Câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An
![]() | |
Tên đầy đủ | Câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An |
---|---|
Biệt danh | Đội bóng xứ Nghệ Đội bóng áo vàng |
Tên ngắn gọn | SLNA |
Thành lập | 28 tháng 2 năm 1979 |
Sân vận động | Vinh |
Sức chứa | 18.000 |
Chủ tịch điều hành | Trương Sỹ Bá |
Giám đốc điều hành | Nguyễn Huy Hoàng |
Huấn luyện viên | Nguyễn Huy Hoàng |
Giải đấu | V.League 1 |
2023 | ? |
Trang web | Trang web của câu lạc bộ |
Câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp tại Việt Nam, có trụ sở ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Đây là câu lạc bộ đã đoạt rất nhiều danh hiệu từ Giải vô địch quốc gia, Cúp quốc gia cũng như các giải trẻ và là một trong những câu lạc bộ đóng góp cầu thủ cho đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam nhiều nhất. Từ trước đến nay, Sông Lam Nghệ An có truyền thống chỉ sử dụng nội binh là các cầu thủ từ chính lò đào tạo của câu lạc bộ. Gần như tất cả các cầu thủ này đều có quê ở Nghệ An, số còn lại ở Hà Tĩnh, vì vậy có thể coi đây là câu lạc bộ giàu bản sắc bậc nhất cả nước. Ngoài ra với thành tích vượt trội ở hệ thống giải trẻ và các lứa U (U-9, U-11, U-13, U-15, U-17, U-19 và U-21), đội bóng cũng luôn được xem là lò đào tạo trẻ tốt nhất cũng như là cái nôi của bóng đá Việt.
Sông Lam Nghệ An chính thức được thành lập vào năm 1979 sau khi được xếp thi đấu ở hạng A2 toàn quốc. Sân nhà của Sông Lam Nghệ An là sân vận động Vinh, sức chứa hiện nay là 18.000 khán giả. Trang phục thi đấu truyền thống của Sông Lam Nghệ An là màu vàng mang đậm chất xứ Nghệ nên họ có biệt danh là Đội bóng áo vàng (hay Đội bóng xứ Nghệ). Câu lạc bộ là một trong những đội bóng có truyền thống lịch sử lâu đời nhất ở Việt Nam. "Đặc biệt, đây là câu lạc bộ duy nhất chưa từng phải xuống hạng kể từ khi V.League 1 ra đời năm 2000."
Trong hơn 40 năm tồn tại, Sông Lam Nghệ An đã đem được nhiều chiến tích về trưng bày trong phòng truyền thống của mình: 3 danh hiệu vô địch quốc gia (V.League 1), 3 Cúp quốc gia (kỷ lục), 4 Siêu cúp quốc gia (kỷ lục) và 1 danh hiệu vô địch Giải bóng đá tập huấn mùa xuân. Ở đấu trường quốc tế, đội có thành tích thi đấu khá tốt tại AFC Champions League vào năm 2001. Với 10 danh hiệu lớn giành được, Sông Lam Nghệ An là một trong số các câu lạc bộ giàu thành tích nhất cả nước.
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Tiền thân[sửa | sửa mã nguồn]
Thời kỳ Pháp thuộc, khu vực Vinh - Bến Thủy từng có một đội bóng lừng danh mang tên là Đội Áo Vàng. Đây được xem như là khởi đầu của truyền thống bóng đá Nghệ An. Một số người cho rằng đây là nguồn gốc của màu áo vàng truyền thống của đội Sông Lam Nghệ An ngày nay.
Tuy vậy, vùng Nghệ Tĩnh hầu như không có một đột bóng nổi bật nào suốt hầu hết thời gian chiến tranh. Mãi đến năm 1973, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ Tĩnh mới thành lập một đội bóng nghiệp dư để thi đấu ở Giải hạng B phong trào. Đội bóng này được xem là tiền thân của Sông Lam Nghệ An ngày nay.
Đội bóng đá Sông Lam Nghệ Tĩnh (1979–1992)[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1979, sau khi hệ thống Giải bóng đá vô địch quốc gia được thành lập, với thành tích thi đấu tốt, đội được xếp thi đấu ở hạng A2 toàn quốc. Ngày 28 tháng 2 năm 1979, đội bóng được chính thức được Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ Tĩnh chuyển về Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh quản lý và đổi tên thành Đội bóng đá Sông Lam.[1]
Năm 1980, Huấn luyện viên Nguyễn Thành Vinh bắt đầu nắm đội 1 của Đội bóng đá Sông Lam Nghệ Tĩnh. Từ đây, mặc dù là một đội bóng "trẻ" trong nền bóng đá Việt Nam so với các đội bóng cùng thời như Thể Công, Cảng Sài Gòn, Công an Hà Nội, Công an Hải Phòng, nhưng với những nỗ lực của huấn luyện viên Nguyễn Thành Vinh, đội bóng Sông Lam đã bắt đầu có được chuỗi thành tích, cũng như một lối đá đặc trưng của riêng mình, sánh vai với các đội bóng đàn anh.
Năm 1986, đội lần đầu tiên thi đấu ở hạng A1 toàn quốc (hạng cao nhất lúc đó). Dù chỉ xếp hạng 5/6 ở bảng C và không vào được vòng 2, đây lại là khởi đầu của thành tích thi đấu bền bỉ ở các giải vô địch cao nhất quốc gia của đội bóng Sông Lam.
Năm 1989, lần đầu tiên phân hạng đội mạnh. Tuy không thi đấu ở vòng 2 do phải sang Lào thi đấu, đội vẫn được đặc cách thăng hạng đội mạnh bởi thành tích thi đấu tốt ở vòng 1.
Tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam 1990, trong trận thi đấu với đội Dệt Nam Định, các cầu thủ Dệt Nam Định đuổi đánh trọng tài Nguyễn Thu nên hai đội cùng bị kỷ luật xuống hạng A1. Tuy nhiên sau đó, Liên đoàn bóng đá Việt Nam hủy quyết định và công nhận Sông Lam Nghệ Tĩnh vẫn ở giải đội mạnh, còn Dệt Nam Định bị cấm thi đấu một năm.
Tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam 1991, đội thi đấu với thành tích yếu kém, phải thi đấu chung kết ngược với đội Long An và may mắn trụ hạng nhờ thắng trong loạt đá luân lưu.
Đội bóng đá Sông Lam Nghệ An (1992–2004)[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1992, Nghệ Tĩnh được tách thành hai tỉnh là Nghệ An và Hà Tĩnh. Đội bóng Sông Lam Nghệ Tĩnh được chuyển về cho tỉnh Nghệ An quản lý và đổi tên thành Đội bóng đá Sông Lam Nghệ An. Cũng trong năm này, đội lọt vào bán kết và đạt Hạng 3 Giải vô địch bóng đá Việt Nam
Ngày 21 tháng 3 năm 1994, Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An có quyết định đổi tên thành Đoàn bóng đá Sông Lam và chuyển đổi hình thức tổ chức thành một đơn vị sự nghiệp thuộc ngành Thể dục Thể thao.
Năm 1996, đội thi đấu xuất sắc và đoạt Huy chương đồng Giải vô địch quốc gia, Huy chương đồng Cúp Quốc gia 1996.
Tại mùa giải 1997, đội tiếp tục thi đấu khởi sắc nhưng lại bỏ lỡ cơ hội vô địch khi đội Thể Công bất ngờ bị cầm hòa với Cảng Sài Gòn ngay trên sân nhà Cột Cờ. Thua 1 điểm, Sông Lam đành nhận huy chương bạc. Cũng trong năm này, tại giải vô địch giải bóng đá trong nhà, đội đoạt chức vô địch sau khi đánh bại đội Long An.
Năm 1998 là một mùa bóng nhiều thành tích của đội: Á quân Giải vô địch quốc gia, huy chương đồng Cúp Quốc gia 1998, Vô địch cúp Dunhill khi đánh bại Đội bóng đá Công an Hà Nội 2-0 trong trận chung kết trên sân Vinh, tiếp tục vô địch Cúp bóng đá trong nhà.
Năm 1999, đội đoạt chức vô địch Giải bóng đá tập huấn mùa xuân 1999 với trận thắng Công an Hà Nội ngay trên sân Hàng Đẫy bằng loạt sút luân lưu 11m với sự xuất sắc của Võ Văn Hạnh. Trong giải Cúp Dunhill cuối cùng ở Hải Phòng, đội giành Huy chương bạc.
Năm 2000, đội lần đầu tiên đoạt chức vô địch Giải vô địch quốc gia với 43 điểm sau 24 vòng đấu. Văn Sĩ Thủy là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất và đạt danh hiệu "Vua phá lưới" của giải. Thành tích này không thể không có những đóng góp to lớn của Nguyễn Thành Vinh, người từng có 19 năm giữ cương vị huấn luyện viên trưởng, cùng bóng đá xứ Nghệ vượt qua khó khăn để đạt được vinh quang đầu tiên cho câu lạc bộ. Cùng năm đó, họ tiếp tục thành công khi đánh bại Cảng Sài Gòn 2-0 trên sân Hàng Đẫy và đoạt Siêu cúp quốc gia. Với thế hệ tài năng của Văn Sỹ Hùng, Văn Sỹ Thủy, Ngô Quang Trường, Phan Thanh Tuấn, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Hữu Thắng, Nguyễn Phi Hùng, Võ Văn Hạnh, Hà Mai Giang cùng các ngoại binh chất lượng như Iddi Batambuje, Lulenti Kyeyune, Enock Kyembe, Fred Tamala, tất cả đều trở thành biểu tượng chiến thắng của bóng đá xứ Nghệ khi đó.
Năm 2001, giải vô địch quốc gia chính thức chuyển sang cơ chế chuyên nghiệp, và được mang tên V-League. Sông Lam Nghệ An tiếp tục một mùa bóng đầy thăng hoa khi là câu lạc bộ đầu tiên vô địch quốc gia với tên gọi V-League. Năm 2001 trở đi, kết thúc một chuỗi thành công của đội bóng xứ Nghệ, câu lạc bộ bắt đầu rơi vào tình trạng khủng hoảng. Nhiều cầu thủ đã từng mang đến thành công cho đội bóng lần lượt ra đi bởi nguồn tài chính của câu lạc bộ quá eo hẹp. Hàng loạt ngoại binh có chất lượng không thể giữ chân nổi.
Câu lạc bộ bóng đá PJICO Sông Lam Nghệ An (2004–2007)[sửa | sửa mã nguồn]
Là một trong những đội bóng mạnh, nhưng Sông Lam Nghệ An lại bước vào hình thức chuyên nghiệp khá trễ. Trong nhiều năm liền, đội được đặt dưới quyền quản lý của Sở Thể dục Thể thao Nghệ An. Mãi đến năm 2004, đội lần đầu tiên thi đấu chuyên nghiệp với sự tài trợ từ Công ty Cổ phần bảo hiểm PJICO, lấy tên ghép từ nhà tài trợ: Câu lạc bộ PJICO Sông Lam Nghệ An. Cũng vào giai đoạn này, huấn luyện viên Nguyễn Thành Vinh rời xứ Nghệ vào TP.Hồ Chí Minh với Câu lạc bộ Ngân hàng Đông Á; chẳng bao lâu sau, ông Nguyễn Hồng Thanh ra Hà Nội. Tất cả khiến câu lạc bộ chìm trong cơn khủng hoảng về nhân sự, cùng hàng loạt vụ tiêu cực xảy ra. Sau nhiều biến cố, với sự tài trợ từ PJICO, nguồn tài chính của đội bóng dần cải thiện, không còn rơi vào những hoàn cảnh bế tắc về chất lượng nội binh như những năm trước. Mùa bóng 2004, đội thi đấu không được ổn định và chỉ đạt 37 điểm, xếp vị trí thứ 4 sau 22 trận.
Năm 2005, ông Nguyễn Hữu Thắng trở lại câu lạc bộ với tư cách là huấn luyện viên trưởng. Nhưng mùa bóng năm đó, câu lạc bộ không có thành tích gì nổi bật; họ vẫn thi đấu một cách mờ nhạt kể cả ngoại binh lẫn cầu thủ nội. Kết thúc 22 vòng đấu, câu lạc bộ đạt 31 điểm, xếp vị trí thứ 5.
Câu lạc bộ bóng đá Tài chính Dầu khí Sông Lam Nghệ An (2007–2009)[sửa | sửa mã nguồn]
Đến năm 2007, sau khi PJICO rút lui, Công ty Tài chính thuộc Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam đã nhận tài trợ cho đội. Từ mùa bóng 2007, đội thi đấu với tên mới là Câu lạc bộ bóng đá Tài chính Dầu khí Sông Lam Nghệ An.
Được sự tài trợ về nguồn tài chính nhưng giai đoạn này câu lạc bộ không có bất kì thành công nào. Việc những tài năng như Lê Công Vinh, Dương Hồng Sơn, Nguyễn Hồng Tiến, Cao Xuân Thắng,...ra đi đã khiến Sông Lam Nghệ An loay hoay tìm giải pháp thay thế. Sau nhiều năm không danh hiệu, Sông Lam Nghệ An đã vực dậy cải thiện tài chính và đặt niềm tin vào những cầu thủ trưởng thành từ lò đào tạo của mình. Những năm gần đây, Sông Lam Nghệ An tiếp tục duy trì được yếu tố địa phương, điều mà không nhiều đội bóng tại V.League có thể làm được.
Câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An (2009–nay)[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 2009, Công ty Cổ phần Bóng đá Sông Lam Nghệ An được thành lập với vốn điều lệ 100 tỷ đồng, gồm các cổ đông chính là Ngân hàng Bắc Á, Tập đoàn TH Truemilk. Từ đây, câu lạc bộ chuyển hẳn sang hình thức chuyên nghiệp với tên gọi Câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An.[2]
Năm 2010 mở đầu một thời kì thành công mới cho bóng đá Sông Lam Nghệ An. Với sự trở lại của huấn luyện viên Nguyễn Hữu Thắng, câu lạc bộ đã đánh bại Hoàng Anh Gia Lai 1-0 trên Sân vận động Thống Nhất để mang về phòng truyền thống chiếc cúp quốc gia thứ 2 trong lịch sử của họ.[3] Đây cũng là bàn đạp để thầy trò huấn luyện viên Nguyễn Hữu Thắng giành nhiều danh hiệu cao quý khác của bóng đá Việt Nam.
Mùa giải 2011, câu lạc bộ tiếp tục đoạt chức vô địch lần thứ 3 với trận hoà 1-1 trước Hà Nội T&T ngay trên Sân Vinh, kết thúc V-League với 49 điểm sau 26 vòng đấu.[4] Huấn luyện viên Nguyễn Hữu Thắng cũng trở thành nhà vô địch V-League cả trong vai trò cầu thủ lẫn huấn luyện viên. Tuy nhiên, đội lại để chức vô địch Cúp quốc gia 2011 rơi vào tay Navibank Sài Gòn khi thất bại 0-3 trên Sân vận động Thống Nhất. Sông Lam Nghệ An sau đó đã được bù đắp bằng Siêu cúp thứ 4 sau trận thắng 3-1 trước chính đối thủ cũ Navibank Sài Gòn trên sân Vinh, qua đó giành cú ăn hai ở mùa bóng 2011.
Năm 2012, Sông Lam Nghệ An chính thức nhận được sự đảm bảo vững chắc về tài chính từ Ngân hàng Bắc Á. Ngoài ra, phía ngân hàng này sẽ phê duyệt những đề án về việc phát triển đội bóng trong các mùa giải.
Mùa giải 2017, dù chỉ cán đích V.League ở vị trí thứ 7, Sông Lam Nghệ An đã vượt qua những Đắk Lắk, Hà Nội, TP.HCM, Quảng Nam và Becamex Bình Dương để nâng cao chức vô địch Cúp quốc gia 2017.
Kết thúc giải đấu V.League 1 2020, câu lạc bộ cán đích ở vị trí thứ 10 và giành giải phong cách. Cũng trong năm 2020, lần đầu tiên tất cả 6 đội trẻ của Sông Lam Nghệ An tham dự các giải trẻ vô địch quốc gia đều giành huy chương với 3 chức vô địch ̣(U-11, U-13, U-17), 1 huy chương bạc (U-21), 2 huy chương đồng (U-19, U-15) và được vinh danh là câu lạc bộ đào tạo trẻ tốt nhất năm.
Đầu năm 2022, câu lạc bộ chính thức công bố bộ nhận diện thương hiệu mới. Logo cũ của đội bóng đã được thay thế bằng logo mới với thiết kế hiện đại hơn.[5]
Trang phục thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]
Giai đoạn | Hãng trang phục | Nhà tài trợ in lên áo | |
---|---|---|---|
1 | 2 | ||
2000-2004 | ![]() |
không có | không có |
2005 | không có | Licama | Vida |
2006 | PJICO | Halida | |
2007-2008 | Tài chính dầu khí PVFC | ||
2009 | không có | ||
2010 | Eurowindow | ||
2011 | không có | ||
2012-2013 | Bac A Bank | ||
2014 | ![]() | ||
2015-2016 | không có | ||
2017 | ![]() | ||
2018 | TH True juice milk | ||
2019 | TH True water | ||
2020-2021 | TH True juice milk | Bac A Bank | |
2022 | ![]() |
Gạo A AN | Eurosun |
2023-nay | không có |
- Áo thi đấu SLNA năm 2022
Trang phục sân nhà |
---|
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
Trang phục sân khách |
---|
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
Trang phục thứ ba |
---|
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
- Áo thi đấu SLNA năm 2023
Trang phục sân nhà |
---|
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
Trang phục sân khách |
---|
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
Trang phục thứ ba |
---|
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
Đối thủ[sửa | sửa mã nguồn]
Hà Nội[sửa | sửa mã nguồn]
Hà Nội FC (hay Hà Nội T&T với tên gọi trước đây) được coi là một trong những kình địch lớn của CLB Sông Lam Nghệ An. Chính Sông Lam Nghệ An là đội đã chấm dứt chuỗi 32 trận bất bại trên sân nhà vào chính dịp sinh nhật của CLB Hà Nội.[6][7]

Hoàng Anh Gia Lai[sửa | sửa mã nguồn]
Trong lịch sử 18 năm đối đầu với Hoàng Anh Gia Lai trên sân Vinh, ngoài trận thua 1-2 ở năm 2010, Sông Lam Nghệ An giành 12 trận thắng, 5 trận hoà (2003, 2005, 2008, 2011, 2014). Khi làm khách trên sân Pleiku của Hoàng Anh Gia Lai, đội bóng xứ Nghệ thua đến 9 trận, hòa 5 và thắng 2. Cuộc đối đầu giữa hai câu lạc bộ luôn được coi là cuộc đối đầu giữa hai mô hình đào tạo trẻ với hai triết lý khác nhau.
Hồng Lĩnh Hà Tĩnh[sửa | sửa mã nguồn]
Từ xưa, Nghệ An và Hà Tĩnh là hai tỉnh có nhiều sự tương đồng về đời sống văn hoá. Bóng đá cũng được xem là món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân nơi đây.[8] "Derby Nghệ Tĩnh" là trận đấu được rất nhiều người hâm mộ bóng đá Việt Nam mong chờ. Nó không chỉ là trận đấu của hai đội bóng đang thi đấu ở V.League 1, mà còn là cuộc đối đầu giữa 2 người anh em ở đôi bờ dòng sông Lam.[9]
Thành viên nổi bật[sửa | sửa mã nguồn]
Quả bóng vàng Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Cầu thủ đoạt giải Quả bóng vàng Việt Nam khi đang chơi cho Sông Lam Nghệ An:
Võ Văn Hạnh – 2001
Phạm Văn Quyến – 2003
Lê Công Vinh – 2004, 2006, 2007
Cầu thủ nước ngoài xuất sắc nhất[sửa | sửa mã nguồn]
Cầu thủ đoạt giải Cầu thủ nước ngoài xuất sắc nhất khi đang chơi cho Sông Lam Nghệ An:
Iddi Batambuje – 2000, 2001
Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất[sửa | sửa mã nguồn]
Cầu thủ đoạt giải Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất khi đang chơi cho Sông Lam Nghệ An:
Phạm Văn Quyến – 2000, 2002
Nguyễn Huy Hoàng – 2001
Lê Công Vinh – 2004
Nguyễn Trọng Hoàng – 2009
Trần Phi Sơn – 2012
Vua phá lưới[sửa | sửa mã nguồn]
Cầu thủ đoạt giải Vua phá lưới khi đang chơi cho Sông Lam Nghệ An:
Văn Sĩ Thủy – 1999–00
Các thành viên nổi bật[sửa | sửa mã nguồn]
Đội hình hiện tại[sửa | sửa mã nguồn]
Đội một[sửa | sửa mã nguồn]
- Tính đến ngày 17 tháng 1 năm 2023[10]
Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.
|
|
Đội trẻ Sông Lam Nghệ An[sửa | sửa mã nguồn]
- Đội hình tham dự giải bóng đá hạng ba quốc gia 2022.[11]
Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.
|
|
Sân vận động[sửa | sửa mã nguồn]
Sân vận động Vinh với sức chứa 18,000 chỗ ngồi[12], tọa lạc tại đường Đào Tấn, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, được chọn làm sân nhà của câu lạc bộ.
Thành phần ban huấn luyện,các đời huấn luyện viên và đội trưởng của CLB[sửa | sửa mã nguồn]
Chức vụ | Tên |
---|---|
Huấn luyện viên trưởng | ![]() |
Trợ lý huấn luyện viên | ![]() |
![]() | |
![]() | |
Huấn luyện viên thể lực | ![]() |
Người phiên dịch | ![]() |
Bác sĩ | ![]() |










Đội trưởng | Vị trí | Năm |
---|---|---|
![]() |
Hậu vệ | 1993–1999 |
![]() |
Tiền vệ | 2000–2003 |
![]() |
Hậu vệ | 2004 |
![]() |
Hậu vệ | 2005–2012 |
![]() |
Tiền vệ | 2013 |
![]() |
Tiền đạo | 2014 |
![]() |
Tiền vệ | 2015 |
![]() |
Thủ môn | 2016–2019 |
![]() |
Hậu vệ | 2020–2022 |
![]() |
Hậu vệ | 2023-? |
Thành tích thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]
V.League[sửa | sửa mã nguồn]
Thành tích của Sông Lam Nghệ An tại V.League 1 | ||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Thứ hạng | ST | T | H | B | BT | BB | Điểm |
2001 | Vô địch | 18 | 11 | 3 | 4 | 20 | 16 | 36 |
2002 | Á quân | 18 | 8 | 4 | 6 | 22 | 20 | 28 |
2003 | Thứ 5 | 22 | 9 | 5 | 8 | 25 | 16 | 32 |
2004 | Thứ 4 | 22 | 9 | 10 | 3 | 38 | 17 | 37 |
2005 | Thứ 5 | 22 | 8 | 7 | 7 | 33 | 28 | 31 |
2006 | Thứ 5 | 24 | 9 | 9 | 6 | 27 | 27 | 36 |
2007 | Thứ 7 | 26 | 8 | 11 | 7 | 38 | 35 | 35 |
2008 | Thứ 9 | 26 | 10 | 7 | 9 | 45 | 35 | 36[15] |
2009 | Thứ 3 | 26 | 11 | 10 | 5 | 39 | 28 | 43 |
2010 | Thứ 9 | 26 | 9 | 10 | 7 | 34 | 26 | 37 |
2011 | Vô địch | 26 | 15 | 4 | 7 | 47 | 28 | 49 |
2012 | Thứ 4 | 26 | 9 | 14 | 3 | 44 | 30 | 41 |
2013 | Thứ 4 | 22 | 9 | 6 | 5 | 40 | 24 | 33 |
2014 | Thứ 5 | 22 | 10 | 6 | 6 | 38 | 26 | 36 |
2015 | Thứ 7 | 26 | 10 | 7 | 9 | 36 | 33 | 37 |
2016 | Thứ 9 | 26 | 9 | 7 | 10 | 34 | 36 | 34 |
2017 | Thứ 8 | 26 | 8 | 8 | 10 | 36 | 36 | 34 |
2018 | Thứ 4 | 26 | 12 | 6 | 8 | 38 | 32 | 42 |
2019 | Thứ 7 | 26 | 8 | 11 | 7 | 32 | 26 | 35 |
2020 | Thứ 10 | 18 | 6 | 5 | 7 | 17 | 21 | 23 |
2021 | Thứ 14 | 12 | 3 | 1 | 8 | 7 | 15 | 10[16] |
2022 | Thứ 5 | 24 | 9 | 6 | 9 | 29 | 28 | 33 |
Cúp quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]
Thành tích tại Giải bóng đá Cúp quốc gia | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Vòng | Ngày | Sân vận động | Đối thủ | Kết quả (SLNA bên trái) | Thành tích | |
Tỉ số | Tổng tỉ số | ||||||
2016 | Vòng loại | 2 tháng 4, 2016 | Vinh | Khánh Hòa | 1–0 | Vòng 1/8 | |
Vòng 1/8 | 10 tháng 6, 2016 | Lạch Tray | Hải Phòng | 1–2 | |||
2017 | Vòng loại | 4 tháng 2, 2017 | Vinh | Câu lạc bộ bóng đá Đắk Lắk | 3–1 | Vô địch ![]() | |
Vòng 1/8 | 3 tháng 6, 2017 | Mỹ Đình | Hà Nội | 1–1 (pen 4–3) | |||
Tứ kết | 16 tháng 6, 2017 | Vinh | Thành phố Hồ Chí Minh | 3–1 | 7–1 | ||
20 tháng 6, 2017 | Thống Nhất | 4–0 | |||||
Bán kết | 27 tháng 9, 2017 | Vinh | Quảng Nam | 4–1 | 7–4 | ||
6 tháng 10, 2017 | Tam Kỳ | 3–3 | |||||
Chung kết | 9 tháng 11, 2017 | Gò Đậu | Becamex Bình Dương | 2–1 | 7–2 | ||
30 tháng 11, 2017 | Vinh | 5–1 | |||||
2018 | Vòng loại | Đặc cách vào vòng 1/8 | Hạng 3 ![]() | ||||
Vòng 1/8 | 29 tháng 4, 2018 | Vinh | Thành phố Hồ Chí Minh | 2–0 | |||
Vòng tứ kết | 11 tháng 5, 2018 | Hoà Xuân | SHB Đà Nẵng | 3–1 | 5–1 | ||
15 tháng 5, 2018 | Vinh | 2–0 | |||||
Vòng bán kết | 25 tháng 7, 2018 | Thanh Hoá | Thanh Hóa | 3–2 | 3–6 | ||
5 tháng 9, 2018 | Vinh | 0–4 | |||||
2019 | Vòng loại | Đặc cách vào vòng 1/8 | Vòng 1/8 | ||||
Vòng 1/8 | 29 tháng 6, 2019 | Vinh | Quảng Nam | 2–2 (pen 8–9) | |||
2020 | Vòng loại | 24 tháng 5, 2020 | Vinh | Bình Định | 1–0 | Vòng 1/8 | |
Vòng 1/8 | 30 tháng 5, 2020 | Vinh | Bà Rịa Vũng Tàu | 1–1 (pen 4–5) | |||
2021 | Vòng loại | 23 tháng 4, 2021 | PVF | PVF | 0–1 | Vòng loại | |
2022 | Vòng loại | 7 tháng 4, 2022 | Bình Phước | Bình Phước | 1–2 | Vòng loại |
Thành tích tại các Cúp châu Á[sửa | sửa mã nguồn]
Thành tích của Sông Lam Nghệ An tại các giải cấp châu lục | ||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Thành tích | St | T | H | B | Bt | Bb | Đối thủ | Sân nhà | Sân khách |
AFC Champions League | ||||||||||
2000-2001 | Vòng 1 | 2 | 0 | 1 | 1 | 1 | 4 | ![]() |
0-0 | 1-4 |
2001-2002 | Vòng 1 | SLNA bỏ cuộc | ![]() |
- | ||||||
Tổng cộng | 2 lần tham dự | 2 | 0 | 1 | 1 | 1 | 4 | - | ||
AFC Cup | ||||||||||
2011 | Vòng bảng | 6 | 4 | 0 | 2 | 16 | 10 | ![]() |
4-0 | 1-3 |
![]() |
1-2 | 3-2 | ||||||||
![]() |
4-2 | 3-1 | ||||||||
Vòng 16 đội | 1 | 0 | 0 | 1 | 1 | 3 | ![]() |
1-3 | - | |
2012 | Vòng bảng | 6 | 2 | 1 | 3 | 6 | 9 | ![]() |
1-0 | 0-2 |
![]() |
0-1 | 2-6 | ||||||||
![]() |
3-0 | 0-0 | ||||||||
2018 | Vòng bảng | 4 | 2 | 1 | 1 | 4 | 1 | ![]() |
0-0 | 0-1 |
![]() |
2-0 | |||||||||
![]() |
2-0 | |||||||||
Tổng cộng | 3 lần tham dự | 17 | 8 | 2 | 7 | 27 | 23 | - |
Danh hiệu chính thức[sửa | sửa mã nguồn]
Đội một[sửa | sửa mã nguồn]
Giải vô địch quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch: 3[17]
Á quân: 3
Hạng ba: 3
Cúp quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch: 3 (đồng kỷ lục quốc gia)
Á quân: 1
Hạng ba: 7
Siêu cúp quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch: 4 (đồng kỷ lục quốc gia)
Á quân: 2
Là câu lạc bộ duy nhất của Việt Nam 3 lần liên tiếp vô địch quốc gia (nếu tính cả giải tập huấn mùa xuân 1999).
Là câu lạc bộ duy nhất chưa từng bị xuống hạng kể từ khi V.League ra đời vào năm 2001.
Đại hội Thể thao toàn quốc[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch: 1
Á quân: 1
U-21[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch: 5
Á quân: 4
Hạng ba: 4
U-19[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch: 5
Á quân: 5
Hạng ba: 8
U-17[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch: 7 (kỷ lục quốc gia)
Á quân: 2
Hạng ba: 1
U-15[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch: 4 (đồng kỷ lục quốc gia)[18]
- 2002; 2018; 2019; 2022
Á quân: 2
- 1999; 2008
Hạng ba: 4
- 2003; 2005; 2017; 2020
U-13 (đội thiếu niên)[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch: 9 (kỷ lục quốc gia)
Á quân: 2
- 2015; 2016
Hạng ba: 2
- 1999; 2017
U-11 (đội nhi đồng)[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch: 7 (kỷ lục quốc gia)
- 2001; 2002; 2017; 2018; 2019; 2020; 2022
Á quân: 1
- 1997
Hạng ba: 7
- 1996; 1998; 1999; 2000; 2003; 2009; 2015
U-9[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch: 2 (kỷ lục quốc gia)
- 2021; 2022
Giải thưởng khác[sửa | sửa mã nguồn]
- Huân chương Lao động hạng ba do Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng
- Cờ đơn vị thi đua xuất sắc của Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An 2 năm liền 1998, 1999–2000
- Cờ thi đua của Chính phủ tặng đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua năm 2000–2001
- Cờ đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mùa giải 2000–2001 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An
Biểu trưng[sửa | sửa mã nguồn]
-
1979–2007; 2009–01/2017
-
2007–2009
-
01/2017–04/01/2022
-
-
05/01/2022–nay
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Hồ sơ đội bóng: Sông Lam Nghệ An Lưu trữ 2012-03-25 tại Wayback Machine Truy cập 7 tháng 5 năm 2009
- ^ Sông Lam Nghệ An hoàn thành chuyển giao Truy cập 31 tháng 10 năm 2009
- ^ Sông Lam Nghệ An đoạt Cúp quốc gia sau trận 'thủy chiến' Truy cập 28 tháng 8 năm 2010
- ^ SLNA vô địch V-League 2011 Theo báo Người lao động, truy cập 21 tháng 8 năm 2011
- ^ Thanh Vũ. “SLNA công bố bộ nhận diện thương hiệu mới trước thềm V.League”. thethaovietnam.vn. Truy cập ngày 5 tháng 1, 2022.
- ^ https://www.facebook.com/baobongda. “Hà Nội FC 0-1 SLNA: Dứt mạch bất bại 32 trận trên sân nhà”. Bongdaplus-Báo Bóng đá. Truy cập 6 Tháng sáu 2021.
- ^ News, V. T. C. (18 Tháng sáu 2020). “Hà Nội FC thua đau SLNA trong ngày sinh nhật, mất kỷ lục bất bại trên sân nhà”. Báo điện tử VTC News. Truy cập 6 Tháng sáu 2021.
- ^ “Derby xứ Nghệ và nỗi mong chờ 28 năm”. VnExpress. 12 tháng 7 năm 2020.
- ^ “Chờ đợi trận 'Derby Nghệ Tĩnh' trên sân Vinh”. Báo Nghệ An. 14 tháng 7 năm 2022.
- ^ “Sông Lam Nghệ An”. Vietnam Professional Football. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2023.
- ^ . SLNA FC. 4 tháng 10 năm 2022 https://www.slnafc.com/tin-tuc/danh-sach-dang-ky-thi-dau-slna-hang-ba-mua-giai-2022-6468. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2022.
|tên=
thiếu|tên=
(trợ giúp);|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ “Sức chứa của Sân vận động Vinh”.
- ^ Cựu tuyển thủ Quốc gia Nguyễn Hữu Thắng được bổ nhiệm hlv trưởng Lưu trữ 2016-03-04 tại Wayback Machine Truy cập 29 tháng 9 năm 2005
- ^ “Hữu Thắng mất ghế HLV trưởng P.SLNA”. Báo điện tử Tiền Phong. 3 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2022.
- ^ Câu lạc bộ Tài chính dầu khí - Sông Lam Nghệ An bị trừ 1 điểm do những lộn xộn trên sân Vinh.
- ^ Vào ngày 24 tháng 8 năm 2021, VPF đã họp trực tuyến để lấy ý kiến của các câu lạc bộ về việc có tiếp tục tổ chức giải đấu hay không. Kết quả, 14/14 câu lạc bộ đồng ý với việc dừng giải đấu và vào tối cùng ngày thì VFF và VPF chính thức thông báo giải đấu đã bị hủy vì đại dịch COVID-19 tại Việt Nam, lần đầu tiên kể từ khi V.League lên chuyên nghiệp năm 2000.
- ^ Trên thực tế thì đội có 4 lần vô địch, nhưng lần vô địch đầu tiên vào năm 1999 không được công nhận một cách chính thức do đó là một giải đấu giao hữu
- ^ Trên thực tế thì đội có 5 lần vô địch, nhưng lần vô địch đầu tiên vào năm 1998 không được công nhận một cách chính thức
- ^ Trần Công Thi (12 tháng 7 năm 2013), U13 Sông Lam Nghệ An đoạt chức vô địch, Báo Nhân dân