện từ năm 2009) |
![]() |
3/3/1982 | Xem Quan hệ Việt Nam - Vanuatu |
![]() |
3/11/1989 | Xem Quan hệ Việt Nam - Papua New Guinea |
![]() |
1/7/1992 | Xem Quan hệ Việt Nam - Quần đảo Marshall |
![]() |
14/5/1993 | Xem Quan hệ Việt Nam - Fiji |
![]() |
9/3/1994 | Xem Quan hệ Việt Nam - Samoa |
![]() |
22/9/1995 | Xem Quan hệ Việt Nam - Micronesia |
![]() |
30/10/1996 | Xem Quan hệ Việt Nam - Quần đảo Solomon |
![]() |
21/6/2006 | Xem Quan hệ Việt Nam - Nauru |
![]() |
18/8/2008 | Xem Quan hệ Việt Nam - Palau |
![]() |
15/9/2014 | Xem Quan hệ Việt Nam - Kiribati |
![]() |
Chưa thiết lập quan hệ ngoại giao | Xem Quan hệ Việt Nam - Tonga |
![]() |
Chưa thiết lập quan hệ ngoại giao | Xem Quan hệ Việt Nam - Tuvalu |
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
- Các cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài kiêm nhiệm Việt Nam
- Cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam
- Danh sách các đại sứ quán tại Hà Nội
- Danh sách các Tổng lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Danh sách các Tổng lãnh sứ quán và lãnh sứ quán tại Thành phố Đà Nẵng
- Danh sách các lãnh sự quán tại Việt Nam
- Đối tác chiến lược, đối tác toàn diện (Việt Nam)
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ http://www.mofa.gov.vn/vi/ns160629101106
- ^ a ă Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Saint Lucia
- ^ [1] Chính sách đối ngoại của chính phủ Việt Nam
- ^ Zhai, Qiang. China and the Vietnam Wars, 1950-1975. Chapel Hill: The University of North Carolina Press, 2000
- ^ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
- ^ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI năm 2014
- ^ [2] Lịch sử ngành ngoại giao Việt Nam
- ^ “Việt Nam - Pháp: Đối tác chiến lược”. Người Lao động. Truy cập 30 tháng 9 năm 2015.
- ^ [3] Việt Nam và Indonesia trở thành đối tác chiến lược
- ^ “Internet Archive Wayback Machine”. Truy cập 30 tháng 9 năm 2015.
- ^ “Xu hướng mới: Đối tác chiến lược thay cho liên minh quân sự”. Thanh Niên Online. Truy cập 30 tháng 9 năm 2015.
- ^ a ă â b http://nghiencuuquocte.org/2017/03/04/dai-chien-luoc-cho-viet-nam-trong-tk-21/
- ^ http://www.tuyengiao.vn/Home/khoagiao/84466/Vi-muc-tieu-dan-giau-nuoc-manh-dan-chu-cong-bang-van-minh
- ^ http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/can-bang-quan-he-de-phuc-vu-loi-ich-dan-toc/956229.html
- ^ a ă â b c d http://www.mofa.gov.vn/vi/cn_vakv/
- ^ “Vietnam-Russia traditional ties reach new heights”. Embassy of Vietnam in the United States of America. Ngày 5 tháng 3 năm 2001. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2007.
- ^ Bulgarian embassy in Hanoi
- ^ Vietnamese Ministry of Foreign Affairs about relations with Bulgaria
- ^ “Bulgaria, Vietnam to Cooperate in Healthcare - Novinite.com - Sofia News Agency”. Truy cập 30 tháng 9 năm 2015.
- ^ Danish embassy in Hanoi
- ^ "Embassy Information", EmabssyInformation.com, retrieved ngày 28 tháng 4 năm 2009.
- ^ "List of Vietnamese Embassies and Consulates abroad", 48th International Mathematical Olympiad, retrieved ngày 28 tháng 4 năm 2009.
- ^ Antonio G. Filipazzi, Rappresentanze e Rappresentanti Pontifici dalla seconda metà del XX secolo (Libreria Editrice Vaticana 2006 ISBN 88-209-7845-8), p. X, XII, XV, 189
- ^ a ă â “TÀI LIỆU CƠ BẢN VÈ MA-LA-UY VÀ QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM”.
- ^ “Việt Nam công nhận nhà nước Nam Xu-đăng”.
- ^ “Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết điện mừng đến Ngài Xan-va Ki May-a-dít, Tổng thống Nam Xu-đăng”.
|