Câu lạc bộ bóng đá Viettel
![]() | |||
Tên đầy đủ | Câu lạc bộ Bóng đá Viettel | ||
---|---|---|---|
Biệt danh | Cơn lốc đỏ Đội bóng áo lính[1] Hậu duệ Thể Công[2] | ||
Tên ngắn gọn | VTFC | ||
Thành lập | 23 tháng 9 năm 1954 | ||
Sân vận động | Sân vận động Hàng Đẫy, Hà Nội | ||
Sức chứa | 22.500 | ||
Chủ sở hữu | Trung tâm thể thao Viettel - Tập đoàn CN-VT Quân đội | ||
Giám đốc điều hành | Đỗ Mạnh Dũng | ||
Huấn luyện viên | Thạch Bảo Khanh | ||
Giải đấu | V.League 1 | ||
V.League 1 - 2022 | Thứ 4 | ||
Trang web | Trang web của câu lạc bộ | ||
| |||
Câu lạc bộ Bóng đá Viettel (tiếng Anh: Viettel Football Club) là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp ở Việt Nam thuộc biên chế Quân đội, có trụ sở tại Hà Nội, được điều hành bởi Trung tâm Thể thao Viettel trực thuộc Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội và Bộ Quốc phòng. Trung tâm hiện đào tạo các cầu thủ bóng đá gồm các tuyến từ U-11 đến U-21 và điều hành Câu lạc bộ Bóng đá chuyên nghiệp đang thi đấu tại V.League 1.
Tiền thân của Câu lạc bộ Bóng đá Viettel chính là Đội bóng đá Thể Công[3], trước đây từng có thời gian mang tên Đội bóng đá CLB Thể dục Thể thao Quân đội . Giai đoạn 2005-2007, Thể Công được tài trợ bởi Tổng Công ty Viễn thông Quân đội và thi đấu dưới tên gọi Câu lạc bộ Bóng đá Thể Công Viettel. Mặc dù Ban lãnh đạo CLB Viettel cũng như người hâm mộ mong muốn sử dụng lại phiên hiệu Thể Công, tuy nhiên cái tên này vẫn thuộc sở hữu của Bộ Quốc phòng. Ngoài ra, phiên hiệu Thể Công cũng đang được một CLB Bóng chuyền chuyên nghiệp sử dụng.
Đây là một trong hai câu lạc bộ thành công nhất giải VĐQG với 6 chức vô địch và là câu lạc bộ lâu đời thứ hai còn tham gia giải đấu hiện nay (sau CLB Hải Phòng), tính cả thời kỳ mang tên Thể Công và CLB Quân đội. Tính tới nay, Viettel cũng là câu lạc bộ giàu thành tích nhất Việt Nam với tổng cộng 19 chức vô địch Quốc gia (tính cả các giải đấu tiền thân).
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Thời kỳ mang tên Thể Công[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 23 tháng 9 năm 1954, thể theo chỉ định của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị lúc đó là Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Đoàn công tác Thể dục Thể thao Quân đội được thành lập. Thể Công vốn là tên viết tắt của cụm từ "Thể dục thể thao công tác đội".[4] Hạt nhân đầu tiên của đội gồm 23 cán bộ chiến sĩ của Trường Sĩ quan Lục quân I[5] được chia làm ba đội: bóng đá 11 cầu thủ, bóng rổ 5 người và bóng chuyền 6 người. Ngoài ra cả ba đội bóng còn có một cầu thủ dự bị đặc biệt là Lý Đức Kim, vừa biết đá bóng, vừa biết bóng rổ, bóng chuyền, vừa có khả năng làm y tá, vừa hậu cần giỏi. Kim còn kiêm luôn các chức năng hỗ trợ trên.[4] 11 cầu thủ bóng đá Thể Công đầu tiên chơi theo đội hình chiến thuật W - M gồm: Thủ môn Lê Nhâm; Trung vệ Nguyễn Văn Hiếu; Hậu vệ phải Phạm Ngọc Quế; Hậu vệ trái Nguyễn Thiêm; Tiền vệ phải Ngô Xuân Quýnh; Tiền vệ trái Phạm Mạnh Soạn; Tả biên Trương Vinh Thăng; Hữu biên Nguyễn Bá Khánh; Trung phong Nguyễn Văn Bưởi (Đội trưởng); Hộ công phải Nguyễn Thông (kiêm huấn luyện viên); Hộ công trái Vũ Tâm (tức Phạm Vinh).[4]
Hơn một tháng sau, ngày 25 tháng 10, trong trận bóng đá đầu tiên được tổ chức từ ngày giải phóng Thủ đô Hà Nội tại sân vận động Hàng Đẫy, Thể Công đã có trận đấu đầu tiên trong lịch sử của mình gặp đội Trần Hưng Đạo, gồm các cầu thủ xuất thân từ giới lao động Thủ đô. Đội giành chiến thắng với tỉ số 1-0 nhờ bàn thắng duy nhất của trận đấu được ghi ngay từ giây thứ 30 do công của trung phong đội trưởng Nguyễn Văn Bưởi.[4]
Đến năm 1955, giải bóng đá đầu tiên của miền Bắc Việt Nam được tổ chức tại Hải Phòng với tên gọi "Giải Hoà Bình", đội Thể Công tham gia với hai đội hình A và B. Cả hai đội đều giành chức vô địch của hai hạng A và B.[4]
Từ năm 1955 đến năm 1979, Thể Công luôn là đội bóng mạnh với 13 lần vô địch (10 lần vô địch giải hạng A miền Bắc và 3 lần vô địch giải hạng A Quốc gia). Ngoài ra Thể Công còn có rất nhiều trận thắng gây tiếng vang khắp quốc tế như 2 trận thắng đội Bát Nhất (đội bóng mạnh nhất Trung Hoa lúc đó) hay thắng cả đội tuyển Cuba rất mạnh... Thể Công không chỉ là đội bóng mạnh ở miền Bắc Việt Nam mà còn gây tiếng vang lớn trong làng bóng đá các nước Xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ[cần dẫn nguồn]. Trong khoảng thời gian đó, lứa cầu thủ tiêu biểu của Thể Công gồm những Nguyễn Thế Anh (Ba Đẻn), Nguyễn Cao Cường, Quản Trọng Hùng, Vương Tiến Dũng, Nguyễn Trọng Giáp, Vũ Mạnh Hải... với đa số là lứa cầu thủ trẻ được đi tập huấn dài hạn ở Triều Tiên năm 1967 [6] và khi về nước họ là những cầu thủ tiêu biểu, xuất sắc hàng đầu Quốc gia.
Sau khi đất nước thống nhất và chính thức thành lập Giải bóng đá A1 toàn quốc (tiền thân của V.League 1 hiện nay), CLB Quân đội (tên gọi của Thể Công từ khoảng năm 1976 tới hết năm 1998) vẫn là một trong những đội bóng mạnh nhất Việt Nam với 6 lần vô địch.
Năm 1999, Thể Công (khi ấy mới đổi lại tên từ CLB Quân đội, Đương kim vô địch giải hạng Nhất 1998) tham dự trận tranh Siêu Cúp Bóng đá Quốc gia 1999 lần đầu tiên được tổ chức với đội Công an Thành phố Hồ Chí Minh (Đương kim vô địch Cúp Quốc gia 1998) trên sân Hàng Đẫy. Kết quả chung cuộc, Thể Công thắng 3-0 và là đội đầu tiên đăng quang Siêu Cúp Bóng đá Việt Nam.[7]
Các cầu thủ CLB Quân đội luôn là nòng cốt của đội tuyển Quốc gia và đóng góp rất nhiều cầu thủ trong lứa thế hệ vàng của bóng đá Việt Nam như thủ môn Trần Tiến Anh, các cầu thủ Đỗ Mạnh Dũng, Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Hồng Sơn, Trương Việt Hoàng, Nguyễn Đức Thắng, Phạm Như Thuần, Triệu Quang Hà, Đặng Phương Nam, Vũ Công Tuyền...
Thể Công là đội bóng trụ lâu nhất ở giải VĐQG cho tới khi xuống hạng năm 2004 (mùa giải hạng A1 1980 CLB Quân đội không tham dự giải do chấn chỉnh nội bộ).
Ngày 15 tháng 1 năm 2003, Đội bóng đá Thể Công chính thức định hướng lên chuyên nghiệp khi Bộ Quốc phòng cho ra mắt CLB Bóng đá chuyên nghiệp Thể Công với nhà tài trợ chính là Công ty Viễn thông Quân đội (Viettel).[8]
Tròn 50 năm thành lập, năm 2004, Thể Công xếp thứ 11/12 tại V-League 2004 và phải xuống chơi tại giải hạng Nhất. Đội bóng thi đấu yếu kém một phần do chủ trương không tuyển ngoại binh, trái ngược với tất cả các đội bóng khác khi đó. Sang mùa giải 2005, câu lạc bộ đổi tên thành Thể Công Viettel (Viettel là tên giao dịch của Tổng Công ty Viễn thông Quân đội) do chuyển giao quản lý từ Cục Quân huấn và chịu sự quản lý một phần của đơn vị này. Tuy nhiên, nhiều ý kiến đề nghị câu lạc bộ nên trở lại tên gọi cũ.[9]
Ngày 1 tháng 9 năm 2007, Thể Công Viettel chính thức giành quyền lên V-League sau khi thắng Tây Ninh với tỷ số 5-3. Ngay sau đó, đội chính thức trở lại tên gọi cũ - Thể Công.
Tính tới nay, Thể Công là câu lạc bộ giàu truyền thống nhất Việt Nam với 19 lần vô địch Quốc gia (gồm 10 lần vô địch giải hạng A miền Bắc, 3 lần vô địch giải hạng A Quốc gia và 6 lần vô địch Quốc gia) cùng vô số giải thưởng khác. Câu lạc bộ luôn sản sinh ra nhiều tài năng kiệt xuất của bóng đá Việt Nam cũng như khu vực. Thể Công cũng là câu lạc bộ có đội ngũ cổ động viên đông đảo nhất Việt Nam với các cổ động viên từ Bắc vào Nam.
Ngày 22 tháng 9 năm 2009 (trước ngày kỷ niệm 55 năm thành lập Đoàn Thể Công), Bộ Quốc phòng đã quyết định đổi tên Thể Công thành Viettel, ký quyết định thu hồi phiên hiệu Thể Công.
Thời kỳ mang tên Viettel[sửa | sửa mã nguồn]
Tháng 11 năm 2009, sau khi Bộ Quốc phòng quyết định thu hồi phiên hiệu Thể Công (còn Câu lạc bộ Bóng chuyền Thể Công vẫn tồn tại và do Tổng cục Chính trị quản lý), Bộ đã giao đội bóng cho Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) quản lý từ Tổng cục Chính trị. Mặc dù vậy, Tập đoàn Viettel tỏ ra không quá mặn mà với việc tiếp nhận này. Ngày 7 tháng 11 năm 2009, theo thỏa thuận giữa lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa và Tập đoàn Viettel, một phần đội hình chính được chuyển giao cho Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Thanh Hóa quản lý với tên gọi mới: CLB Bóng đá chuyên nghiệp Viettel - Thanh Hóa.[10] Chưa đầy 2 tháng sau, ngày 24 tháng 12 năm 2009, CLB Viettel - Thanh Hóa đổi tên thành CLB Lam Sơn Thanh Hóa, và được giao cho CLB Bóng đá Thanh Hóa quản lý và điều hành. Viettel chính thức chuyển giao hoàn toàn suất chơi ở V-League cho Thanh Hóa, và chỉ còn quản lý đội hình 2 thi đấu ở giải bóng đá hạng Nhất Quốc gia 2010 dưới tên gọi CLB Bóng đá Viettel[10], đội bóng của Trung tâm bóng đá Viettel. Kết thúc mùa giải 2010, đến lượt suất chơi tại giải hạng Nhất cũng được chuyển giao cho Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội T&T và đổi tên thành Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội (tiền thân của Câu lạc bộ Bóng đá Sài Gòn sau này).[11] Trong đó, Thanh Hóa đã chi 80 tỷ để mua lại suất chơi tại giải VĐQG của Viettel.[12]
Việc bán suất chơi của câu lạc bộ thường khiến nhiều người lầm tưởng là câu lạc bộ đã giải thể hoặc sáp nhập vào câu lạc bộ khác. Tuy nhiên, thực tế không phải như vậy khi câu lạc bộ được phân cấp quản lý tương đương với Lữ đoàn trong Quân đội (căn cứ vào Luật Sỹ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam)[13]. Do đó, việc giải thể hoặc chuyển giao khỏi sự quản lý của Bộ Quốc phòng cần phải do lãnh đạo Bộ Quốc phòng quyết định bằng văn bản trên cơ sở ý kiến của Tổng cục Chính trị và Bộ Tổng Tham mưu. Đồng thời, theo quy định về Tổ chức cơ quan chính trị trong Quân đội Nhân dân, việc chuyển giao một đơn vị Quân đội ra khỏi tổ chức quân đội phải có sự đồng ý bằng văn bản của Tổng cục Chính trị.[14] Việc bán suất chơi không đồng nghĩa với giải thể câu lạc bộ hoặc sáp nhập vào câu lạc bộ khác. Phía câu lạc bộ cũng khẳng định là không tồn tại quyết định về mặt pháp lý đối với việc xóa phiên hiệu Thể Công. Cụ thể, ông Hà Hữu Tám, cựu Phó Giám đốc điều hành CLB Thể Công (hiện tại là Chính ủy Trung tâm Thể thao Viettel) cho rằng không nên trầm trọng hóa vấn đề: "Không có quyết định nào 'xóa' tên Thể Công cả. Phải hiểu cho đúng ý nghĩa đổi tên gọi của CLB và tất nhiên là Thể Công đã nhận được quyết định này".[3]
Ngày 23 tháng 9 năm 2011, nhân kỷ niệm lần thứ 57 ngày thành lập câu lạc bộ, hàng trăm cán bộ, cầu thủ, cổ động viên mọi thế hệ từng là người của Thể Công đã quyết định khởi động "chiến dịch" thu thập 1 triệu chữ ký ủng hộ trên cả nước để kiến nghị Bộ Quốc phòng về việc lấy lại phiên hiệu Thể Công.[15]
Đứng trước nguy cơ bị giải thể, quyền Giám đốc Trung tâm bóng đá Viettel lúc bấy giờ là ông Nguyễn Thanh Hải đã đề nghị các lãnh đạo Tập đoàn Viettel cho phép duy trì Trung tâm bóng đá Viettel và cam kết sẽ đem lại kết quả trong vòng 1 năm. Mùa bóng 2010, các đội bóng của Viettel đều lọt vào vòng chung kết các giải trẻ. Năm 2011, Trung tâm bóng đá Viettel giành được 1 Huy chương vàng, 1 Huy chương bạc và 1 Huy chương đồng ở các giải trẻ, từ đó chính thức giành được quyền tồn tại. Mùa bóng 2012, đội 1 của Trung tâm bóng đá Viettel giành được chức đồng vô địch tại Giải bóng đá hạng Ba Quốc gia Việt Nam và giành được suất thi đấu ở giải hạng Nhì kể từ mùa bóng 2013.[16]
Ngày 26 tháng 10 năm 2014, Tổng Giám đốc Tập đoàn Viễn thông Quân đội đã ký quyết định số 2294/QĐ-VTQĐ-TCNL kiện toàn chức năng nhiệm vụ và đổi tên Trung tâm bóng đá Viettel thành Trung tâm Thể thao Viettel (Viettel Sports).[17]
Tại giải hạng Nhì 2015, CLB Viettel giành danh hiệu đồng vô địch và cùng Xi măng Fico Tây Ninh thăng hạng thi đấu ở V.League 2 mùa bóng 2016.[18]
Đội bóng trẻ Viettel tiếp tục giành vị trí thứ nhì ở V.League 2 - 2016 và giành quyền chơi trận play-off để thăng hạng, tuy nhiên đội đã thua Long An với tỷ số 0-1 ở những phút bù giờ và chấm dứt giấc mơ thăng hạng. 2 năm sau đó, Viettel đã xuất sắc vô địch giải hạng Nhất Quốc gia 2018 và giành suất thăng hạng lên V.League 1 - 2019.
Viettel chỉ mất hai mùa giải ở V.League 1 để đăng quang tại giải đấu cao nhất bóng đá Việt Nam vào năm 2020. Tính cả thành tích thời còn mang tên gọi CLB Quân đội và Thể Công, đây là danh hiệu vô địch thứ 19 của đội bóng áo lính.[19] Ngoài ra, ở mùa giải 2020, Viettel cũng giành ngôi Á quân tại Cúp Quốc gia 2020 sau khi để thua đội bóng cùng thành phố là Hà Nội tại trận chung kết.
Chức vô địch V.League 1 - 2020 giúp Viettel giành quyền tham dự AFC Champions League 2021, giải đấu mà họ thua 4 trận gặp Ulsan Hyundai Motors (Hàn Quốc) và BG Pathum United (Thái Lan), thắng 2 trận gặp Kaya–Iloilo (Philippines) để giúp điểm xếp hạng CLB Việt Nam hơn Philippines và có thêm hai suất dự vòng loại AFC Champions League mùa sau.[20] Ngày 19 tháng 8 năm 2021, U-21 Viettel dự 3 trận giao hữu trước thềm Vòng chung kết U-21 Quốc gia 2021 với 2 trận gặp U-21 Công an Nhân dân và U-21 PVF - Hưng Yên (Phố Hiến), sau đó là 1 trận quốc tế với U-21 Aston Villa của Anh.
Danh hiệu và thành tích[sửa | sửa mã nguồn]
Danh hiệu Quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]
- Giải bóng đá Quân đội các nước ASEAN[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch: 2004.
Á quân: 1999.
- Giải bóng đá Quân đội các nước Xã hội chủ nghĩa (SKDA)[sửa | sửa mã nguồn]
Hạng ba: 1989.
Danh hiệu Giải Vô địch bóng đá cấp Quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]
19 lần vô địch (kỷ lục): 1955 (Giải Hòa Bình), 1956, 1958, 1969, 1971, 1972, 1973, 1974, 1975, 1976, 1977, 1978, 1979, 1981-82, 1982-83, 1987, 1990, 1998, 2020. Cụ thể:
- Giải bóng đá hạng A miền Bắc Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
10 lần vô địch: 1955 (Giải Hòa Bình), 1956, 1958, 1969, 1971, 1972, 1973, 1974, 1975, 1976.
Á quân: 1957.
- Giải bóng đá hạng A Quốc gia Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
3 lần vô địch: 1977, 1978, 1979 (cả 3 lần đều vô địch cấp toàn quốc).
- Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam (V.League 1)[sửa | sửa mã nguồn]
6 lần vô địch: 1981-82, 1982-83, 1987, 1990, 1998, 2020.
3 lần Á quân: 1984, 1986, 1989.
4 lần hạng ba: 1985, 1992, 1993-94, 2000-01.
Các Danh hiệu khác[sửa | sửa mã nguồn]
- Giải bóng đá Cúp Quốc gia Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
4 lần Á quân: 1992, 2004, 2009 và 2020.
- Giải bóng đá Siêu Cúp Quốc gia Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch: 1999.
Á quân: 2020.
- Giải bóng đá dunhill Cup[sửa | sửa mã nguồn]
Hạng ba: 1998.
Đại hội Thể dục Thể thao toàn quốc - Bộ môn Bóng đá Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch: 2001.
Danh hiệu ở các hạng đấu thấp hơn[sửa | sửa mã nguồn]
- Giải bóng đá hạng Nhất Quốc gia Việt Nam (V.League 2)[sửa | sửa mã nguồn]
- Giải bóng đá hạng Nhì Quốc gia Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch: 2015.
Á quân: 2009 (đội trẻ).
- Giải bóng đá hạng Ba Quốc gia Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
3 lần vô địch: 2008 (đội trẻ), 2012, 2015 (đội trẻ).
Danh hiệu Giải trẻ[sửa | sửa mã nguồn]
- Giải bóng đá Nhi đồng (U-11) toàn quốc Việt Nam
Á quân: 2010.
- Giải bóng đá Thiếu niên (U-13) toàn quốc Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
3 lần vô địch: 2011, 2015, 2016.
3 lần Á quân: 2012, 2013, 2017.
Hạng ba: 2014.
- Giải bóng đá U-15 Quốc gia Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch: 2015.
4 lần Á quân: 2002, 2013, 2017, 2018.
2 lần hạng ba: 2014, 2019.
- Giải bóng đá U-17 Quốc gia Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
2 lần vô địch: 2018, 2023.
2 lần Á quân: 2015, 2017.
5 lần hạng ba: 2005, 2011, 2014, 2016, 2019.
- Giải bóng đá U-19 Quốc gia Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
3 lần vô địch: 1998, 2002, 2009.
3 lần Á quân: 1997, 2016, 2022.
3 lần hạng ba: 2014, 2017, 2018.
- Giải bóng đá U-21 Quốc gia Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
4 lần vô địch: 1997, 1998, 1999, 2020.
Á quân: 2017.
3 lần hạng ba: 2005, 2018, 2022.
Các danh hiệu được Nhà nước trao tặng[sửa | sửa mã nguồn]
- Huân chương Quân công hạng Ba
- Huân chương Chiến công hạng Nhất
- Huân chương Chiến công hạng Nhì
- Huân chương Chiến công hạng Ba
Trang phục thi đấu (1997-nay)[sửa | sửa mã nguồn]
Mùa giải | Hãng trang phục | Nhà tài trợ in lên áo 1 | Nhà tài trợ in lên áo 2 |
---|---|---|---|
1997 | ![]() |
Không có | Không có |
1998 | Plusssz | ||
1999-00 | Không có | ||
2000-01 | ![]() (toàn giải quốc nội) |
Highlands Coffee (toàn giải V-League)
Pepsi (toàn giải Cúp Quốc gia) Tiger Beer (toàn giải quốc nội) |
SyncMaster (toàn giải quốc nội) |
2001-02 | Strata (toàn giải V-League)
Samsung (toàn giải Cúp Quốc gia) Tiger Beer (toàn giải quốc nội) | ||
2003 | ![]() |
Viễn thông Quân đội Viettel | Viettel |
2004 | Viettel | ||
2005 | Không có | ||
2006 | |||
2007 | Không có | ||
2008 | ![]() |
Không có | |
2009 | |||
2010-2014 | Không có | ||
2015 | ![]() (đội trẻ) |
Say it your way | Viettel |
Không có | |||
2016 | ![]() |
BankPlus | |
2017 | Không có | 4G | |
2018 | Viettel Pay | Không có | |
2019 | ![]() |
4G (sân nhà) | Viettel |
Viettel Pay (sân khách) | |||
2020–2021 | ![]() |
Viettel | Không có |
2022 | ![]() |
Viettel Money | Bamboo Airways (chỉ giải quốc nội) |
2023 | Viettel TV360 | Không có |
Chú thích: (K): Không rõ thông tin về tài trợ/Đội bóng tự mua trang phục để sử dụng; (T): Được tài trợ; (T-1): Ở giai đoạn 2000-2002, toàn bộ hệ thống giải quốc nội (bao gồm Giải VĐQG Chuyên Nghiệp V-League và Cúp Quốc gia) đều được thương hiệu adidas tài trợ trang phục.
Áo đấu sân nhà | |||
---|---|---|---|
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() 2015
|
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() 2016-2018
|
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() 2020
|
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() 2022
|
Áo đấu sân khách | |||
---|---|---|---|
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() 2015
|
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() 2016-2018
|
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() 2020
|
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() 2022
|
Đội hình[sửa | sửa mã nguồn]
- Tính đến ngày 17 tháng 1 năm 2023[21]
Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.
|
|
Ban lãnh đạo và huấn luyện đội bóng[sửa | sửa mã nguồn]
Chức vụ | Tên |
---|---|
Chính ủy | ![]() |
Giám đốc điều hành | ![]() |
Giám đốc kỹ thuật | ![]() |
Phó Giám đốc điều hành | ![]() |
Cán bộ truyền thông | ![]() |
Bác sĩ | ![]() |
Chuyên gia vật lý trị liệu | ![]() |
Chuyên gia thể lực | ![]() |
Phiên dịch | ![]() |
Huấn luyện viên thủ môn | ![]() |
Trợ lý huấn luyện viên | ![]() |
Huấn luyện viên trưởng | ![]() |
Tên gọi[sửa | sửa mã nguồn]
- Đội bóng đá Thể Công: 1954-1976, 1999-2002.
- Đội bóng đá CLB (Thể dục Thể thao) Quân đội: 1976-1998.
- Câu lạc bộ Bóng đá Thể Công: 2003-2004, 2008-2009.
- Câu lạc bộ Bóng đá Thể Công Viettel: 2005-2007.
- Câu lạc bộ Bóng đá Viettel: 2009-nay.
Sân vận động[sửa | sửa mã nguồn]
Hơn 40 năm lịch sử của Thể Công gắn liền với sân vận động Cột Cờ, một sân vận động nhỏ nằm giữa Thủ đô Hà Nội, trong khuôn viên sân Đoan Môn của Di tích Hoàng thành Thăng Long, cách không xa Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và tòa nhà Quốc hội. Câu chuyện bắt đầu từ sự kiện Quân đội Nhân dân Việt Nam giải phóng và tiếp quản Thủ đô Hà Nội ngày 10/10/1954, Đoàn Thể Công cũng đồng thời tiếp quản sân Mangin và đổi tên chính thức thành Cột Cờ. Từ sau mùa giải năm 1998, Thể Công lần lượt sử dụng sân vận động Hàng Đẫy rồi sân vận động Quốc gia Mỹ Đình làm sân nhà. Tại giải Hạng Nhì Quốc gia 2015, Viettel sử dụng sân vận động Quân khu 5 (Đà Nẵng) làm sân nhà. Năm 2022, Viettel với quyền tham dự AFC Cup đã sử dụng sân vận động Thống Nhất làm sân nhà để thi đấu.
- 1954-1965, 1970-1998: Sân vận động Cột Cờ.
- 1999-2005, 2009-nay: Sân vận động Hàng Đẫy.
- 2006-2008: Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình.
- 2015: Sân vận động Quân khu 5.
Các huấn luyện viên qua từng thời kỳ (1997-nay)[sửa | sửa mã nguồn]
Phan Văn Mỵ (? - 1997)
Vương Tiến Dũng (1998-2001)
Quản Trọng Hùng (Khoảng 2001-2003)
Branko Radović (4/1/2003 - 7/11/2003)
Phan Văn Mỵ (7/11/2003 - 29/1/2004)
Nguyễn Thanh Hải (29/1/2004 - ?)
Nguyễn Cao Cường (Khoảng 1/2005 (?) - 16/3/2005)
Nguyễn Mạnh Cường (16/3/2005 - 1/2006)
Nguyễn Cao Cường (1/2006 - 10/2006)
Tomas Viczko (10/2006 - 2007)
György Gálhidi (31/7/2007 - 1/9/2008)
Vương Tiến Dũng (16/9/2008 - 2009)
Lê Thụy Hải (1/2009 - 29/8/2009)
Nguyễn Mạnh Cường (30/8/2009 - ?)
Đỗ Mạnh Dũng (2010)
Đặng Phương Nam (2012 - 2014)
Đinh Thế Nam (2015 - 2016)
Nguyễn Hải Biên (2017 - 1/2019)
Lee Heung-sil (1/2019 - 6/2019)
Nguyễn Hải Biên (6/2019 - 11/2019)
Trương Việt Hoàng (11/2019 - 12/6/2022)
Hans-Jürgen Gede (6/2021) (Chỉ AFC Champions League)
Bae Ji-won (6/2022 - 11/2022)
Thạch Bảo Khanh (12/2022-)
Một số gương mặt nổi bật[sửa | sửa mã nguồn]
Logo[sửa | sửa mã nguồn]
-
Khoảng 1999-2003
-
2004, 2006-2020
-
2005
-
V.League 1 - 2021
-
05/03/2021-nay
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ “Ước muốn của đội bóng áo lính”. Quân đội Nhân dân. Truy cập 26 tháng 5 năm 2023.
- ^ “CLB Viettel: Chờ 'hậu duệ Thể Công' tìm lại hào quang V-League”. Báo điện tử VTC News. 22 tháng 2 năm 2019. Truy cập 26 tháng 5 năm 2023.
- ^ a b https://www.vff.org.vn/clb-bong-da-the-cong-doi-ten-thanh-viettel/
- ^ a b c d e “Lịch sử hình thành CLB Bóng đá Thể Công”. www.thecong.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009.
- ^ “Thể Công - Hào hùng và truyền thống”. www.thecong.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2009.
- ^ toquoc.vn. “Cựu danh thủ CLB Thể Công Vũ Mạnh Hải: 'Chúng tôi đã được người dân Triều Tiên đón tiếp như những người anh em'”. toquoc.vn. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2023.
- ^ Thể Công - Công An TP. HCM | Siêu Cúp Quốc gia 1999 | BLV Quang Huy, truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2023
- ^ VnExpress. “Thể Công ra mắt CLB bóng đá chuyên nghiệp”. vnexpress.net. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2023.
- ^ Thể Công Viettel sẽ trở lại là Thể Công Lưu trữ 2007-12-17 tại Wayback Machine trên Việt Nam Net ngày 5 tháng 7 năm 2007
- ^ a b “Thanh Hóa mua "xác" Thể Công”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2019.
- ^ “Hà Nội T&T thâu tóm suất hạng Nhất của Viettel”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2019.
- ^ “Những vụ mua suất trụ hạng ngoạn mục nhất V-League”. Tin Thể Thao. Truy cập 26 tháng 5 năm 2023.
- ^ “Văn bản hợp nhất 24/VBHN”. Truy cập 26 tháng 5 năm 2023.
- ^ “Quy định 61”. Truy cập 26 tháng 5 năm 2023.
- ^ “Chiến dịch một triệu chữ ký thành lập lại đội bóng Thể Công”. VNE. ngày 25 tháng 9 năm 2011.
- ^ “"Hậu duệ" của Thể Công thăng hạng Nhì”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2019.
- ^ “Giới thiệu Trung tâm thể thao Viettel”. Trang chủ TTTT Viettel. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 11 năm 2017. Truy cập 3 tháng 7 năm 2015.
- ^ Cát Tường. “Viettel và F.Tây Ninh giành vé trở lại hạng Nhất”. Báo bóng đá online. Truy cập 1 tháng 7 năm 2015.
- ^ “Viettel lần đầu vô địch V-League”.
- ^ https://vnexpress.net/viettel-giup-viet-nam-co-them-suat-du-vong-loai-afc-champions-league-4307880.html
- ^ “Thông tin đội bóng Viettel”. www.vpf.vn. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2022.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- Trang chủ Trung tâm thể thao Viettel
- Facebook câu lạc bộ
- Ngày hội "Viettel chắp cánh ước mơ đá bóng" Lưu trữ 2013-03-20 tại Wayback Machine
- Giấc mơ chấn hưng Thể Công Lưu trữ 2016-03-04 tại Wayback Machine
- "Chúng tôi sẽ làm tất cả để tái sinh Thể Công" Lưu trữ 2016-03-04 tại Wayback Machine
- Trung tâm đào tạo trẻ Viettel & sứ mệnh lịch sử: Kỳ 1: Sứ mệnh lịch sử Lưu trữ 2016-03-04 tại Wayback Machine, Kỳ 2: Thành trì bóng đá trẻ Lưu trữ 2016-03-04 tại Wayback Machine