Jordi Alba

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Jordi Alba
Jordi Alba trong màu áo Tây Ban Nha năm 2017
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Jordi Alba Ramos
Ngày sinh 21 tháng 3, 1989 (33 tuổi)
Nơi sinh L'Hospitalet, Tây Ban Nha
Chiều cao 1,70 m (5 ft 7 in)
Vị trí Tiền vệ, Hậu vệ trái
Thông tin câu lạc bộ
Đội hiện nay
Barcelona
Số áo 18
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
1996–1998 Hospitalense
1998–2005 Barcelona
2005–2007 Cornellà
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2006–2007 Cornellà 15 (3)
2007–2009 Valencia 18 (5)
2008–2009Gimnàstic (Mượn) 35 (4)
2009–2012 Valencia 74 (5)
2012– Barcelona 263 (13)
Đội tuyển quốc gia
2011– Tây Ban Nha 91 (9)
Thành tích
* Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ chuyên nghiệp chỉ được tính cho giải quốc gia và chính xác tính đến 17 tháng 10 năm 2021
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia chính xác tính đến 6 tháng 12 năm 2022

Jordi Alba Ramos (sinh 21 tháng 3 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp của Tây Ban Nha chơi ở vị trí hậu vệ cánh trái cho câu lạc bộ Barcelona tại La Liga và là đội trưởng của Đội tuyển Tây Ban Nha.

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Những năm đầu đời[sửa | sửa mã nguồn]

Sinh ra tại L'Hospitalet de Llobregat, Barcelona, ​​Catalonia, Alba bắt đầu sự nghiệp của mình trong đội trẻ của FC Barcelona nhưng đã rời khỏi câu lạc bộ này năm 2005. Sau đó anh gia nhập câu lạc bộ Catalan UE Cornellà và trong năm 2007, sau gần hai năm, anh đã rời đội với một thỏa thuận giá 6.000 euro ký với Valencia CF. Anh đã ra mắt bóng đá chuyên nghiệp của mình ở mùa giải sau, thi đấu cho với tư cách cầu thủ cho mượn tại đội bóng hạng hai Gimnàstic de Tarragona[1].

Valencia[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi trở về Los Che (biệt danh của Valencia CF), Alba đã có trận ra mắt La Liga ngày 13 tháng 9 năm 2009 trong chiến thắng 4-2 trước Real Valladolid. Sau đó, anh đá chính hai trận liên tiếp tại vòng bảng UEFA Europa League 2009-10, gồm một trận sân khách trước Lille trước khi trở về sân nhà tiếp đón SK Slavia Praha (hai trận đều có kết quả hòa 1–1).. Do có nhiều chấn thương trong hàng phòng ngự của Valencia, anh đã chơi phần lớn mùa giải 2009–10 ở vị trí hậu vệ trái và có được những màn trình diễn ấn tượng. Ngày 11 tháng 4, năm 2010, anh đã ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ trong thất bại 2–3 trước RCD Mallorca.

Vào mùa 2010–11, khi Unai Emery vẫn là huấn luyện viên trưởng, Alba gần như luôn chơi ở vị trí hậu vệ, cạnh tranh suất đá chính với Jérémy Mathieu. Anh đã chơi 27 trận đấu cho Valencia CF trong mùa giải La Liga đó, giúp đội bóng giành vị trí thứ 3 và giành quyền tham dự UEFA Champions League 2011–12.

Mùa giải tiếp theo, Emery tiếp tục sử dụng cả Alba và Mathieu ở vị trí cánh trái, tiếp tục theo đuổi chiến thuật từ mùa trước. Điều này đã chứng tỏ sự hiệu quả khi hai cầu thủ này thường hoán đổi vị trí cho nhau và tích cực hỗ trợ trên cả mặt trận tấn công và phòng ngự. Sau này, Alba đã coi Emery như người thầy quan trọng nhất giúp anh chuyển đổi thành công sang một vị trí có thiên hướng phòng ngự nhiều hơn.

Barcelona[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 28 tháng 6 năm 2012, Alba đã ký hợp đồng 5 năm có giá trị 14 triệu euro với Barcelona. Anh có trận ra mắt chính thức vào ngày 19 tháng 8 khi chơi đủ 90 phút trong chiến thắng 51 trước Real Sociedad trên sân nhà.

Alba ghi bàn đầu tiên cho Barcelona ngày 20 tháng 10 năm 2012 với bàn mở tỉ số trong chiến thắng 5–4 trước Deportivo La Coruña, nhưng đồng thời cũng ghi một bàn phản lưới nhà. Ngay trận đấu tiếp theo khi tiếp Celtic trên sân nhà trong khuôn khổ UEFA Champions League, Alba đã có một bàn thắng ở phút 90+3, mang về chiến thắng 2–1 ở những phút bù giờ cho đội bóng xứ Catalunya.

Ngày 12 tháng 3 năm 2013, Alba ghi bàn thắng thứ 5 trong mùa giải với bàn thắng ở phút cuối giúp Barcelona giành chiến thắng 4–0 trước A.C. Milan ở lượt về vòng 16 đội UEFA Champions League 2012–13 sau khi đã thua 0–2 tại San Siro ở lượt đi. Đội bóng cũng trở thành đội đầu tiên trong lịch sử giải đấu có một pha lội ngược dòng khi bị dẫn trước 2 bàn ở lượt đi và không ghi được bàn nào trên sân khách.[2] Mùa đó Barcelona lên ngôi vô địch La Liga khi thầy trò huấn luyện viên Tito Vilanova giành lại danh hiệu này từ tay đại kình địch Real Madrid.[3]

Ngày 2 tháng 6 năm 2015, Alba đã ký vào bản hợp đồng có thời hạn 5 năm, cùng mức phí giải phóng hợp đồng 150 triệu euro.[3] Bốn ngày sau, anh đã chơi trận chung kết UEFA Champions League 2015, giúp đội bóng giành danh hiệu này lần thứ 5 với chiến thắng 3–1 trước Juventus tại sân vận động Olympiastadion, Berlin.[4] Xuyên suốt mùa giải 2014–15, anh chơi 38 trận cho Barcelona, ghi 1 bàn và giúp Barca giành cú ăn ba.[5]

Ngày 22 tháng 5 năm 2016, Alba giành Cúp Nhà vua Tây Ban Nha thứ hai trong sự nghiệp khi ghi bàn ở phút 97 ở trận chung kết trước Sevilla sau khi đón đường chọc khe của Lionel Messi, giúp đội bóng giành chiến thắng 2–0 sau hiệp phụ tại sân Vicente Calderón, Madrid.[6]

Ngày 11 tháng 3 năm 2019, anh đặt bút ký vào bản hợp đồng có thời hạn 5 năm cùng mức phí giải phóng hợp đồng 500 triệu euro.[7]

Alba bỏ lỡ 50% số trận đấu của mùa giải 2019–20, bỏ lỡ 12 trên 24 trận đấu vì chấn thương liên quan tới cơ đùi sau.[8]

Anh đã có màn trình diễn tốt nhất sự nghiệp ở mùa 2020–21 với 5 bàn và 13 kiến tạo trên mọi đấu trường, đồng thời giành chức vô địch Cúp Nhà vua Tây Ban Nha.[9]

Ngày 9 tháng 8 nàm 2021, Jordi Alba được chọn làm đội phó thứ ba của Barcelona khi Lionel Messi đã rời đi trước mùa giải 2021–22.[10]

Sự nghiệp quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Alba đã chơi cho đội tuyển U19 Tây Ban Nha tại Giải vô địch các đội tuyển U19 Châu Âu 2008.

Alba được gọi lần đầu tiên vào đội tuyển quốc gia vào ngày 30 tháng 9 năm 2011 cho hai trận cuối ở vòng loại UEFA Euro 2012, gặp Cộng hòa SécScotland. Anh có trận ra mắt vào ngày 11 tháng 10 trong chiến thắng 3–1 trước Scotland. Màn ra mắt ấn tượng của anh đã khẳng định mình là một ứng cử viên kế thừa lâu dài cho hậu vệ Joan Capdevila. Ngoài ra Alba còn được gọi vào đội tuyển U23 Tây Ban Nha thi đấu tại Olympic London 2012.[11]

Anh đã chơi tất cả các trận của đội tuyển Tây Ban Nha tại vòng chung kết Euro 2012, giải đấu mà La Roja đã lên ngôi vô địch. Alba là người tật bóng cho Xabi Alonso mở tỉ số trong chiến thắng 2–0 trước Pháp ở tứ kết.[12] Sau đó, anh đón đường chuyền của Xavi để ghi bàn thắng thứ 2 trong chiến thắng 4–0 trước Ý ở trận chung kết.[13]

Alba được chọn để chơi 4 trận ở Confederations Cup 2013, đồng thời ghi 2 bàn trong chiến thắng 3–0 trước Nigeria ở vòng bảng.

Anh tiếp tục được Vicente Del Bosque lựa chọn vào đội hình Tây Ban Nha tham gia FIFA World Cup 2014, tuy nhiên chỉ đá ba trận do các nhà đương kim vô địch bị loại từ vòng bảng.[14] Anh cũng được chọn vào đội hình tham dự FIFA World Cup 2018 và UEFA Euro 2020.[15][16]

Do đội trưởng tuyển Tây Ban Nha là Sergio Busquets bị nhiễm COVID-19, Alba sẽ là đội trưởng của Tây Ban Nha cho đến khi có thông báo mới.[17]

Phong cách thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]

Jordi Alba là mẫu hậu vệ trái toàn diện, có khả năng lên công về thủ rất tốt với tốc độ, kỹ thuật cá nhân thượng hạng. Anh được biết đến với khả năng phối hợp, chọn vị trí và chạy chỗ tốt. Đồng thời, Alba cũng có khả năng kiến tạo tốt tạt bóng từ cánh, và có thể di chuyển bất ngờ vào trung lộ, tận dụng khoảng trống được đối phương tạo ra. Tuy vậy, một số chuyên gia cho rằng điểm yếu của Alba nằm ở khả năng phòng ngự, tuy vậy kỳ năng này của anh đã dần được cải thiện theo thời gian thi đấu.[18] Tốc độ và thể lực tốt giúp Alba có thể tham gia nhiều tình huống cả tấn công và phòng ngự.[19] Nhờ khả năng di chuyển rất nhanh từ sân nhà sang phần sân đối phương, anh có thể tràn lên tấn công và ghi bàn hoặc nhanh chóng lùi về phòng ngự, chống phản công khi đội nhà mất bóng.[20] Anh được coi là một trong những hậu vệ cánh trái xuất sắc nhất thế giới và cũng đã nhận được những lời khen ngợi từ các cựu hậu vệ Joan Capdevila và Roberto Carlos.[21]

Thống kê sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến 17 tháng 10 năm 2021[22][23]
Câu lạc bộ Mùa giải Giải VĐQG Copa del Rey Châu Âu Khác Tổng cộng
Giải đấu Số lần ra sân Số bàn thắng Số lần ra sân Số bàn thắng Số lần ra sân Số bàn thắng Số lần ra sân Số bàn thắng Số lần ra sân Số bàn thắng
Cornellà 2006–07 Primera Catalana 15 3 15 3
Gimnàstic (cho mượn) 2008–09 Segunda División 35 4 1 0 36 4
Valencia 2009–10 La Liga 15 1 2 0 9 0 26 1
2010–11 La Liga 27 2 4 0 3 0 34 2
2011–12 La Liga 32 2 8 0 10 1 50 3
Tổng cộng 74 5 14 0 22 1 110 6
Barcelona 2012–13 La Liga 29 2 5 1 9 2 1 0 44 5
2013–14 La Liga 15 0 5 0 4 0 2 0 26 0
2014–15 La Liga 27 1 6 1 11 0 44 2
2015–16 La Liga 31 0 3 1 9 0 2 0 45 1
2016–17 La Liga 26 1 6 0 6 0 1 0 39 1
2017–18 La Liga 33 2 5 1 8 0 2 0 48 3
2018–19 La Liga 36 2 6 0 11 1 1 0 54 3
2019–20 La Liga 27 2 3 0 5 0 1 0 36 2
2020–21 La Liga 35 3 5 2 7 0 2 0 49 5
2021–22 La Liga 4 0 0 0 1 0 0 0 5 0
Tổng cộng 263 13 43 6 71 3 13 0 390 22
Tổng cộng sự nghiệp 387 25 58 5 93 4 13 0 551 35

Đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến 6 tháng 12 năm 2022[24]
Đội tuyển quốc gia Năm Số lần ra sân Số bàn thắng
Tây Ban Nha 2011 2 0
2012 13 2
2013 9 3
2014 9 0
2015 6 1
2016 11 0
2017 8 2
2018 9 0
2019 3 0
2020 0 0
2021 10 0
2022 11 1
Tổng cộng 91 9

Bàn thắng quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

# Ngày Địa điểm Đối thủ Bàn thắng Kết quả Giải đấu
1. 1 tháng 7 năm 2012 Sân vận động Olympic, Kyiv, Ukraina  Ý 2–0 4–0 UEFA Euro 2012
2. 12 tháng 10 năm 2012 Sân vận động Dynama, Minsk, Belarus  Belarus 1–0 4–0 Vòng loại FIFA World Cup 2014
3. 23 tháng 6 năm 2013 Sân vận động Castelão, Fortaleza, Brasil  Nigeria 1–0 3–0 FIFA Confederations Cup 2013
4. 3–0
5. 6 tháng 9 năm 2013 Sân vận động Olympic Helsinki, Helsinki, Phần Lan  Phần Lan 1–0 2–0 Vòng loại FIFA World Cup 2014
6. 5 tháng 9 năm 2015 Sân vận động Carlos Tartiere, Oviedo, Tây Ban Nha  Slovakia 1–0 2–0 Vòng loại UEFA Euro 2016
7. 11 tháng 11 năm 2017 Sân vận động La Rosaleda, Málaga, Tây Ban Nha  Costa Rica 1–0 5–0 Giao hữu
8. 14 tháng 11 năm 2017 Sân vận động Krestovsky, Saint Petersburg, Nga  Nga 1–0 3–3
9. 24 tháng 9 năm 2022 Sân vận động La Romareda, Zaragoza, Tây Ban Nha  Thụy Sĩ 1–1 1–2 UEFA Nations League 2022–23

Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Barcelona[sửa | sửa mã nguồn]

Đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

U20 Tây Ban Nha[sửa | sửa mã nguồn]

Tây Ban Nha[sửa | sửa mã nguồn]

Cá Nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ AS, Diario (26 tháng 7 năm 2008). “Jordi Alba ya es grana y Campano puede quedarse”. AS.com (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  2. ^ UEFA.com (12 tháng 3 năm 2013). “Breathtaking Barcelona blow Milan away”. UEFA.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  3. ^ a b “News - FC Barcelona Official Channel”. www.fcbarcelona.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  4. ^ UEFA.com (6 tháng 6 năm 2015). “Barcelona see off Juventus to claim fifth title”. UEFA.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  5. ^ “Barça make history with second treble! | FC Barcelona”. web.archive.org. 7 tháng 6 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  6. ^ “Barcelona vs Sevilla: resumen, goles y resultado”. MARCA.com. 20 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  7. ^ “Jordi Alba, a blaugrana until 2024”. www.fcbarcelona.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  8. ^ Ram, Sachin Prabhu. “Analysis: Jordi Alba, attacking prowess”. Barca Universal. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  9. ^ “Jordi Alba, the defender with the most goals and assists”. www.fcbarcelona.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  10. ^ Sport (9 tháng 8 năm 2021). “Jordi Alba, cuarto capitán del Barça”. sport (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  11. ^ “Spain pick Euros trio for Games”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  12. ^ UEFA.com (23 tháng 6 năm 2012). “Centurion Alonso sends Spain past France into EURO 2012 last four”. UEFA.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  13. ^ UEFA.com (1 tháng 7 năm 2012). “Spain overpower exhausted Italy to win UEFA EURO 2012 final”. UEFA.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  14. ^ “FIFA”. fifa.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  15. ^ “Spain World Cup squad news: Chelsea star Alvaro Morata misses out on Russia 2018 | Goal.com”. www.goal.com. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  16. ^ “Trent Alexander-Arnold to miss Euro 2020 due to injury”. The Independent (bằng tiếng Anh). 3 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  17. ^ “Euro 2020: new Spain captain Jordi Alba talks exclusively to AS”. AS.com (bằng tiếng Anh). 9 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  18. ^ Wilson, Jonathan. “As opponents adapt, Jordi Alba helping to give Spain a new dimension”. Sports Illustrated.
  19. ^ Cernensek, Bostjan (2 tháng 9 năm 2012). “Getting To Know: Jordi Alba”. Barca Blaugranes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  20. ^ “Jordi Alba will become better than Roberto Carlos, says Capdevila | Goal.com”. www.goal.com. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  21. ^ “Fullback Alba giving Spain added goalscoring value”. Reuters (bằng tiếng Anh). ngày 8 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  22. ^ “Jordi Alba”. Soccerway. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2014.
  23. ^ Bản mẫu:ESPNsoccernet
  24. ^ Jordi Alba tại National-Football-Teams.com
  25. ^ “Barcelona 2012–13: Statistics”. BDFutbol. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
  26. ^ “Barcelona 2014–15: Statistics”. BDFutbol. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
  27. ^ “Barcelona 2015–16: Statistics”. BDFutbol. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
  28. ^ “Barcelona 2017–18: Statistics”. BDFutbol. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
  29. ^ “Barcelona 2018–19: Statistics”. BDFutbol. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
  30. ^ “Acta del Partido celebrado el 30 de mayo de 2015, en Barcelona” [Minutes of the Match held on 30 May 2015, in Barcelona] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Royal Spanish Football Federation. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
  31. ^ “Acta del Partido celebrado el 22 de mayo de 2016, en Madrid” [Minutes of the Match held on 22 May 2016, in Madrid] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Royal Spanish Football Federation. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
  32. ^ “Acta del Partido celebrado el 27 de mayo de 2017, en Madrid” [Minutes of the Match held on 27 May 2017, in Madrid] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Royal Spanish Football Federation. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
  33. ^ “Acta del Partido celebrado el 21 de abril de 2018, en Madrid” [Minutes of the Match held on 21 April 2018, in Madrid] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Royal Spanish Football Federation. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
  34. ^ Lowe, Sid (17 tháng 4 năm 2021). “Messi stars as Barcelona thrash Athletic Bilbao to lift Copa del Rey”. The Guardian. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2021.
  35. ^ “Acta del Partido celebrado el 16 de abril de 2014, en Valencia” [Minutes of the Match held on 16 April 2014, in Valencia] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Royal Spanish Football Federation. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
  36. ^ “Acta del Partido celebrado el 25 de mayo de 2019, en Sevilla” [Minutes of the Match held on 25 May 2019, in Seville] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Royal Spanish Football Federation. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
  37. ^ “Acta del Partido celebrado el 21 de agosto de 2013, en Madrid” [Minutes of the Match held on 21 August 2013, in Madrid] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Royal Spanish Football Federation. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
    “Acta del Partido celebrado el 28 de agosto de 2013, en Barcelona” [Minutes of the Match held on 28 August 2013, in Barcelona] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Royal Spanish Football Federation. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
  38. ^ “Acta del Partido celebrado el 14 de agosto de 2016, en Sevilla” [Minutes of the Match held on 14 August 2016, in Seville] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Royal Spanish Football Federation. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
    “Acta del Partido celebrado el 17 de agosto de 2016, en Barcelona” [Minutes of the Match held on 17 August 2016, in Barcelona] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Royal Spanish Football Federation. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
  39. ^ “Acta del Partido celebrado el 12 de agosto de 2018, en Tanger” [Minutes of the Match held on 12 August 2018, in Tangier] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Royal Spanish Football Federation. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
  40. ^ Baynes, Ciaran (15 tháng 1 năm 2023). “Real Madrid 1-3 Barcelona: Gavi stars as Barca dominate to win Spanish Super Cup”. Euro Sport. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2023.
  41. ^ “2014/15, Final: Juventus 1–3 Barcelona: Overview”. UEFA. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
  42. ^ “Match report: Club Atlético River Plate – Futbol Club Barcelona”. FIFA. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2019.
  43. ^ “ITA – ESP 1:2 (0:0)” (PDF). Pescara 2009. 4 tháng 7 năm 2009. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2014.
  44. ^ “Final: Spain 4–0 Italy: Line-ups”. UEFA. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
  45. ^ “Match report: Brazil – Spain”. FIFA. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 5 năm 2019.
  46. ^ “UEFA Euro 2012 Team of the Tournament”. UEFA. 2 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2014.
  47. ^ “UEFA Champions League squad of the season”. UEFA. 9 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2015.
  48. ^ “The 2014/15 Liga BBVA Ideal XI”. Liga de Fútbol Profesional. 15 tháng 6 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2015.
  49. ^ ESM Top-Elf: Ein Bayern-Star in Europas Elite. Abendzeitung (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2018.
  50. ^ “Reus, Kimmich und ter Stegen im ESM-Team der Saison” (bằng tiếng Đức). kicker. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2020.