Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Michael Jackson”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 84: Dòng 84:
[[File:Michael Jackson 1984.jpg|thumb|left|180px|Jackson tại [[Nhà Trắng]] trong sự kiện trao giải vào năm 1984. Tại đây, ông đã gặp mặt Tổng thống [[Ronald Reagan]] và Đệ nhất phu nhân [[Nancy Reagan]]]]
[[File:Michael Jackson 1984.jpg|thumb|left|180px|Jackson tại [[Nhà Trắng]] trong sự kiện trao giải vào năm 1984. Tại đây, ông đã gặp mặt Tổng thống [[Ronald Reagan]] và Đệ nhất phu nhân [[Nancy Reagan]]]]


Công việc thiện nguyện của Jackson được công nhận vào ngày 14 tháng 5 năm 1984, khi ông xuất hiện tại [[Nhà Trắng]] để nhận giải thưởng từ Tổng thống [[Ronald Reagan]] cho những đóng góp từ thiện, giúp đỡ người nghiện rượu và lạm dụng ma túy<ref>{{harvnb|Taraborrelli|2009|p=304–7}}</ref> cũng như chiến dịch tuyên truyền "Không lái xe trong lúc say rượu" của cục [[Quản lý an toàn giao thông]]. Jackson cũng ủy quyền sử dụng bài hát "Beat It" cho chiến dịch này.<ref>{{cite web|title= Drunk Driving Prevention (1983 – Present) |url= http://www.aef.com/exhibits/social_responsibility/ad_council/2399/:pf_printable |publisher= Advertising Education Foundation |date= 2003 |accessdate= May 31, 2015}}</ref> Khác với những album sau này, ''Thriller'' không có chuyến lưu diễn chính thức để quảng bá, nhưng [[Victory Tour (chuyến lưu diễn của The Jacksons)|Victory Tour]] vào năm 1984 phô diễn nhiều bài hát đơn ca của Jackson đến hơn 2 triệu người Mỹ. Đây cũng là chuyến lưu diễn cuối cùng mà ông thực hiện với những anh em của mình.<ref>{{harvnb|Taraborrelli|2009|p=320}}</ref> Sau khi gặp nhiều tranh cãi về giá vé, Jackson tổ chức một buổi họp báo và thông báo quyên góp phần lợi nhuận từ Victory Tour cho từ thiện, khoảng từ 3-5 triệu đô-la Mỹ.<ref>{{harvnb|Taraborrelli|2009|p=314}}</ref><ref>{{harvnb|Taraborrelli|2009|p=315–320}}</ref> Jackson đồng sáng tác cùng [[Lionel Richie]] trong đĩa đơn từ thiện "[[We Are the World]]" (1985).<ref name="WATW">{{cite web|title= Past Winners Search: "We Are The World" |publisher= The Recording Academy |url= http://www.grammy.com/nominees/search?artist=&field_nominee_work_value=%22We+Are+The+World%22&year=All&genre=All |accessdate= January 29, 2014}}</ref> Bài hát được thu âm vào ngày 28 tháng 1 năm 1985<ref name="AMAs 1986">{{cite news|title= Bruce shows who's Boss |newspaper= [[Montreal Gazette]] |agency= Associated Press |url= https://news.google.co.uk/newspapers?id=MRgiAAAAIBAJ&sjid=7aUFAAAAIBAJ&pg=1658,3425033 |date= January 28, 1986 |accessdate= June 16, 2010}}</ref> và phát hành trên toàn cầu vào tháng 3 năm 1985 nhằm giúp đỡ người nghèo tại Hoa Kỳ và châu Phi.<ref name="jdoyle">{{cite web|first= Jack |last= Doyle |date= July 7, 2009 |url= http://www.pophistorydig.com/topics/michael-mccartney-1980s-2009/ |title= "Michael & McCartney": 1980s–2009 |work= The Pop History Dig |accessdate= May 31, 2015}}</ref> Bài hát thu về 63 triệu đô-la Mỹ để cứu trợ nạn đói<ref name="jdoyle"/> và trở thành một trong những [[Danh sách đĩa đơn bán chạy nhất thế giới|đĩa đơn bán chạy nhất thế giới]], với 20 triệu bản tiêu thụ.<ref>{{cite news|first= Anthony |last= Breznican |url= http://www.usatoday.com/life/people/2009-06-26-jackson-faces_N.htm |title= The many faces of Michael Jackson |date= June 30, 2009 |newspaper= [[USA Today]] |accessdate= June 11, 2015}}</ref> "We Are the World" giành 4 [[giải Grammy]] vào năm 1985, bao gồm giải "[[Giải Grammy cho Bài hát của năm|Bài hát của năm]]".<ref name="WATW"/> Dù đạo diễn [[giải thưởng Âm nhạc Mỹ]] gỡ bài hát khỏi lễ trao giải vì cảm thấy không phù hợp, chương trình diễn ra vào năm 1986 sử dụng bài hát này để tôn vinh trong dịp kỷ niệm 1 năm. Nhà sáng lập của dự án giành thêm 2 giải AMA: một cho sáng tạo nên bài hát và cho ý tưởng [[USA for Africa]]. Jackson, Quincy Jones và nhà quảng bá Ken Kragan nhận giải thưởng đặc biệt cho vai trò sáng tác nên bài hát.<ref name="WATW"/><ref name="AMAs 1986"/><ref>{{harvnb|Campbell|1993|p=114}}</ref><ref>{{harvnb|Young|2009|p=340–4}}</ref>
Công việc thiện nguyện của Jackson được công nhận vào ngày 14 tháng 5 năm 1984, khi ông xuất hiện tại [[Nhà Trắng]] để nhận giải thưởng từ Tổng thống [[Ronald Reagan]] cho những đóng góp từ thiện, giúp đỡ người nghiện rượu và lạm dụng ma túy<ref>{{harvnb|Taraborrelli|2009|p=304–7}}</ref> cũng như chiến dịch tuyên truyền "Không lái xe trong lúc say rượu" của cục [[Quản lý an toàn giao thông]]. Jackson cũng ủy quyền sử dụng bài hát "Beat It" cho chiến dịch này.<ref>{{cite web|title= Drunk Driving Prevention (1983 – Present) |url= http://www.aef.com/exhibits/social_responsibility/ad_council/2399/:pf_printable |publisher= Advertising Education Foundation |date= 2003 |accessdate= May 31, 2015}}</ref> Khác với những album sau này, ''Thriller'' không có chuyến lưu diễn chính thức để quảng bá, nhưng [[Victory Tour (chuyến lưu diễn của The Jacksons)|Victory Tour]] vào năm 1984 lại phô diễn nhiều bài hát đơn ca của Jackson đến hơn 2 triệu người Mỹ. Đây cũng là chuyến lưu diễn cuối cùng mà ông thực hiện với những anh em của mình.<ref>{{harvnb|Taraborrelli|2009|p=320}}</ref> Sau khi gặp nhiều tranh cãi về giá vé, Jackson tổ chức một buổi họp báo và thông báo quyên góp phần lợi nhuận từ Victory Tour cho từ thiện, khoảng từ 3-5 triệu đô-la Mỹ.<ref>{{harvnb|Taraborrelli|2009|p=314}}</ref><ref>{{harvnb|Taraborrelli|2009|p=315–320}}</ref>


Jackson đồng sáng tác cùng [[Lionel Richie]] trong đĩa đơn từ thiện "[[We Are the World]]" (1985).<ref name="WATW">{{cite web|title= Past Winners Search: "We Are The World" |publisher= The Recording Academy |url= http://www.grammy.com/nominees/search?artist=&field_nominee_work_value=%22We+Are+The+World%22&year=All&genre=All |accessdate= January 29, 2014}}</ref> Bài hát được thu âm vào ngày 28 tháng 1 năm 1985<ref name="AMAs 1986">{{cite news|title= Bruce shows who's Boss |newspaper= [[Montreal Gazette]] |agency= Associated Press |url= https://news.google.co.uk/newspapers?id=MRgiAAAAIBAJ&sjid=7aUFAAAAIBAJ&pg=1658,3425033 |date= January 28, 1986 |accessdate= June 16, 2010}}</ref> và phát hành trên toàn cầu vào tháng 3 năm 1985 nhằm giúp đỡ người nghèo tại Hoa Kỳ và châu Phi.<ref name="jdoyle">{{cite web|first= Jack |last= Doyle |date= July 7, 2009 |url= http://www.pophistorydig.com/topics/michael-mccartney-1980s-2009/ |title= "Michael & McCartney": 1980s–2009 |work= The Pop History Dig |accessdate= May 31, 2015}}</ref> Bài hát thu về 63 triệu đô-la Mỹ để cứu trợ nạn đói<ref name="jdoyle"/> và trở thành một trong những [[Danh sách đĩa đơn bán chạy nhất thế giới|đĩa đơn bán chạy nhất thế giới]], với 20 triệu bản tiêu thụ.<ref>{{cite news|first= Anthony |last= Breznican |url= http://www.usatoday.com/life/people/2009-06-26-jackson-faces_N.htm |title= The many faces of Michael Jackson |date= June 30, 2009 |newspaper= [[USA Today]] |accessdate= June 11, 2015}}</ref> "We Are the World" giành 4 [[giải Grammy]] vào năm 1985, bao gồm giải "[[Giải Grammy cho Bài hát của năm|Bài hát của năm]]".<ref name="WATW"/> Dù đạo diễn [[giải thưởng Âm nhạc Mỹ]] gỡ bài hát khỏi lễ trao giải vì cảm thấy không phù hợp, chương trình diễn ra vào năm 1986 sử dụng bài hát này để tôn vinh trong dịp kỷ niệm 1 năm. Nhà sáng lập của dự án giành thêm 2 giải AMA: một cho sáng tạo nên bài hát và cho ý tưởng [[USA for Africa]]. Jackson, Quincy Jones và nhà quảng bá Ken Kragan nhận giải thưởng đặc biệt cho vai trò sáng tác nên bài hát.<ref name="WATW"/><ref name="AMAs 1986"/><ref>{{harvnb|Campbell|1993|p=114}}</ref><ref>{{harvnb|Young|2009|p=340–4}}</ref>
Tranh cãi bắt đầu nổ ra khi Michael bỏ tiền mua cổ phần trong ''ATV Music Publishing'' (công ty sở hữu bản quyền phát hành phần lớn các bài hát của ban nhạc huyền thoại [[The Beatles]]) với giá 47,5 triệu bảng vào năm 1985, anh trở thành cổ đông lớn nhất. Tuy nhiên hành động này đã không làm vừa lòng người bạn thân [[Paul McCartney]], người cũng có cổ phần trong công ty, trong khi chính ông trước đây đã từng cho Jackson biết về giá trị béo bở trong việc sở hữu các bài hát của The Beatles<ref>{{chú thích web|url=http://www.snopes.com/music/artists/jackson.htm |title=Michael Jackson owns the rights to the Beatles' songs |accessdate=ngày 11 tháng 11 năm 2006 |format= |work=[[Urban Legends Reference Pages]] }}</ref>. Sự hợp tác sáng tác và hát nhạc giữa hai người chấm dứt từ đó.

Jackson bắt đầu quan tâm đến ngành xuất bản âm nhạc sau khi [[The Girl Is Mine|hợp tác]] với [[Paul McCartney]] vào đầu thập niên 1980. Ông biết được McCartney thu về xấp xỉ 40 triệu đô-la Mỹ mỗi năm từ bài hát của người khác.<ref name="jdoyle"/> Đến năm 1983, Jackson đầu tư vào quyền xuất bản những bài hát của tác giả khác, nhưng chỉ nhận mua lại một ít trong số hàng chục lời mời. Các danh mục âm nhạc mà ông đảm nhận bao gồm [[Sly Stone]] với "Everyday People" (1968), [[Len Barry]] với "[[1-2-3 (bài hát của Len Barry)|1-2-3]]" (1965) và [[Dion DiMucci]] cùng "[[The Wanderer (bài hát của Dion)|The Wanderer]]" (1961) và "[[Runaround Sue]]" (1961); dù vậy, lần bỏ tiền đáng kể nhất của Jackson diễn ra vào năm 1985, khi ông mua lại cổ phần trong ''[[Sony/ATV Music Publishing|ATV Music Publishing]]'' sau nhiều tháng thương lượng.<ref name="jdoyle"/> ATV sở hữu bản quyền phát hành gần 4000 bài hát, bao gồm phần lớn các sáng tác của [[Lennon-McCartney]] do [[the Beatles]] thu âm, thuộc danh mục của [[Northern Songs]].<ref name="hilburn">{{cite news|first= Robert |last= Hilburn |date= September 22, 1985 |url= http://www.latimes.com/la-et-hilburn-michael-jackson-sep22-story.html |title= The long and winding road |newspaper= [[Los Angeles Times]] |accessdate= May 31, 2015}}</ref>

Vào năm 1984, nhà đầu người Úc [[Robert Holmes à Court]], cũng người sở hữu ATV Music Publishing, thông báo rao bán danh mục của hãng này.<ref name="hilburn"/> Vào năm 1981, McCartney chào mua danh mục với 20 triệu [[bảng Anh]] (40 triệu đô-la Mỹ).<ref name="jdoyle"/><ref name="T3338">{{harvnb|Taraborrelli|2009|p=333–8}}</ref><ref name="mcca atv">{{cite web|url= http://mjjinfo.blogspot.fr/2010/11/paul-mccartney-refused-to-buy-atv.html |title= Paul McCartney refused an offer to buy the ATV Catalog for £20 million ($40 million USD) |publisher= Mjjinfo.blogspot.fr |date= November 13, 2010 |accessdate= May 31, 2015}}</ref> Tuy nhiên hành động này đã không làm vừa lòng người bạn thân [[Paul McCartney]], người cũng có cổ phần trong công ty, trong khi chính ông trước đây đã từng cho Jackson biết về giá trị béo bở trong việc sở hữu các bài hát của The Beatles<ref>{{chú thích web|url=http://www.snopes.com/music/artists/jackson.htm |title=Michael Jackson owns the rights to the Beatles' songs |accessdate=ngày 11 tháng 11 năm 2006 |format= |work=[[Urban Legends Reference Pages]] }}</ref>. Sự hợp tác sáng tác và hát nhạc giữa hai người chấm dứt từ đó.


=== 1986–90: ''Bad'', ''Moonwalk'' và Neverland ===
=== 1986–90: ''Bad'', ''Moonwalk'' và Neverland ===

Phiên bản lúc 12:40, ngày 14 tháng 2 năm 2016

Michael Jackson
Jackson trình diễn tại Vienna, Áo
vào tháng 6 năm 1988
SinhMichael Joseph Jackson
(1958-08-29)29 tháng 8, 1958
Gary, Indiana, Hoa Kỳ
Mất25 tháng 6, 2009(2009-06-25) (50 tuổi)
Los Angeles, California, Hoa Kỳ
Nguyên nhân mấtNgừng tim
Nơi an nghỉForest Lawn Memorial Park, Glendale, California, Hoa Kỳ
Nghề nghiệp
Phối ngẫu
Lisa Marie Presley
(cưới 1994⁠–⁠1996)

Deborah Jeanne Rowe
(cưới 1996⁠–⁠1999)
Con cái3
Cha mẹJoseph Walter Jackson
Katherine Esther Scruse
Sự nghiệp âm nhạc
Thể loại
Nhạc cụHát
Năm hoạt động1964–2009
Hãng đĩa
Hợp tác vớiThe Jackson 5
Chữ ký
Chữ ký của Michael Jackson

Michael Joseph Jackson[1][2] (29 tháng 8 năm 195825 tháng 6 năm 2009) là một ca sĩ, nhạc sĩ, nhà sản xuất thu âm, vũ công và diễn viên người Mỹ. Ông được mệnh danh là "Vua nhạc pop" hay "Ông hoàng nhạc pop" (tiếng Anh: "King of pop").[3][4][5] Với những đóng góp không ngừng nghỉ của ông đối với ngành công nghiệp âm nhạc, khiêu vũ, thời trang cùng những biến động xung quanh cuộc sống cá nhân của mình, Jackson đã trở thành một trong những cái tên phổ biến nhất nền văn hóa nghệ thuật toàn cầu trong hơn bốn thập kỷ qua.

Là người con thứ 8 trong gia đình nhà Jackson, ông bắt đầu sự nghiệp âm nhạc chuyên nghiệp từ năm lên 11 với vị trí thành viên út trong nhóm nhạc The Jackson 5 và khởi nghiệp đơn ca năm 1971. Trong những năm đầu của thập niên 80, Jackson được xem như nghệ sĩ giải trí thành công nhất. Các video ca nhạc của ông như "Beat It", "Billie Jean" và "Thriller" đã phá vỡ rào cản chủng tộc và nâng tầm giá trị của video ca nhạc như một hình thức nghệ thuật và công cụ quảng cáo. Sự phổ biến của những video này sau đó đã giúp kênh truyền hình âm nhạc non trẻ lúc bấy giờ là MTV trở nên nổi tiếng. Những video sau này như "Black or White" hay "Scream" tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên MTV trong thập niên 1990, cũng như xây dựng danh tiếng như một nghệ sĩ lưu diễn đơn ca. Với những màn biểu diễn trên sân khấu hay trong video ca nhạc, Jackson giúp phổ biến nhiều màn vũ đạo phức tạp như robot hay moonwalk. Thêm vào đó, giọng ca và phong cách hát đặc biệt của ông cũng ảnh hưởng lớn tới nhiều thế hệ nghệ sĩ nhạc hip-hop, popR&B đương đại sau này.

Thriller phát hành năm 1982 là album bán chạy nhất mọi thời đại. Những album khác của Jackson, như: Off the Wall (1979), Thriller (1982), Bad (1987), Dangerous (1991) và HIStory (1995) cũng nằm trong số những đĩa nhạc bán chạy nhất thế giới. Là một trong số ít nghệ sĩ hai lần được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll, Jackson còn đạt nhiều thành tựu nổi bật khác như hàng loạt các kỷ lục Guinness, 13 giải Grammy, 13 đĩa đơn quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Mỹ–nhiều hơn bất cứ nam ca sĩ đơn ca nào trong kỷ nguyên Hot 100 và trên 400 triệu album được tiêu thụ trên toàn thế giới.[Ghi chú 1] Jackson đã giành hàng trăm giải thưởng, khiến ông trở thành nghệ sĩ thu âm được trao thưởng nhiều nhất trong lịch sử âm nhạc đại chúng.[6] Jackson là nghệ sĩ đầu tiên có một loạt các ca khúc nằm trong top 10 Billboard Hot 100 trong 5 thập kỷ khác nhau khi "Love Never Felt So Good" đạt vị trí thứ 9 vào ngày 21 tháng 5 năm 2014.[7] Jackson thường xuyên tham gia các sự kiện tôn vinh chủ nghĩa nhân đạo của mình; vào năm 2000, sách kỷ lục Guinness công nhận ông đã ủng hộ hơn 39 tổ chức từ thiện, nhiều hơn bất cứ nghệ sĩ giải trí nào.[8]

Tuy nhiên, những vấn đề xung quanh đời tư, trong đó có sự thay đổi ngoại hình và lối cư xử, đã trở thành tâm điểm của dư luận và làm tổn hại tới hình ảnh của Jackson. Giữa thập niên 90, ông bị buộc tội xâm hại tình dục trẻ em, nhưng sau đó được tuyên trắng án vì không đủ chứng cứ.[9] Năm 2005, một lần nữa Jackson phải hầu tòa vì lời cáo buộc xâm hại tình dục trẻ em, sau nhiều lần trì hoãn và xét xử rắc rối, Jackson được tuyên bố trắng án với tất cả các tội danh. Trong khi chuẩn bị cho hàng loạt buổi hòa nhạc trở lại mang tên This Is It, Jackson qua đời do nhiễm độc cấp tính propofolbenzodiazepine vào ngày 25 tháng 6 năm 2009, sau khi tim ngừng đập. Tòa Thượng thẩm Los Angles (Mỹ) liệt cái chết của Jackson như một vụ giết người và bác sĩ riêng của ông bị kết tội ngộ sát. Cái chết của Jackson gây nên sự tiếc nuối trên toàn cầu và lễ tưởng niệm của ông được truyền hình trực tiếp công khai trên toàn thế giới.[10] Forbes xếp Jackson là nhân vật nổi tiếng quá cố giàu có nhất, danh hiệu mà ông đã giữ vững suốt 6 năm liền, với thu nhập 115 triệu đô-la Mỹ.[11]

Cuộc đời và sự nghiệp

1958–75: Tuổi thơ và The Jackson 5

Ngôi nhà thời thơ ấu của Jackson tại Gary, Indiana, nơi đặt những bó hoa tưởng niệm sau khi ông qua đời

Michael Joseph Jackson sinh ngày 29 tháng 8 năm 1958. Ông là con thứ 8 trong số 10 người con trong một gia đình thuộc tầng lớp lao động người Mỹ gốc Phi, sinh sống trong một căn nhà 3 phòng tại đường Jackson, thuộc thành phố công nghiệp Gary, Indiana, một phần của vùng đô thị Chicago.[12][13] Mẹ của ông, Katherine Esther Scruse là một tín đồ nhiệt thành của giáo phái Nhân chứng Giê-hô-va. Bà từng mong muốn trở thành một ca sĩ nhạc đồng quê và dân ca, chơi clarinet và dương cầm, nhưng phải làm bán thời gian tại hãng Sears để hỗ trợ gia đình.[14] Cha của ông, Joseph Walter "Joe" Jackson làm thuê cho Tổng công ty Thép Hoa Kỳ. Joe từng là một võ sĩ và thường biểu diễn với một ban nhạc R&B có tên là "The Falcons" để trang trải thu nhập cho gia đình.[15] Michael lớn lên cùng 3 chị em gái (Rebbie, La ToyaJanet) và 5 anh em trai (Jackie, Tito, Jermaine, MarlonRandy).[16] Người anh thứ sáu, Brandon, là anh em sinh đôi với Marlon, đã mất khi vừa kịp chào đời.[17]

Michael có một mối quan hệ khó khăn với cha của mình, Joe.[18][19] Vào năm 2003, Joe thừa nhận thường xuyên đánh Jackson khi còn nhỏ.[20] Joe còn lăng mạ con trai mình, thường bảo Jackson là đứa trẻ có "mũi to".[21] Jackson khẳng định mình bị chính người cha ruột hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần, trải qua những buổi tập luyện mệt mỏi không ngớt, những trận đòn roi và chửi rủa, mặc dù ông cũng ghi nhận việc kỷ luật nghiêm ngặt của cha mình đóng một vai trò lớn trong sự thành công của mình.[18] Chia sẻ một cách cởi mở về tuổi thơ của mình trong một buổi phỏng vấn cùng Oprah Winfrey vào tháng 2 năm 1993, Jackson thừa nhận thời thơ ấu của mình rất cô độc và bị cô lập.[22] Sự bất mãn về ngoại hình, những lần gặp ác mộng và chứng mất ngủ kinh niên của Jackson, xu hướng vâng lời một cách thái quá, nhất là với cha của ông, cùng tính cách trẻ con trong suốt thời gian trưởng thành, là những điều bộc phát từ ảnh hưởng của sự ngược đãi ông phải chịu đựng thời thơ ấu.[23] Trong một cuộc phỏng vấn với Martin Bashir trong chương trình Living with Michael Jackson vào năm 2003, Jackson thừa nhận mình bị cha làm tổn thương khi còn nhỏ, gợi nhớ lại khi Joseph ngồi trên một chiếc ghế, trên tay là cái thắt lưng da trong khi các con đang luyện tập, ông nói "nếu bạn không làm đúng những gì bố tôi muốn, ông ta sẽ xé xác bạn."[24][25] Cha mẹ của Jackson không đồng tình với những lời cáo buộc trên, khi Katherine khẳng định tuy hiện nay được xem là một hành động lạm dụng, nhưng trước đây đòn roi là một cách thông thường để kỷ luật con trẻ.[26][27] Jackie, Tito, Jermaine và Marlon cũng cho rằng cha mình không hề lạm dụng mà chỉ là hiểu lầm.[28]

Vào năm 1964, Michael và Marlon gia nhập The Jackson Brothers—một ban nhạc do cha họ thành lập, bao gồm các anh em trai Jackie, Tito và Jermaine—trong vai trò nhạc sĩ hỗ trợ chơi congatambourine.[29] Vào năm 1965, Jackson bắt đầu hát chính cùng anh trai Jermaine, với tên nhóm được đổi sang The Jackson 5.[16] Năm kế đến, nhóm thắng giải tại một cuộc thi tìm kiếm tài năng lớn, khi Jackson trình diễn điệu nhảy theo bài hát ăn khách năm 1965 của Robert Parker, "Barefootin'".[30] Từ năm 1966 đến 1968, ban nhạc chu du khắp vùng Trung Tây, thường biểu diễn mở màn cho những nghệ sĩ như Sam & Dave, the O'Jays, Gladys KnightEtta James tại nhiều câu lạc bộ và nơi tụ tập của người da màu mà người ta thường gọi bằng cái tên "chitlin' circuit". Nhóm cũng xuất hiện tại các hộp đêm và quầy rượu, nơi thường dành cho các tiết mục thoát y; hội trường địa phương và tại trường trung học.[31][32] Vào tháng 8 năm 1967, trong lúc lưu diễn tại bờ Đông Hoa Kỳ, nhóm giành được một chương trình biểu diễn hàng tuần ở Apollo Theater, Harlem.[33]

The Jackson 5 thu âm nhiều bài hát, trong đó có "Big Boy" (1968), đĩa đơn đầu tiên của họ, cùng Steeltown Records, một hãng thu âm tại Gary, Indiana;[34] trước khi ký kết cùng hãng đĩa Motown vào năm 1969.[16] The Jackson 5 rời khỏi Gary vào năm 1969 và dọn đến khu vực Los Angeles, nơi họ tiếp tục thu âm cho Motown.[35] Rolling Stone sau này mô tả Michael thời non trẻ là một "thần đồng" với "khả năng âm nhạc trời phú," viết rằng ông "nhanh chóng trở thành người thu hút và giọng ca chính."[36] Nhóm mở ra một kỷ lục xếp hạng mới, khi phát hành 4 đĩa đơn đầu tay "I Want You Back" (1969), "ABC" (1970), "The Love You Save" (1970) và "I'll Be There" (1970)—đều đạt vị trí quán quân trên Billboard Hot 100.[16] Vào tháng 5 năm 1971, gia đình Jackson dời đến một ngôi nhà lớn hơn tại Encino, California,[37] nơi Michael trưởng thành từ ca sĩ nhí sang một thần tượng tuổi thiếu niên.[38] Khi Jackson chuyển sang sự nghiệp đơn ca vào thập niên 1970, ông tiếp tục gắn liền với Jackson 5 và Motown. Giữa năm 1972 và năm 1975, Michael phát hành 4 album phòng thu cùng Motown: Got to Be There (1972), Ben (1972), Music & Me (1973) và Forever, Michael (1975).[39] "Got to Be There" và "Ben", các bài hát chủ đề trích từ hai album đơn ca đầu tay của Michael, là những đĩa đơn thành công, cùng phần trình bày lại bài hát "Rockin' Robin" của Bobby Day.[40]

The Jackson 5 sau này được mô tả là "một ví dụ điển hình cho những nghệ sĩ da màu bứt phá thành công."[41] Doanh số của nhóm bắt đầu sụt giảm vào năm 1973, khi mối quan hệ giữa ban nhạc và Motown trở nên xấu đi và hãng đĩa từ chối nhiều yêu cầu sáng tạo của họ. Dù vậy, The Jackson 5 tiếp tục giành thêm nhiều đĩa đơn đạt top 40 nữa, bao gồm đĩa đơn đạt top 5 "Dancing Machine" (1974), trước khi chấm dứt với Motown vào năm 1975.[42]

1975–81: Chuyển sang hãng Epic và Off the Wall

Michael (giữa) khi cùng The Jacksons bắt đầu thực hiện chương trình truyền hình riêng vào năm 1976

Vào tháng 6 năm 1975, The Jackson 5 ký hợp đồng với Epic Records, một hãng đĩa thuộc biên chế của CBS Records[42] và đổi tên thành The Jacksons. Em trai Randy chính thức gia nhập ban nhạc vào khoảng thời gian này, trong khi Jermaine chọn ở lại với hãng Motown và theo đuổi sự nghiệp đơn ca.[43] The Jacksons tiếp tục lưu diễn quốc tế và phát hành thêm 6 album nữa từ năm 1976 đến năm 1984. Michael, nhạc sĩ chính của nhóm trong thời gian này, đã viết nên nhiều nên bài hát thành công như "Shake Your Body (Down to the Ground)" (1979), "This Place Hotel" (1980) và "Can You Feel It" (1980).[29] Jackson bắt đầu nghiệp diễn xuất vào năm 1978, khi ông đóng vai bù nhìn rơm Scarecrow trong The Wiz, một bộ phim của đạo diễn Sidney Lumet cùng với Diana Ross, Nipsey RussellTed Ross.[44] Phim là một thất bại lớn về doanh thu.[45] Trên phim trường, Jackson gặp gỡ Quincy Jones, người biên tập phần âm nhạc cho bộ phim và Jones đồng ý sản xuất album đơn ca tiếp theo của Jackson, Off the Wall.[46] Năm 1979, Jackson bị gãy mũi khi đang thực hiện một vũ đạo phức tạp. Tuy nhiên, cuộc phẫu thuật không thành công như dự kiến; ông phàn nàn vì khó thở và có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp của mình. Ông đã liên lạc với Bác sĩ Steven Hoefflin, người thực hiện cuộc sửa mũi thứ hai và những lần tiếp theo sau này của Jackson.[47]

Off the Wall (1979), một thành quả hợp tác giữa Jackson và Jones, đã giúp định hình một Jackson từ âm nhạc "bubblegum pop" thưở nhỏ sang âm nhạc chững chạc, trưởng thành, phù hợp với thị hiếu của nhiều thành phần lứa tuổi hơn.[38] Ngoài Jackson, các nhạc sĩ khác xuất hiện trong album bao gồm Rod Temperton, Stevie WonderPaul McCartney. Album đạt thành công trên toàn thế giới và lập kỷ lục trở thành album đầu tiên ra mắt 4 đĩa đơn nằm trong top 10 tại Hoa Kỳ, trong đó có đĩa đơn quán quân "Don't Stop 'Til You Get Enough" và "Rock With You".[48][49] Album này vươn tới vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng album Billboard 200 và hiện đã tiêu thụ hơn 20 triệu bản trên thế giới.[50]

Vào năm 1980, Jackson thắng 3 giải thưởng Âm nhạc Mỹ: "Album Soul/R&B được yêu thích nhất" cho Off the Wall, "Nam nghệ sĩ Soul/R&B được yêu thích nhất" và "Bài hát Soul/R&B được yêu thích nhất" cho "Don't Stop 'Til You Get Enough".[51][52] Ông cũng giành giải Billboard Year-End cho "Nghệ sĩ da màu xuất sắc nhất" và "Album da màu xuất sắc nhất"; giải Grammy đầu tiên trong sự nghiệp cho "Trình diễn giọng R&B nam xuất sắc nhất" cùng "Don't Stop 'Til You Get Enough" vào năm 1979.[53][54] Dù đạt thành công, Jackson lại cảm thấy Off the Wall có thể mang sức ảnh hưởng rộng rãi hơn nữa và xác định sản phẩm tiếp theo phải thành công ngoài sức tưởng tượng.[55] Vào năm 1980, ông vẫn đảm bảo mức tiền bản quyền cao nhất trong ngành công nghiệp âm nhạc lúc bấy giờ: 37% tiền lợi nhuận album.[56]

1982–83: ThrillerMotown 25: Yesterday, Today, Forever

Vào năm 1982, Jackson thu âm ca khúc "Someone in the Dark" cho album nhạc truyện của bộ phim E.T the Extra-Terrestrial.[57] Bài hát do Quincy Jones sản xuất này giành một giải Grammy cho "Album xuất sắc nhất dành cho trẻ em" vào năm 1983.[58] Cuối năm đó, Jackson phát hành album Thriller, giúp ông giành thêm 7 giải Grammy,[58][59] 8 giải thưởng Âm nhạc Mỹ và Jackson là người trẻ nhất đoạt Giải Merit.[60][61] Thriller vẫn đang là album bán chạy nhất trong lịch sử âm nhạc, với số lượng bán ra ước tính 65 triệu bản;[62][63] chỉ tính riêng tại Hoa Kỳ, đây là album đầu tiên giành được 32 chứng nhận Bạch kim, tương đương 32 triệu bản tiêu thụ.[64] Album góp mặt trong top 10 Billboard 200 suốt 80 tuần liên tiếp, trong khi dẫn đầu 37 tuần. Đây cũng là album đầu tiên có 7 đĩa đơn lọt vào top 10 Billboard Hot 100, bao gồm "Billie Jean", "Beat It" và "Wanna Be Startin' Somethin'".[65] Vào năm 1983, Jackson phát hành "Thriller", một video âm nhạc dài 14 phút do John Landis đạo diễn.[66] "Thriller" được xem là cột mốc "quyết định nên video âm nhạc và phá vỡ rào cản chủng tộc" trên Music Television Channel (MTV), một kênh truyền hình giải trí non trẻ vào thời điểm trên.[38] Vào tháng 12 năm 2009, Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ chọn video âm nhạc này trong số 25 bộ phim xuất hiện tại Viện lưu trữ phim quốc gia, như là "những tác phẩm mang tầm quan trọng lâu dài đến văn hóa Mỹ" và sẽ "được bảo quản cho mọi thời đại."[67][68] Tính đến năm 2009, đây là video duy nhất được đăng ký bổ nhiệm.[66][68][69]

Luật sư của Jackson, John Branca nhận thấy ông đang sở hữu mức thuế suất trong ngành công nghiệp âm nhạc vào thời điểm đó: khoảng 2 đô-la cho mỗi album bán ra. Ông cũng thu về lợi nhuận kỷ lục từ doanh số đĩa nhạc. Cuốn video phim tài liệu The Making of Michael Jackson's Thriller bán hơn 350.000 bản chỉ trong vài tháng và giành giải Grammy cho "Video âm nhạc dài xuất sắc nhất".[58] Nhiều sản phẩm nhượng quyền khác như búp bê hình Michael Jackson, xuất hiện trên cửa hiệu vào tháng 5 năm 1984.[70] Nhà tiểu sử J. Randy Taraborrelli viết rằng "Thriller không còn được bán như một món hàng giải trí—một quyển tạp chí, con búp bê, vé xem phim—mà giống như một vật dụng chủ yếu trong gia đình hơn."[71] Tạp chí Time mô tả ảnh hưởng của Jackson vào thời điểm trên như một "ngôi sao của những đĩa hát, sóng truyền thanh và những video nhạc rock; người cứu sống ngành thương mại âm nhạc, một nhạc sĩ đã khởi động nhịp đập cho thập kỷ, một vũ công trên phố xá với vũ điệu lạ mắt nhất của đôi chân, một ca sĩ đã phá bỏ mọi rào cản về thị hiếu, phong cách và cả màu da."[70] The New York Times viết rằng "Trong làng nhạc Pop thế giới, có Michael Jackson và những người khác".[72]

Vào ngày 25 tháng 3 năm 1983, Jackson đoàn tụ với anh em của mình trong chương trình kỷ niệm 25 năm của Motown mang tên Motown 25: Yesterday, Today, Forever. Được ghi hình tại Pasadena Civic Auditorium, chương trình phát sóng ngày 16 tháng 5 năm 1983 trên đài NBC, thu hút khoảng 47 triệu người xem.[73] Jackson ban đầu từ chối biểu diễn vì cho rằng lúc đó mình xuất hiện quá nhiều trên truyền hình; dù vậy, theo yêu cầu của Berry Gordy, Jackson nhượng bộ và đồng ý trình diễn đơn ca.[74] Trong sự kiện, Jackson biểu diễn bài hát "Billie Jean" trong chiếc áo khoác sequin đen và chiếc găng tay đính đá, nơi ông lần đầu trình diễn điệu moonwalk nổi tiếng. Điệu nhảy do cựu vũ công Soul Train và thành viên nhóm Shalamar Jeffrey Daniel dạy cho ông 3 năm trước đó.[75] Theo Mikal Gilmore từ Rolling Stone, "Có những lúc bạn biết mình đang nghe hay thấy một điều gì đó diệu kỳ...điều phi thường ấy đã diễn ra vào đêm đó."[38] Phần trình diễn của Jackson nhận nhiều so sánh với sự xuất hiện của Elvis Presleythe Beatles trên The Ed Sullivan Show.[76] Chương trình thậm chí còn giúp Jackson giành được đề cử giải Emmy đầu tiên.[77][78] Berry Gordy chia sẻ "từ nhịp đầu tiên của Billie Jean, tôi đã bị mê hoặc và khi anh ấy trình diễn màn vũ đạo thương hiệu của mình, tôi đã bị sốc, đó là ma thuật, Michael Jackson đã đi vào quỹ đạo và không bao giờ sa sút."[79]

1984–85: Pepsi, "We Are the World" và sự nghiệp kinh doanh

Vào tháng 11 năm 1983, Jackson cùng những người anh em của mình đã ký một hợp đồng quảng cáo với hãng PepsiCo với mức thù lao 5 triệu đô-la Mỹ, phá vỡ kỷ lục trong ngành công nghiệp quảng cáo. Chiến dịch đầu tiên của Pepsi diễn ra tại Hoa Kỳ những năm 1983-1984, với khẩu hiệu "Thế hệ mới" ("New Generation"); bao gồm quảng cáo, tài trợ lưu diễn, các sự kiện quan hệ công chúng và trong cửa hàng trưng bày.[80] Ngày 27 tháng 1 năm 1984, Michael và các thành viên khác của the Jacksons đang ghi hình cho một quảng cáo Pepsi Cola do Phil DusenberryAlan Pottasch giám sát.[81] Trước nhiều người hâm mộ trong một đêm nhạc giả định, một tàn pháo hoa vô tình rơi trúng đầu Jackson, khiến da đầu ông bị bỏng 2 độ. Jackson phải trải qua điều trị để làm mờ vết sẹo trên da đầu và có cuộc sửa mũi thứ 3 sau đó không lâu.[47] Pepsi giải quyết vấn đề ngoài vòng pháp luật và Jackson đã trao tặng số tiền đền bù 1.5 triệu đô-la Mỹ đến Trung tâm Y tế Brotman ở Culver City, California. Trung tâm trị bỏng Michael Jackson được đặt ra để vinh danh những đóng góp cao quý của ông.[82] Jackson ký thêm một thỏa thuận với Pepsi vào cuối những năm 1980 với trị giá 10 triệu đô-la Mỹ. Chiến dịch này tiếp cận thị trường toàn cầu với hơn 20 quốc gia và quảng bá cho album Bad của ông cũng như chuyến lưu diễn thế giới cùng tên (1987-88).[80] Mặc dù Jackson đã hợp tác quảng cáo với nhiều công ty khác, chẳng hạn như LA Gear, SuzukiSony, nhưng chưa có chiến dịch nào vượt mặt Pepsi, dẫn đến sự hợp tác với nhiều ngôi sao ca nhạc khác như Britney SpearsBeyoncé Knowles để quảng bá sản phẩm.[80][83]

Jackson tại Nhà Trắng trong sự kiện trao giải vào năm 1984. Tại đây, ông đã gặp mặt Tổng thống Ronald Reagan và Đệ nhất phu nhân Nancy Reagan

Công việc thiện nguyện của Jackson được công nhận vào ngày 14 tháng 5 năm 1984, khi ông xuất hiện tại Nhà Trắng để nhận giải thưởng từ Tổng thống Ronald Reagan cho những đóng góp từ thiện, giúp đỡ người nghiện rượu và lạm dụng ma túy[84] cũng như chiến dịch tuyên truyền "Không lái xe trong lúc say rượu" của cục Quản lý an toàn giao thông. Jackson cũng ủy quyền sử dụng bài hát "Beat It" cho chiến dịch này.[85] Khác với những album sau này, Thriller không có chuyến lưu diễn chính thức để quảng bá, nhưng Victory Tour vào năm 1984 lại phô diễn nhiều bài hát đơn ca của Jackson đến hơn 2 triệu người Mỹ. Đây cũng là chuyến lưu diễn cuối cùng mà ông thực hiện với những anh em của mình.[86] Sau khi gặp nhiều tranh cãi về giá vé, Jackson tổ chức một buổi họp báo và thông báo quyên góp phần lợi nhuận từ Victory Tour cho từ thiện, khoảng từ 3-5 triệu đô-la Mỹ.[87][88]

Jackson đồng sáng tác cùng Lionel Richie trong đĩa đơn từ thiện "We Are the World" (1985).[89] Bài hát được thu âm vào ngày 28 tháng 1 năm 1985[90] và phát hành trên toàn cầu vào tháng 3 năm 1985 nhằm giúp đỡ người nghèo tại Hoa Kỳ và châu Phi.[91] Bài hát thu về 63 triệu đô-la Mỹ để cứu trợ nạn đói[91] và trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất thế giới, với 20 triệu bản tiêu thụ.[92] "We Are the World" giành 4 giải Grammy vào năm 1985, bao gồm giải "Bài hát của năm".[89] Dù đạo diễn giải thưởng Âm nhạc Mỹ gỡ bài hát khỏi lễ trao giải vì cảm thấy không phù hợp, chương trình diễn ra vào năm 1986 sử dụng bài hát này để tôn vinh trong dịp kỷ niệm 1 năm. Nhà sáng lập của dự án giành thêm 2 giải AMA: một cho sáng tạo nên bài hát và cho ý tưởng USA for Africa. Jackson, Quincy Jones và nhà quảng bá Ken Kragan nhận giải thưởng đặc biệt cho vai trò sáng tác nên bài hát.[89][90][93][94]

Jackson bắt đầu quan tâm đến ngành xuất bản âm nhạc sau khi hợp tác với Paul McCartney vào đầu thập niên 1980. Ông biết được McCartney thu về xấp xỉ 40 triệu đô-la Mỹ mỗi năm từ bài hát của người khác.[91] Đến năm 1983, Jackson đầu tư vào quyền xuất bản những bài hát của tác giả khác, nhưng chỉ nhận mua lại một ít trong số hàng chục lời mời. Các danh mục âm nhạc mà ông đảm nhận bao gồm Sly Stone với "Everyday People" (1968), Len Barry với "1-2-3" (1965) và Dion DiMucci cùng "The Wanderer" (1961) và "Runaround Sue" (1961); dù vậy, lần bỏ tiền đáng kể nhất của Jackson diễn ra vào năm 1985, khi ông mua lại cổ phần trong ATV Music Publishing sau nhiều tháng thương lượng.[91] ATV sở hữu bản quyền phát hành gần 4000 bài hát, bao gồm phần lớn các sáng tác của Lennon-McCartney do the Beatles thu âm, thuộc danh mục của Northern Songs.[95]

Vào năm 1984, nhà đầu tư người Úc Robert Holmes à Court, cũng là người sở hữu ATV Music Publishing, thông báo rao bán danh mục của hãng này.[95] Vào năm 1981, McCartney chào mua danh mục với 20 triệu bảng Anh (40 triệu đô-la Mỹ).[91][96][97] Tuy nhiên hành động này đã không làm vừa lòng người bạn thân Paul McCartney, người cũng có cổ phần trong công ty, trong khi chính ông trước đây đã từng cho Jackson biết về giá trị béo bở trong việc sở hữu các bài hát của The Beatles[98]. Sự hợp tác sáng tác và hát nhạc giữa hai người chấm dứt từ đó.

1986–90: Bad, Moonwalk và Neverland

Jackson hợp tác với George Lucas và Francis Ford Coppola trong dự án phim 3-D dài 15 phút mang tên Captain EO, ra mắt vào tháng 9 năm 1986 tại DisneylandEPCOT ở Florida, và vào tháng 3 năm 1987 tại Tokyo Disneyland. Bộ phim tốn 30 triệu đô này[99] đã thu hút sự chú ý của công chúng ở cả ba công viên. Sự thu hút này vẫn được tiếp diễn trong thập niên 90 khi Euro Disneyland mở cửa vào năm 1992. Tất cả bốn công viên đều tiếp tục trình chiếu nó trong những năm về sau, lần cuối cùng được nhìn thấy là tại Pháp vào năm 1998.[100] Captain EO sau đó đã trở lại Disneyland vào năm 2010 sau cái chết của Jackson. 2 bài hát mới được giới thiệu trong Captain EO là "Another Part of Me", sau này có mặt trong album Bad (1987) và "We Are Here To Change The World", được phát hành năm 2004 trong album Michael Jackson: Ultimate Collection.

Năm 1987, với sự chờ đợi lớn từ ngành công nghiệp, album đầu tiên của Michael Jackson sau 5 năm, Bad, được phát hành.[101] Dù không thể vượt qua thành công của Thriller về mặt thương mại, Bad vẫn được xem là một thành tựu mà bất cứ nghệ sĩ nào cũng ao ước.

Jackson biểu diễn năm 1988

Album bán được hơn 30-45 triệu đĩa trên toàn thế giới trong đó 9 triệu được tiêu thụ tại Mỹ[102][103], đứng đầu bảng xếp hạng của 25 quốc gia, cũng như là album bán chạy nhất thế giới vào năm 1987 và 1988.[104][105][106][107][108][109] Có tới 7 đĩa đơn trong album này lọt vào top 20 hit tại Mỹ, trong đó 5 ca khúc đã leo lên vị trí quán quân là "I Just Can't Stop Loving You", "Bad", "The Way You Make Me Feel", "Man in the Mirror" và "Dirty Diana". Đây là album đầu tiên trong lịch sử có 5 đĩa đơn đầu đều đạt vị trí quán quân nhất tại Mỹ. Về mặt âm nhạc, Bad là bộ sưu tập gồm các bản ballad, những ca khúc hồn nhiên vô tư hòa quyện với một số bài mang chủ đề u sầu, ủ dột như "Leave Me Alone", được Micheael Jackson hát như một sự trút giận trước sự săm soi thái quá của công chúng vào đời tư của anh. Mặc dù ý tưởng cho video của bài hát chủ đề không khác mấy so với video của đĩa đơn trước "Beat It", video "Bad" vẫn được xem là một trong khoảnh khắc mang tính biểu tượng của Jackson, với những hình ảnh đầy gai góc trong hệ thống đường hầm ở New York, được truyền cảm hứng từ West Side Story. Ông đã hợp tác với đạo diễn điện ảnh từng đoạt giải Oscar Martin Scorsese để thực hiện cho video ca khúc này [110]. Khi video dài 18 phút lần đầu công chiếu, một làn sóng tranh cãi lại nổ ra về sự thay đổi rõ ràng trên khuôn mặt của nam ca sĩ, từ mũi, cằm cho đến màu da[111]

Tháng 9 năm 1987, Michael Jackson bắt đầu chuyến lưu diễn solo đầu tiên của mình. Bad World Tour được người hâm mộ trên thế giới chào đón một cách cuồng nhiệt, phá kỷ lục về số người đến xem lúc bấy giờ. Chỉ riêng tại Nhật Bản với 14 buổi diễn đã có hơn nửa triệu khán giả[112]. Chuyến lưu diễn kéo dài 16 tháng gồm 123 buổi công diễn, thu hút 4,4 triệu người hâm mộ. Jackson cũng phá vỡ Kỷ lục Guinness thế giới khi đạt được con số 504,000 khán giả tham dự trong 7 show bán sạch vé tại sân vận động Wembley.[113] Bad cũng là tour diễn cuối cùng mà Michael Jackson biểu diễn trong lục địa Hoa Kỳ, mặc dù ông sau đó vẫn biểu diễn tại bán đảo Hawaii.

Năm 1988, Jackson phát hành cuốn tự truyện đầu tiên của ông, Moonwalk, được hoàn thành trong 4 năm và bán được hơn 200.000 bản.[114] Trong cuốn sách, ông viết về thời thơ ấu của mình, ban nhạc The Jackson 5 cũng như những vấn đề liên quan đến diện mạo của bản thân.[115] Moonwalk đã được liệt kê vào danh sách best-seller của The New York Times.[116] Nam sau sĩ sau đó còn phát hành bộ phim Moonwalker, bao gồm những màn trình diễn live và các thước phim ngắn do Jackson và Joe Pesci đóng vai chính. Bộ phim ban đầu được dự định sẽ được phát hành chiếu rạp, nhưng do các vấn đề tài chính, bộ phim đã được phát hành dưới dạng home video.

Tháng 3 năm 1988, Jackson mua khu đất gần Santa Ynez, California, để xây dựng khu điền trang Neverland với giá 17 triệu đô. Đây là một khu bất động sản nằm ở quận Santa Barbara, California, nổi tiếng vì là nhà cũ của ông từ năm 1988 tới 2005. Jackson mua khu điền trang này từ doanh nhân William Bone. Điền trang này được đặt theo tên của Neverland, mảnh đất thần tiên trong câu chuyện về Peter Pan, cậu bé không bao giờ lớn. Tổ hợp này nằm cách 8 km về phía bắc của khu Los Olivos và 13 km về hướng bắc của thị trấn Santa Ynez. Diện tích của tổ hợp là 11 km2. Tháng 11 năm 2008, Michael Jackson đổi tên khu điền trang này thành Sycamore Valley Ranch Company, LLC.

Với những thành công nối tiếp thành công từ khi hát đơn của mình, Michael Jackson đã được đặt một biệt danh là "Vua nhạc pop"[117], cái tên ngày nay vẫn được người hâm mộ và giới thông tin đại chúng dùng để gọi Jackson[118]. Thực ra biệt danh này là do người bạn của Michael, ngôi sao điện ảnh Elizabeth Taylor đặt ra khi bà giới thiệu anh với danh hiệu "Nghệ sĩ của thập kỷ" vào năm 1989, công bố rằng: "Anh ấy là một ông vua thực sự của nhạc pop, rocksoul"[119][120]. Năm 1990, ghi nhận những ảnh hưởng của Michael trong lĩnh vực âm nhạc, Nhà Trắng một lần nữa mời anh đến cũng để nhận phần thưởng trên. Tổng thống George H. W. Bush đã trực tiếp trao thưởng và tán dương Michael vì đã có được cộng đồng người hâm mộ thật nhiệt thành, và nhiều thứ khác nữa[121].

1990–93: Dangerous, Heal The World Foundation và Super Bowl XXVII

Tháng 3 năm 1991, Jackson kí tiếp hợp đồng hợp tác với Sony trị giá 65 triệu USD, một hợp đồng kỷ lục vào thời điểm đó,[122] vượt qua kỷ lục của Neil Diamond với Columbia Records. Ông phát hành album thứ 8 của mình, Dangerous, vào tháng 11 cùng năm. Tại Mỹ, 7 triệu bản album được tiêu thụ và con số trên toàn cầu lên tới 32 triệu khiến đây trở thành album bán chạy thứ hai trong sự nghiệp của Jackson, chỉ sau Thriller[102][123] Dangerous đã được dự đoán là một album hết sức nổi bật khi một vụ việc đã xảy ra tại Sân bay quốc tế Los Angeles: một toán cướp có vũ trang đã ăn cắp 30.000 đĩa hát trước khi album được phát hành chính thức ngày 26 tháng 11[124].

Đĩa đơn thành công nhất của album là "Black or White", đạt vị trí quán quân tại Mỹ trong 7 tuần liên tiếp và cũng đạt quán quân tại nhiều nước khác như Anh, Canada, Pháp, Áo, Đức[125]. Tuy nhiên video của ca khúc lại gây nhiều tranh cãi khi bắt đầu công chiếu trên MTV, BET với một số cảnh hơi khiêu dâm và bạo lực như cảnh Michael Jackson sờ soạng chỗ kín, xé áo rồi đập phá phố xá. Vì vậy phần nửa cuối của video đã bị lược bỏ khi chiếu trên truyền hình[117]. Cùng thời gian đó, ngày 14 tháng 11, video "Black or White" đã được phát hành tại 27 nước trên thế giới với số lượng người xem khoảng nửa tỉ người, lập kỷ lục là video có nhiều người xem nhất từ trước đến nay[126]. Đĩa đơn thứ hai, "Remember The Time", cũng trụ ở tốp 5 trong 8 tuần với vị trí cao nhất là hạng 3[127]. Tại Anh và một số quốc gia khác ở châu Âu, đĩa đơn thành công nhất lại là "Heal the World". Đĩa này bán được 450.000 bản tại Anh và ở vị trí thứ 2 trong 5 tuần vào năm 1992[127]. Vào cuối năm 1992, Dangeous đã được trao giải là album bán chạy nhất trong năm trên toàn thế giới còn "Black or White" là đĩa đơn bán chạy nhất năm trên toàn thế giới tại Billboard Music Awards. Ngoài ra, ông còn được trao thưởng là nghệ sĩ bán chạy nhất của thập niên 1980.[128]

Bài hát Will You Be There trong album này của Jackson đã bị nhạc sĩ kiêm ca sĩ người Ý Al Bano (Albano Carrisi) khởi kiện năm 1992 vì ông cho rằng Jackson đã "đạo nhạc" từ bài hát I Cigni di Balaka (The Swans of Balaka) của ông. Theo các chuyên gia âm nhạc, bài hát của Jackson có đến 37 nốt nhạc giống với giai điệu được sáng tác trước đó của Al Bano. Luật sư Alberto Seganti của Jackson lập luận rằng đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên và không có bằng chứng về việc ăn cắp nhạc của anh, và hai người cũng chưa từng gặp nhau trước khi vụ kiện bắt đầu. Vụ kiện kéo dài 7 năm và đến năm 1999, Toà án dân sự Milan đã bác đơn kiện của Al Bano và ông phải trả án phí cho vụ này. Sau đó Al Bano đã mời Jackson cùng tham gia buổi hoà nhạc từ thiện vì trẻ em Kosovo[129].

Jackson đã thành lập Heal the World Foundation vào năm 1992. Tổ chức này mang những trẻ em nghèo đến trang trại của Jackson để vui chơi và giải trí. Tổ chức này cũng đã gửi hàng triệu đô la đến toàn cầu để giúp đỡ các trẻ em bị đe dọa bởi chiến tranh, nghèo đói và bệnh tật. Cũng trong năm này, Jackson xuất bản cuốn sách thứ hai của mình, Dancing the Dream. Năm 1992 được ghi nhận là một năm khá bận rộn của Michael Jackson với nhiều chuyến thăm đến các nước trên thế giới. Đáng chú ý là chuyến thăm châu Phi, trong đó có GabonAi Cập[130]. Đây là lần thứ hai anh tới lục địa này, lần đầu tiên anh tới đây cùng với The Jackson 5 khi mới 14 tuổi. Điểm dừng chân đầu tiên của anh là đất nước Gabon với sự đón tiếp của hơn 100.000 người trong cảnh hỗn loạn ồn ào, một số người đã hô vang: "Chào mừng anh đã về nhà, Michael Jackson"[130]. Tại Bờ Biển Ngà, anh đã đi thăm một ngôi làng chuyên khai thác vàng của bộ tộc người Agni, gần thủ đô Abidjan và được tộc trưởng gọi là Vua Sani[130]. Jackson cũng cảm ơn những người đứng đầu bộ lạc bằng cả tiếng Anhtiếng Pháp về việc tạo điều kiện cho anh làm một bộ phim tài liệu về chuyến đi này và ngồi lên một chiếc ngai vàng để chủ trì nghi thức nhảy múa tại địa phương[130]. Michael Jackson kết thúc chuyến công du của mình tại Ai Cập, nhân thể quảng cáo luôn cho album Dangerous. Tour lưu diễn Dangerous World Tour đã thu về hơn 100 triệu đô, bắt đầu vào ngày 27 tháng 6 năm 1992, và kết thúc vào ngày 11 Tháng 11, 1993. Nó đã thu hút lượng khán giả lên đến 3,5 triệu người trong 70 buổi hòa nhạc.[131] Ông đã bán bản quyền phát sóng buổi trình diễn ở Bucharest, Rumani cho HBO với giá 20 triệu USD, phá kỷ lục về bản quyền phát sóng của một show diễn vẫn còn tồn tại đến nay.[132] Jackson cũng đã thể hiện tiếng nói của mình đối với HIV/AIDS - một vấn đề vẫn còn gây tranh cãi vào thời điểm đó, sau cái chết của người bạn thân Ryan White của ông. Ông công khai bày tỏ với chính quyền Clinton tại Gala nhậm chức của Bill Clinton cung cấp nhiều tiền hơn để tổ chức nghiên cứu và hỗ trợ người nhiễm HIV / AIDS.

Vào tháng Giêng năm 1993, Jackson đã có màn trình diễn đáng nhớ vào giữa giờ nghỉ tại Super Bowl XXVII. Do sự suy giảm tỉ suất người xem trong giờ nghỉ giải lao trong những năm trước, NFL quyết định tìm kiếm một tên tuổi lớn để thu hút khán giả, và Jackson đã được lựa chọn bởi danh tiếng và tầm ảnh hưởng của mình.[133] Đây là kì Super Bowl đầu tiên mà lượng rating khán giả xem vào giờ nghỉ còn cao hơn trận đấu chính. Ông đã hát bốn ca khúc: "Jam", "Billie Jean", "Black or White" và "Heal the World". Album "Dangerous" của Jackson sau đó cũng đã tăng 90 hạng trên bảng xếp hạng album.[134] Vào tháng Hai năm 1993, Jackson đã được trao "Giải Huyền thoại sống" tại lễ trao giải Grammy lần thứ 35 ở Los Angeles. Bên cạnh đó, "Dangerous" cũng chiến thắng một giải Grammy ở hạng mục "Album kĩ xảo nhất" - được trao cho Bruce Swedien và Teddy Riley cùng 3 đề cử khác. Cũng trong năm này, ông đã chiến thắng 3 giải thưởng âm nhạc Mỹ ở hạng mục Album Pop/Rock được yêu thích nhất ("Dangerous"), đĩa đơn Soul/R&B được yêu thích nhất ("Remmber the Time") và là người đầu tiên thắng Giải thưởng Nghệ sĩ Quốc tế. Giải thưởng này sẽ được gắn tên ông trong tương lai.[135][136]

1993–94: Vụ kiện lạm dụng tình dục và cuộc hôn nhân đầu tiên

1995–2000: HIStory, cuộc hôn nhân thứ hai và làm cha

Một trong rất nhiều những bức tượng giống nhau, dựa trên nguyên tác của Diana Walczak, được dựng lên ở khắp Châu Âu để quảng bá cho HIStory

Năm 1995, Jackson đã sát nhập cổ phẩn của mình trong ATV Music với bộ phận âm nhạc của Sony để tạo nên Sony/ATV Music Publishing. Jackson giữ được nửa quyền sở hữu của công ty, nhận trước 95 triệu đô cũng như sở hữu nhiều tác quyền các bài hát hơn.[137][138] Sau đó ông phát hành album đôi HIStory: Past, Present and Future, Book I. Đĩa đầu tiên, HIStory Begins, là tuyển tập 15 bản hit đã đưa Michael lên đỉnh cao, và sau đó đã được tái phát hành như là Greatest Hits: HIStory, Volume I vào năm 2001, trong khi đĩa thứ hai, HIStory Continues, có 13 bài hát mới và 2 phiên bản cover. Album đạt vị trí số một trên các bảng xếp hạng và được chứng nhận 7 đĩa Bạch kim ở Mỹ.[139] Đây là album đa đĩa bán chạy nhất mọi thời đại, với hơn 20 triệu bản (tổng cộng là 40 triệu đĩa) được bán ra trên toàn thế giới.[125] HIStory cũng nhận được một đề cử giải Grammy cho Album của năm.[140]

"Scream/Childhood" là đĩa đơn đầu tiên được phát hành trong album. "Scream" là một bản song ca với em gái Janet Jackson đã lọt vào top 5 tại Mỹ. Nội dung ca khúc là sự phản biện lại những cáo buộc mà các phương tiện truyền thông tạo ra xung quanh vụ kiện lạm dụng trẻ em của ông năm 1993. Video của đĩa đơn này hiện đang giữ kỷ lục về chi phí đầu tư hơn 7 triệu USD,[141] và nhận được một đề cử Grammy ở hạng mục "Hợp tác giọng pop xuất sắc nhất.[140] Đĩa đơn tiếp theo là "You Are Not Alone" đã nắm giữ Kỷ lục Guinness Thế giới khi là bài hát đầu tiên trong lịch sử âm nhạc đứng hạng nhất ngay trong tuần đầu tiên trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100,[142] đồng thời cũng gây tranh cãi tại Mỹ vì nội dung video ca nhạc. Video có vài cảnh tình tứ giữa Michael Jackson và vợ, Lisa Marie Presley, trong đó hai người ở tình trạng gần như khỏa thân hoàn toàn. Đây là một thành công lớn về mặt nghệ thuật và thương mại, nhận được một đề cử giải Grammy cho "Trình diễn giọng pop nam xuất sắc nhất".[140]

Vào cuối năm 1995, Jackson được đưa tới bệnh viện sau khi đột ngột ngất xỉu trong một buổi diễn tập cho buổi biểu diễn trên truyền hình.[143] Đĩa đơn thứ 3, "Earth Song", một ca khúc gây chú ý nhờ video ca nhạc, đạt vị trí quán quân tại Anh trong 6 tuần, qua kỳ giáng sinh năm 1995. "Earth Song" bán được hơn 1 triệu bản, vượt qua "Billie Jean" để trở thành đĩa đơn thành công nhất trong sự nghiệp của Jackson tại đảo quốc sương mù. Tại lễ trao giải BRIT, giải thưởng âm nhạc lớn nhất của Anh, năm 1996, anh đã biểu diễn ca khúc này với bộ trang phục trắng toát, xung quanh là trẻ em và một người đàn ông đóng vai giáo sĩ Do Thái. Jarvis Cocker, ca sĩ hát chính của ban nhạc Pulp cùng anh bạn Peter Masell đã trèo lên sân khấu làm loạn để tỏ ý phản kháng. Họ nhảy múa vòng quanh, giả vờ phô ra những bộ phận đằng sau. Trong cảnh hỗn loạn nhằm đưa hai người ra khỏi sân khấu, có thông tin cho rằng ít nhất 3 đứa trẻ đã bị thương nhẹ[144]. Hiệp hội công nghiệp ghi âm Anh quốc BPI, cơ quan chịu trách nhiệm trao giải thưởng BRIT, đã phát biểu về sự việc đáng xấu hổ này như sau: "Chúng tôi vô cùng lo ngại về hành động của Jarvis Cocker tối qua, hậu quả là 3 đứa trẻ hát cùng Michael Jackson đã bị thương"[144]. Cocker sau đó đã phản hồi: "Hành động của tôi đêm hôm đó nhằm phản đối cái cách mà Michael Jackson nhìn nhận bản thân anh ta như kiểu hình tượng của Chúa Giê-su tôn kính với sức mạnh hàn gắn chúng sinh"[144]. Người phát ngôn của Michael Jackson cũng thay mặt "nạn nhân" phát biểu: "...Michael Jackson cảm thấy tức giận, kinh tởm, buồn rầu, thất vọng và như bị lừa lọc vậy"[144]. Hành động sỗ sàng của Cocker đã bị báo giới Anh chỉ trích mạnh mẽ. "They Don't Care About Us", đĩa đơn thứ 4 của album HIStory sau khi phát hành gây nhiều tranh cãi về phần lời ca khúc có tính chất bài Do Thái: "Jue me, sue me" và "kick me, kike me" (Kike trong tiếng Anh có nghĩa là "tên Do Thái" với ý khinh miệt). Dưới sức ép của cộng đồng người Do Thái, đoạn hát này trong những lần phát hành về sau đã buộc phải đổi lời thành "do me, sue me" và "kick me, hike me". Năm 1996, Jackson đã giành một giải Grammy "Video hình thái ngắn xuất sắc nhất" cho "Scream" và một giải thưởng Âm nhạc Mỹ cho Nghệ sĩ Pop/Rock Nam xuất sắc nhất.[135][145]

Michael Jackson tại Liên hoan phim Cannes để quảng bá cho bộ phim ngắn Ghosts

Album này cũng được quảng bá với chuyến lưu diễn thế giới hết sức thành công HIStory World Tour, bắt đầu vào ngày 07 tháng 9 năm 1996, và hoàn thành vào ngày 15 tháng 10 năm 1997. Jackson đã biểu diễn trong 82 buổi tại 58 thành phố cho hơn 4,5 triệu người hâm mộ, và thu về tổng cộng 165 triệu đô. Nó đã đi qua 5 châu lục và 35 quốc gia, trở thành tour diễn thành công nhất trong sự nghiệp của Jackson về mặt con số khán giả.[146] Năm 1997, ông phát hành Blood on the Dance Floor: HIStory in the Mix, là tập hợp các bản phối lại các ca khúc từ album HISory. Với 6 triệu đĩa được bán ra, đây trở thành album phối khí lại bán chạy nhất mọi thời đại, đồng thời cũng đạt vị trí cao nhất tại Anh. Trong album còn có 5 bài hát mới là "Blood on the Dance Floor", "Ghosts", "Is It Scary?", "Superfly Sister" và "Morphine", trong đó 3 bài hát đầu đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn trên toàn cầu. "Blood on the Dance Floor" đạt quán quân tại Anh; "Is It Scary?" và "Ghosts" được sử dụng làm nhạc cho bộ phim Ghosts. Đây chỉ là bộ phim ngắn, kéo dài có 40 phút, do Michael viết kịch bản và Stan Winston đạo diễn song lại cho người xem thấy nhiều kỹ xảo đặc biệt cùng các điệu nhảy lôi cuốn. Đây cũng được coi là video ca nhạc dài nhất từ trước đến nay. Michael Jackson nói rằng anh dành tặng album cho ngôi sao ca nhạc kỳ cựu Elton John, người đã giúp anh vượt qua thói nghiện thuốc giảm đau, đặc biệt là morphine[147]. Forbes đã ước tính thu nhập của Michael Jackson ở mức 35 triệu trong năm 1996 và 20 triệu USD vào năm 1997.[148] Trong suốt tháng 6 năm 1999, Jackson đã tham gia vào một số hoạt động từ thiện. Ông gia nhập vào buổi hòa nhạc của Luciano Pavarotti ở Modena, Italy. Chương trình đã hỗ trợ tổ chức phi lợi nhuận War Child, và trích ra một triệu đô la cho những người tị nạn Kosovo, Nam Tư, cũng như bổ sung kinh phí cho các trẻ em ở Guatemala. Cuối tháng đó, Jackson đã tổ chức những buổi hỏa nhạc từ thiện "Michael Jackson & Friends" ở Đức và Hàn Quốc. Các nghệ sĩ tham gia bao gồm Slash, The Scorpions, Boyz II Men, Luther Vandross, Mariah Carey, A. R. Rahman, Prabhu Deva Sundaram, Shobana, Andrea Bocelli, và Luciano Pavarotti. Số tiền thu được đã được đưa đến Quỹ Nelson Mandela cho trẻ em, các Hội Chữ thập đỏ và UNESCO.[149]

2000–03: Tranh cãi hãng thu và Invincible

Tháng 10 năm 2001, album mới Invincible được phát hành[150] và leo lên vị trí cao nhất tại 13 quốc gia, đồng thời bán được hơn 13 triệu đĩa[151], một con số tuy khá lớn đối với những ca sĩ trẻ nhưng lại quá nhỏ đối với ngôi sao ca nhạc danh tiếng như Michael Jackson. Album này phát hành 3 đĩa đơn là "You Rock My World", "Cry" và "Butterflies".

Chỉ vài tháng trước khi Invincible được phát hành, Jackson thông báo cho Tommy Mottola, ông chủ hãng đĩa Sony Music Entertainment rằng anh sẽ không tiếp tục thực hiện hợp đồng với Tommy nữa[117]. Năm 2002, kế hoạch phát hành đĩa đơn, quay video ca nhạc và tổ chức các buổi hòa nhạc quảng bá cho Invincible vì thế đều bị hủy bỏ. Lý do mà Michael Jackson đưa ra là Tommy không ủng hộ những nghệ sĩ người Mỹ gốc Phi[117]. Anh nói rằng Tommy như một "con quỷ", một "kẻ phân biệt chủng tộc". Jackson còn cho biết ông chủ hãng đĩa đã gọi Irv Gotti, bạn đồng nghiệp của anh là "một thằng nhọ béo" (fat nigger)[152]. Sony phản đối lại những chỉ trích rằng họ đã không quảng bá Invincible đủ nhiệt tình, Sony khẳng định rằng Jackson đã từ chối chuyến lưu diễn tại Mỹ[153].

Nhận định về album nhìn chung khá khả quan, nhưng các nhà phê bình đều nhất trí rằng đây là album ít gây ấn tượng nhất của Jackson vì nó quá dài. Allmusic chấm 3/5 sao và nói rằng "Rốt cuộc đĩa này quá dài và đến nửa chừng thì làm mất sự hứng thú... Nó không đủ để khiến Invincible có thể trở thành cú tái xuất ngoạn mục mà Jackson đang cần..."[154]. Rolling Stone cũng chấm 3 sao, cho rằng những ca khúc R&B đầu rất hay nhưng những bản ballad sau khiến cho album dài lê thê[155]. Nhà phê bình Robert Christgau cho điểm A- và nhận xét: "Kỹ năng của anh không hề suy giảm. Chất funk của anh mạnh mẽ hơn và các bản ballad cũng nhẹ nhàng hơn, cả hai gây hiệu ứng mạnh. 78 phút là quá dài"[156]. Đây cũng là mức điểm mà anh chấm cho album Thriller lúc nó chính thức được phát hành[157]. Jackson và những người ủng hộ anh cho rằng những nhận định đó là không công bằng, cũng như việc bàn luận về những hình ảnh lập dị hay rắc rối trong quá khứ của anh, và còn biến anh trở thành đề tài để chế nhạo[158]. NME gọi anh là kẻ "cực kỳ lập dị" (Fucking freak) và "ngu ngốc" (a bit of a wanker)[159]. Allmusic thì nói về những vụ xì căng đan và các tin đồn về tình hình tài chính đang suy giảm của ca sĩ[154]. Robert Chrisgau tin rằng "Jackson có một lối sống kì quái được thổi phồng bởi sự giàu có kếch xù". Ông cũng bày tỏ quan điểm của mình rằng chuyện Jackson hát về việc giúp đỡ trẻ em nghe thật "chướng tai"[156].

Ngày 7 tháng 910 tháng 9 năm 2001, Michael Jackson đã tổ chức buổi hòa nhạc hoành tráng kỷ niệm 30 năm sự nghiệp hát đơn của anh tại Madison Square Garden, thành phố New York[150]. Buổi hòa nhạc còn có sự góp mặt của các ca sĩ tên tuổi khác như Whitney Houston, Britney Spears, Usher, Mýa, 'N Sync[160], được trình chiếu trên truyền hình ngày 13 tháng 11.

Trong quá trình sản xuất album, Michael Jackson quyết định cùng 35 ca sĩ khác thu âm một ca khúc từ thiện tên là "What More Can I Give" nhằm quyên tiền cho những nạn nhân của vụ khủng bố 11 tháng 9 vừa mới xảy ra trước đó. Sau sự kiện này, anh xuất hiện trong buổi hòa nhạc từ thiện United We Stand: What More Can I Give tại sân vận động RFK, thủ đô Washington D.C. với màn trình diễn ca khúc "What More Can I Give" để kết thúc chương trình.

Tháng 11 2003 Michael Jackson và Sony Records phát hành một đĩa hát sưu tập các ca khúc thành công dưới dạng CDDVD mang tên Number Ones, bán được 6 triệu đĩa trên thế giới[161]. Tuy nhiên, một sự việc không hay đã xảy ra với Michael. Trong khi anh đang quay video cho bài hát "One More Chance", vốn là ca khúc mới duy nhất trong album tại Las Vegas thì sở cảnh sát hạt Santa Barbara, California đã tiến hành lục soát điền trang Neverland của anh và ra lệnh bắt giữ. Anh bị Gavin Arvizo tố cáo quấy rối tình dục trẻ em[162]. Cậu bé này đã xuất hiện trong bộ phim tài liệu Living With Michael Jackson không lâu trước đó.

2003–09: Vụ kiện lạm dụng tình dục thứ hai và những năm cuối đời

Sau khi được tòa tuyên trắng án, Michael Jackson đã chuyển tới sống tại đảo quốc vùng Vịnh Bahrain[163], ở đó anh mua một ngôi biệt thự trước đây từng được một thành viên Quốc hội của Bahrain sở hữu. Jackson dành thời gian để viết những nhạc phẩm mới, trong đó có một đĩa đơn nhằm ủng hộ cho các nạn nhân trận bão Katrina với nhan đề "I Have This Dream". Nhiều ca sĩ nổi tiếng thông báo rằng họ đã góp giọng cho ca khúc mới của Michael Jackson. Tuy nhiên sau nhiều lần trì hoãn, đĩa đơn đã không bao giờ được phát hành.

Michael Jackson lần đầu tiên xuất hiện trước công chúng sau phiên tòa xét xử vào tháng 11 năm 2006 khi anh đến thăm văn phòng Luân Đôn của Kỷ lục Gunness thế giới. Anh nhận được 8 kỷ lục trong đó có "Nhân vật giải trí đầu tiên kiếm được 100 triệu đô-la trong một năm" và "Nhân vật giải trí đầu tiên bán được hơn 100 triệu album ngoài Hoa Kỳ"[142]. Anh cũng được trao "Giải thưởng Kim cương" tại lễ trao giải thưởng âm nhạc thế giới ngày 15 tháng 11 năm 2006[125]. Năm 2007, Jackson và hãng đĩa Sony đã mua Famous Music từ Viacom. Nhờ thỏa thuận này mà anh có bản quyền với các bài hát của Eminem, Shakira, Beck và nhiều nghệ sĩ khác[164].

Tháng 2 năm 2008, Michael Jackson phát hành album Thriller 25 gồm hai đĩa nhằm kỷ niệm 25 năm ngày ra đời của album để đời Thriller. ALbum này gồm 9 ca khúc trong album nguyên bản nhưng đã được phối khí lại và một bài hát mới là "For All Time". Hai đĩa đơn được phát hành từ album tạm thu được thành công: "The Girl Is Mine 2008" và "Wanna Be Startin' Somethin' 2008". Tuy chỉ là phát hành lại nhưng Thriller 25 vẫn thành công về mặt thương mại, đạt vị trí quán quân tại 8 quốc gia[165][166][167]. Tại hai thị trường chính là MỹLiên Hiệp Anh, album đạt hạng 2 và 3. Ở Mỹ, album chỉ cần khoảng 14,000 bản nữa là đạt vị trí cao nhất khi bán được 166,000 bản. Trong vòng 12 tuần, album bán được hơn nửa triệu đĩa tại Mỹ[168] và 3 triệu đĩa trên toàn thế giới[169].

Để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 50 của Jackson, hãng Sony BGM phát hành album sưu tập với tên gọi King of Pop tại nhiều quốc gia. Album này bao gồm những ca khúc trong sự nghiệp với ban nhạc và hát đơn của anh, tất cả đều được tuyển chọn bởi những người hâm mộ. Hãng Sony còn thêm vào nhiều ca khúc hiếm thấy từ trước đó. Album này có nhiều danh sách ca khúc khác nhau phụ thuộc vào việc bầu của người hâm mộ tại mỗi quốc gia[170][171]. King of Pop cũng đã lọt vào top 10 tại nhiều quốc gia mà nó được phát hành[172][173].

Từ ngày 8 tháng 7 năm 2009 tới 24 tháng 2 năm 2010, Michael Jackson tổ chức chuyến lưu diễn mang tên This Is It bao gồm 50 buổi diễn đã bán hết vé với hơn một triệu khán giả tại nhà thi đấu O2. Theo như trang điện tử của Jackson thì doanh thu từ việc bán vé phá vỡ nhiều kỷ lục. Trong một cuộc họp báo về This Is It, Jackson có nói bóng gió về việc anh sẽ từ giã sự nghiệp[174]. Randy Phillips, chủ tịch của AEG Live khẳng định rằng chỉ riêng 10 buổi diễn đầu cũng đã mang về cho Jackson khoản thu nhập gần 50 triệu bảng Anh[175].

Qua đời

Ngày 25 tháng 6 năm 2009, Michael Jackson đột tử tại ngôi nhà anh đang thuê ở khu vực đồi Holmby, Los Angeles. Một số bản báo cáo cho biết trước khi Jackson ngừng thở không lâu, anh đã nhận những mũi tiêm chứa chất Demerol, một loại thuốc giảm đau loại mạnh tương tự như morphine mà theo một số người bạn của Jackson thì anh đã bị nghiện[176]. Bác sĩ riêng của Jackson,Conrad Murray,nói rằng ông nhìn thấy Jackson trên giường trong tình trạng không thở nhưng mạch vẫn còn đập yếu và đã tiến hành hồi sức cho quả tim nhưng không có hiệu quả[177]. Sở cứu hỏa Los Angeles nhận được một cuộc gọi 911 lúc 12:22 chiều. Xe cứu thương tới nơi muộn mất 3 phút 22 giây và đưa Jackson đi cấp cứu tại trung tâm y tế UCLA[178][179]. Việc hô hấp nhân tạo vẫn tiếp tục được thực hiện nhưng đã quá muộn. Jermaine, anh trai của Michael, chính thức thông báo ca sĩ Michael Jackson đã qua đời vào lúc 2:25 chiều giờ địa phương (21:25 UTC)[180][181].

Tin tức về cái chết của Michael Jackson đã làm tăng đột biến việc truy cập mạng Internet, gây nên tình trạng quá tải[182]. Một số trang điện tử xảy ra lỗi do lượng truy cập quá lớn như Google[183], Facebook[184], Twitter[185]Wikipedia[186]. Những người bạn, người hâm mộ cũng như các ngôi sao ca nhạc đều bày tỏ niềm tiếc thương tới cái chết đột ngột của Jackson như Elizabeth Taylor[187], Diana Ross, Madonna[188] và vợ cũ Lisa Marie Presley[189]. Những album của anh gần như ngay lập tức cũng được bán hết và quay trở lại dẫn đầu nhiều bảng xếp hạng trong đó có Anh[190].

Buổi lễ tưởng nhớ Michael Jackson được tổ chức tại Staples, Los Angeles vào ngày 7 tháng 7, theo sau buổi lễ cầu nguyện của riêng gia đình Jackson tại Forest Lawn Memorial Park's Hall of Liberty. Chiếc quan tài mạ vàng được đặt ngay dưới sân khấu trong suốt buổi lễ nhưng vẫn không có thông tin nào về nơi an nghỉ cuối cùng của anh. Trong khi một vài bản báo cáo không chính thức xác nhận rằng lượng khán giả theo dõi buổi lễ trên toàn cầu lên tới 1 tỉ người[191], số khản giá Mỹ ước lượng bởi Nelson vào khoảng 31,1 triệu. Con số này có thể so sánh với lượng người Mỹ theo dõi lễ chôn cất cựu tổng thống Ronald Reagan (35,1 triệu) và lễ tang công nương Diana (33,1 triệu)[192]. Đứa con gái tên Paris của anh cũng đã đọc để bày tỏ những lời ấm ủ về anh trước công chúng, nói về anh như một người cha rất tốt.[193]

Nguyên nhân cái chết của anh vẫn còn gây tranh cãi, đã có nhiều người tin rằng anh chết vì do uống thuốc giảm đau quá liều.[194] Người được cho là chịu trách nhiệm cho cái chết của anh là tiến sĩ Conrad Robert Murray là bác sĩ điều trị cho Michael Jackson trong ba năm tính đến lúc anh chết. Ông đã cho Jackson uống thuốc giảm đau cực mạnh Demerol. [195]

Đời tư

Hôn nhân gia đình

Lisa Marie Presley, con gái huyền thoại âm nhạc Elvis Presley, kết hôn với Michael Jackson năm 1994.

Năm 1994 Michael Jackson kết hôn với Lisa Marie Presley, con gái Elvis Presley. Hai người gặp nhau lần đầu năm 1975 trong lễ đính hôn của một thành viên gia đình Jackson tại MGM Grand và trở thành bạn của nhau[196]. Hằng ngày họ thường xuyên liên lạc với nhau bằng điện thoại. Vì những lời cáo buộc xâm hại tình dục trẻ em, Jackson nhận được nhiều lời động viên tinh thần từ Lisa, cô quan tâm đến tình hình sức khỏe sút kém và nghiện thuốc phiện của anh[197]. Cô giải thích: "Tôi tin rằng Michael đã không làm gì sai, anh ấy đã bị vu cáo. Và tôi bắt đầu yêu anh ấy. Tôi muốn giúp đỡ Michael. Tôi cảm thấy mình có thể làm được việc đó"[198]. Một lần Michael gọi điện cho Lisa, cô nói rằng anh đang "nói năng lảm nhảm và bị ảo tưởng"[197]. Sau đó, cô thuyết phục Jackson giải quyết vụ bê bối xâm hại tình dục trẻ em ngoài tòa án và đi cai nghiện ma túy.[199]

Jackson cầu hôn với Presley qua điện thoại vào mùa thu năm 1993. Anh nói "Nếu anh muốn cưới em, em sẽ đồng ý chứ?"[199] Hai người kết hôn tại Cộng hòa Dominica trong vòng bí mật, và liên tiếp phủ nhận đã cưới nhau trong gần hai tháng sau đó.[200] Vào thời điểm đó, các báo lá cải cho rằng đám cưới là một mưu mẹo nhằm nâng cấp hình ảnh công chúng của Jackson[200]. Hai năm sau, hai người ly dị nhưng vẫn là bạn của nhau[201].

Jackson đưa con trai đi chơi công viên. Do nhạy cảm với ánh sáng Mặt Trời từ chứng bạch biến, anh luôn phải đeo kính râm và che ô kín mít.

Tháng 11 năm 1996, trong chuyến lưu diễn HIStory World Tour, Jackson kết hôn với y tá da liễu tên là Deborah Jeanne Rowe. Hai người có với nhau hai người con: một trai tên Prince Michael Joseph Jackson Jr. (được biết đến với tên "Prince") và một gái tên Paris Michael Katherine Jackson[201][202]. Hai người gặp nhau từ giữa những năm 80 khi Jackson bắt đầu bị chẩn đoán mắc chứng bạch biến. Rowe giành nhiều thời gian chăm sóc, động viên Jackson và xây dựng tình bạn giữa họ trước khi bắt đầu yêu nhau[203]. Không có kế hoạch kết hôn nhưng vì Rowe mang thai, mẹ Jackson đã can thiệp và thuyết phục họ cưới nhau[204]. Cặp đôi ly dị năm 1999 và Rowe trao hết quyền nuôi con cho Jackson[205]. Sau đó trong chương trình Living with Michael Jackson, anh đã nói rằng anh và Debbie Rowe có một thoả thuận, rằng Debbie sẽ sinh con cho Michael. Debbie đã nói rằng "Tôi sẽ giúp anh có con" khi thấy anh đang buồn và thèm khát có những đứa con của riêng mình. Tuy nhiên đến năm 2006, anh đã đồng ý để cô cùng nuôi con với anh[205]. Sau khi anh mất, có tin lá cải đồn rằng Debbie Rowe nói 2 đứa con mà cô có với anh không phải là con đẻ của anh. Nhưng sau đó Debbie Rowe đã chính thức phủ nhận tin đồn này.

Đứa con thứ ba của Jackson tên là Prince Michael Jackson Jr II (được biết đến với tên khác là Blanket) sinh năm 2002[206]. Jackson chưa bao giờ tiết lộ danh tính của mẹ đứa trẻ. Anh nói rằng đây là kết quả của quá trình thụ tinh trong ống nghiệm từ trứng của một người phụ nữ đến nay vẫn chưa được công bố danh tính và tinh trùng của anh[205]. Tháng 11 năm đó Jackson đem con mình ra trước ban công khách sạn anh ở. Bế con bằng tay phải, anh đã giơ con mình ra ngoài lan can ban công trong một khoảnh khắc ngắn để khoe với những người hâm mộ. Hành động liều lĩnh đã bị dư luận chỉ trích.[207].

Công tác từ thiện

Tháng 3 năm 1988, Jackson tậu một mảnh đất gần Santa Ynez, California để xây dựng điền trang Neverland Ranch với chi phí 17 triệu USD. Mảnh đất rộng 2.700 mẫu Anh (tương đương 11 km2), có nhiều vòng đu quay, một rạp xiếc thú, một rạp hát và 40 nhân viên an ninh. Tài sản này được ước tính khoảng 100 triệu USD vào năm 2003[148][208]. Chỉ tính riêng năm 1989, tổng thu nhập của Jackson từ đĩa hát, lưu diễn, quảng cáo cũng đã lên tới 125 triệu USD[142].

Jackson sáng lập "Quỹ từ thiện Heal the world" năm 1992. Tổ chức này có nhiệm vụ đưa trẻ em không nơi nương tựa về điền trang Neverland Ranch và đã gửi hàng triệu USD trợ giúp trẻ em vùng đang có chiến tranh và dịch bệnh. Với chuyến lưu diễn Dangerous World Tour, Jackson đã hiến tất cả số tiền lợi nhuận vào quỹ và quyên thêm được hàng chục triệu đôla nữa[127]. Anh cũng hiến luôn tiền bản quyền công chiếu chuyến lưu diễn trên kênh HBO với giá 20 triệu USD[209]. Sau cái chết của Ryan White, Jackson hướng sự chú ý của dư luận tới đại dịch HIV/AIDS, một vấn đề vẫn còn gây tranh cãi lúc bấy giờ. Anh cũng lên tiếng cầu xin chính quyền tại lễ nhậm chức tổng thống của Bill Clinton, rằng hãy chi nhiều tiền hơn để nghiên cứu và cứu giúp bệnh nhân HIV/AIDS[210][211].

Trong suốt tháng 6 năm 1999, Jackson tham gia vào nhiều hoạt động từ thiện. Anh biểu diễn cùng nam ca sĩ opera Luciano Pavarotti tại một buổi hòa nhạc từ thiện ở Modena, Ý để ủng hộ cho tổ chức phi lợi nhuận Warchid và quyên hàng triệu đôla cho người tị nạn ở Kosovo và trẻ em ở Guatemala[212]. Một tháng sau đó Jackson tổ chức chương trình hòa nhạc "Michael Jackson và những người bạn" tại ĐứcHàn Quốc. Các ca sĩ khách mời có Slash, The Scorpions, Boyz II Men, Luther Vandross, Mariah Carey, Andrea Bocelli và Luciano Pavarotti. Tiền thu được gửi tới "Quỹ trẻ em Nelson Mandela", Hội Chữ Thập đỏ quốc tếUNESCO[213].

Vấn đề sức khỏe và thay đổi ngoại hình

Khuôn mặt Jackson sau khi bị chẩn đoán mắc chứng bạch biến.

Năm 1986, một số tờ báo lá cải đưa tin Jackson ngủ trong những phòng bội áp khí ôxy để ngăn chặn quá trình lão hóa. Sau đó, tin này đã được phủ nhận. Lúc đó anh đang quảng cáo cho bộ phim Captain EO sắp ra mắt và muốn mượn hình ảnh viễn tưởng ấy để quảng bá sản phẩm của mình[214][215].

Màu da của Jackson thuộc loại nâu trung bình trong suốt thời thơ ấu, nhưng bắt đầu đến những năm 1980 thì da anh càng ngày càng trở nên nhạt màu. Sự thay đổi gây ra nhiều hoài nghi đối với công chúng, trong đó có tin đồn rằng anh đang tẩy da[134]. Khoảng giữa thập niên này, Jackson bị chẩn đoán là mắc bệnh bạch biếnluput, cả hai bệnh này khiến anh rất nhạy cảm với ánh sáng mặt trời. Quá trình điều trị càng ngày càng làm da anh trắng hơn, và việc sử dụng phấn trang điểm để che đi những vùng da xấu trên mặt cũng làm Jackson trông rất trắng.[216]. Cấu trúc xương mặt của Jackson cũng thay đổi; một số bác sĩ cho rằng anh đã trải qua nhiều cuộc phẫu thuật mũi, nâng trán, làm mỏng môi, và chỉnh xương gò má[217]. Những thay đổi trên khuôn mặt Jackson một phần còn là do những giai đoạn giảm cân mạnh[218]. Đầu thập niên 80, anh trở nên mảnh dẻ hơn do thay đổi chế độ ăn và mong muốn có "thân hình của vũ công"[219]. Nhiều nhân chứng nói rằng Jackson thường xuyên hoa mắt chóng mặt và biếng ăn[220]. Nhiều chuyên gia y học cho biết họ tin rằng chàng ca sĩ đang mắc chứng mặc cảm ngoại hình hay còn có tên gọi khác là rối loạn khiếm khuyết hình thể, một rối loạn về tâm lý mà người bệnh lo lắng quá mức về một khiếm khuyết nhỏ hay một khiếm khuyết tưởng tượng trên cơ thể mình.[216].

Bị cáo buộc quấy rối tình dục trẻ em

Michael Jackson bắt đầu bị buộc tội xâm hại tình dục trẻ em bởi một cậu bé 13 tuổi tên là Jordan Chandler và cha của cậu, Evan Chandler[222]. Tình bạn trước đó giữa hai người lớn tan vỡ. Even có nói: "Nếu tôi thắng vụ này, tôi sẽ là người thành công nhất. Không có cửa nào để tôi thua cả. Tôi sẽ lấy được tất cả những gì tôi muốn và sự nghiệp của Michael Jackson sẽ tan tành mây khói"[223]. Lần đầu tiên gặp Jackson, Jordan đang sống với cha dượng và mẹ ruột. Một năm sau, khi gặp lại cha ruột, cha cậu nghi ngờ về mối quan hệ của cậu với Jackson. Vì cậu vốn là người hâm mộ cuồng nhiệt của Jackson nên đã từ chối kể cho cha về quan hệ của hai người. Sau đó, cha của Jordan đã đưa cho cậu thuốc an thần và dưới tác dụng của thuốc an thần, Jordan kể với cha rằng Jackson đã chạm vào dương vật của cậu.[224]. Evan và Jackson đã định giải quyết vấn đề ngoài vòng pháp luật bằng tài chính nhưng cuối cùng đã không thành công do Jackson còn đưa ra nhiều yêu cầu ngược lại đối với cha con Chandler. Jordan Chandler đã kể với các chuyên gia tâm lý, sau là với cảnh sát, rằng Michael Jackson đã thực hiện những hành động như tình dục bằng miệng và những lời mô tả chi tiết mà theo như cậu là bộ phận sinh dục của ca sĩ[225].

Một cuộc điều tra chính thức bắt đầu và điền trang Neverland Ranch bị lục soát. Nhiều trẻ em sống trong đó và các thành viên gia đình phủ nhận rằng Jackson là loại người có khoái cảm tình dục với trẻ em[225]. Hình ảnh của ca sĩ càng bị tổn hại khi chính chị gái của anh là La Toya Jackson đã lên tiếng nói anh là con người như vậy bằng một phát biểu mà sau đó đã bị cô rút lại[226]. Jackson đồng ý để cảnh sát lục soát trong vòng 25 phút nhằm tìm ta bằng chứng liệu những lời miêu tả của Jordan có chính xác hay không. Các bác sĩ kết luận rằng có nhiều điểm giống nhau rõ ràng nhưng đó chưa phải là kết luận cuối cùng[226]. Jackson đã công khai đưa ra lời tuyên bố mùi mẫn, nói rằng anh hoàn toàn vô tội, chỉ trích những gì mà anh cho là thành kiến của giới truyền thông đồng thời cũng nói về kết quả cuộc lục soát[222].

Jackson bắt đầu dùng thuốc giảm đau để giảm stress vì những lời cáo buộc anh. Mùa thu năm 1993, anh bắt đầu nghiện thuốc phiện[197]. Sức khỏe của anh xuống đến độ phải hủy bỏ những buổi biểu diễn còn lại trong chuyến lưu diễn Dangerous World Tour và anh phải đến trung tâm cai nghiện trong vài tháng[227]. Sự căng thẳng cũng làm Jackson chán ăn, dẫn đến việc sụt nhiều cân [228]. Lo ngại anh không thể chịu đựng lâu dưới một sức ép như vậy, bạn bè và các chuyên gia tư vấn pháp lý đã khuyên anh hãy giải quyết vấn đề này ngoài vòng pháp luật[227][228].

Mười năm sau, 2003, Jackson lại bị một cậu bé khác tên là Gavin Arvizo, lúc đó 14 tuổi, buộc tội ở 7 điểm về vấn đề xâm hại tình dục trẻ em. Đầu năm đó, kênh truyền hình Granada của Anh có phát sóng một bộ phim tài liệu có cảnh Jackson nắm tay và bình luận về việc chia sẻ giường ngủ với Arvizo[229]. Cũng trong bộ phim tài liệu này, người xem còn được chứng kiến Jackson đã mạnh tay chi một khoản tiền lớn vào những việc lặt vặt, những 6 triệu USD trong một cửa hàng[148] cho Gavin Arvizo. Anh sau đó đã bác bỏ lời buộc tội. Nữ diễn viên Elizabeth Taylor, bạn của anh, đã lên tiếng bênh vực trên chương trình Larry King Live, nói rằng bà đã ở đấy khi họ "trên giường và xem tivi. Chẳng có gì bất bình thường về việc đó cả. Cũng chẳng có gì nhạy cảm xảy ra. Chúng tôi cười như những đứa trẻ và xem rất nhiều Walt Disney. Tóm lại là không có gì kỳ cục cả"[230]. Khuôn mặt nhìn nghiêng của Michael được giám định bởi một chuyên gia thần kinh tên là Stan Katz. Ông này cũng dành nhiều giờ để làm việc cùng với nguyên cáo. Theo như đánh giá của Katz thì Jackson dường như đã quay ngược trở lại như một đứa trẻ mới lên 10 và không có dấu hiệu của một người có khoái cảm tình dục với trẻ em[231].

Chịu đựng phiên tòa xét xử sắp tới, Jackson trở nên phụ thuộc vào thuốc giảm đau gây nghiện như morphine hay demetrol, nhưng sau đó anh đã bỏ được[232]. Phiên tòa People v. Jackson bắt đầu tại hạt Santa Maria, California, hai năm sau khi anh chính thức bị buộc tội. Phiên tòa này kéo dài 5 tháng đến tận tháng 5 năm 2005 mới kết thúc. Trong suốt quá trình này, anh một lần nữa phải trải qua những trận ốm vì căng thẳng và sút cân, càng làm biến đổi dung nhan của anh[233]. Trong tháng 6, anh hoàn toàn được trắng án ở tất cả điểm luận tội[234]. Sau đó anh đã chuyển tới định cư ở đảo quốc Bahrainvịnh Persian[235].

Phong cách nghệ thuật

Ảnh hưởng

Chủ đề và thể loại

Steve Huey của Allmusic khẳng định rằng trong suốt sự nghiệp solo, tài năng của Michael Jackson đã tạo điều kiện cho anh có cơ hội thử sức với hàng loạt chủ đề và thể loại âm nhạc khác nhau[2]. Là một nhạc sĩ, Jackson đã kết hợp cả những nhịp điệu funk với các bản guitar mạnh mẽ của rock. Không giống như nhiều nhạc sĩ khác, Jackson đã không sáng tác trên giấy mà thay vào đó là thu âm bằng một máy thu thanh. Trong khi thu âm thì anh hát lại bằng trí nhớ của mình[237][238]. Nhiều nhà phê bình nhận thấy rằng album Off the Wall là sự kết hợp của funk, disco-pop, soul, soft rock, jazz và pop ballad[2][239][240]. Ví dụ tiêu biểu là bản ballad "She's out of My Life", và hai bản disco "Workin' Day and Night" và "Get on the Floor".[239]

Nhạc mẫu:
    Michael Jackson - "Thriller"
    Trích đoạn "Thriller", một trong những ca khúc dễ nhận biết nhất của Michael Jackson, phát hành dưới dạng đĩa đơn năm 1984. Jackson đã sử dụng những hiệu ứng âm thanh điện ảnh và nhạc tố phim kinh dị để truyền tải nỗi sợ hãi đến người nghe.
  • Trục trặc khi nghe? Xem hướng dẫn.

Cũng theo Huey, album Thriller là sự trau chuốt hơn những điểm mạnh của Off the Wall[2]. Những bản dance và rock đã trở nên kích động hơn, trong khi những giai điệu pop và ballad dường như trở nên nhẹ nhàng và truyền cảm hơn. Ca khúc nổi bật gồm các bản ballad "The Lady in My Life", "Human Nature" và "The Girl Is Mine". Mảng nhạc funk gồm "Billie Jean" và "Wanna Be Startin' Somethin'". Disco thì có "Baby Be Mine" and "P.Y.T. (Pretty Young Thing)"[2][241][242][243]. Với Thriller, Christopher Conelly của Rolling Stone bình luận rằng Jackson đã mở rộng sự kết hợp với đề tài hoang tưởng và hình ảnh bí ẩn. Stephen Erlewine của Allmusic nhấn mạnh rằng đây là điều hiển nhiên ở những bài hát như "Billie Jean" hay "Wanna Be Startin' Somethin'"[242]. Với "Billie Jean", Jackson hát về một người hâm mộ nữ đã coi anh là bố của những đứa trẻ con cô ta[2]. Còn với "Wanna Be Startin' Somethin'", anh đã thúc giục người nghe chống lại những chuyện tầm phào của giới truyền thông. Ca khúc rock "Beat It" mang ý nghĩa chống lại bạo lực trong những băng đảng xã hội đen và đây được coi là bản rock thành công ban đầu của Jackson theo như Huey[2]. Huey cũng để ý rằng ca khúc cùng tên album, "Thriller" đã bắt đầu cho thấy sự hứng thú của Jackson về sự siêu nhiên, một chủ đề mà anh đã lặp lại trong những năm tiếp theo[2]. Năm 1985, Michael Jackson cùng Lionel Richie sáng tác ca khúc "We Are The World" với nội dung nhân đạo, chủ đề mà sau này đã trở thành phần trung tâm trong cuộc đời và sự nghiệp của anh[2].

Ở album Bad, khái niệm của Jackson về tình yêu có tính chất vụ lợi có thể thấy ở bài "Dirty Diana"[244]. Đĩa đơn đầu tiên "I Just Can't Stop Loving You" là một bản ballad tình yêu truyền thống trong khi "Man In The Mirror" lại nói về sự thú nhận và quyết tâm. "Smooth Criminal" thì gợi lên những cuộc xô xát đẫm máu, hiếp dâm và thậm chí là giết người. Stephen Erlewine cho rằng album Dangerous đã cho thấy Jackson như một cá nhân hoàn toàn ngược đời[245]. Ông bình luận rằng album đa dạng hơn những album trước đó vì nó vừa hấp dẫn dân đường phố lại vừa thu hút giời trung lưu với những bài kiểu như "Heal The World"[245]. Đây là album đầu tiên của Jackson mà những mặt yếu kém của xã hội đã trở thành chủ đề chính. Nửa đầu của album hướng về dòng nhạc swing bao gồm các bài như "Jam" và "Remember The Time"[246]. "Why You Wanna Trip on Me" là một ví dụ phản ảnh nạn đói, AIDS, nghiện hút và vô gia cư trên thế giới[246]. Dangerous còn chứa những đề cập về vấn đề giới tính như trong "In The Closet"-một nhạc phẩm nói về dục vọng và phủ nhận, mạo hiểm và đàn áp, cô đơn và kết nối, riêng tư và khám phá[246]. Bài "Dangerous" tiếp tục chủ đề về tình yêu vụ lợi và dục vọng ép buộc[246]. Nửa sau album gồm những ca khúc mang tính hướng nội nhiều hơn, với những nhạc phẩm cho thấy một Jackson đã biết mở rộng đến những đấu tranh nội tâm. Anh đã viết ca khúc "Gone Too Soon" để tưởng nhớ người bạn trẻ Ryan White và cảnh ngộ khốn khó của nạn nhân bệnh AIDS[211]. Album cũng chứa một trong những bản power ballad đầu tiên, "Give In To Me"[246].

Album HIStory thì tạo ra một không khí đầy hoang tưởng[247]. Nội dung của nó tập trung vào sự gian khổ và kiên trì đấu tranh của Michael Jackson trước khi cho ra đời những sản phẩm nghệ thuật. Bài "Scream" song ca cùng cô em gái Janet Jackson và "Tabloid Junkie" cùng với bản ballad R&B "You Are Not Alone" là sự đáp trả lại sự bất công và cô đơn mà anh cảm nhận, trực tiếp hơn là sự phẫn nộ trước những xoi mói thái quá của giới truyền thông[248]. Với "D.S.", Jackson đã chỉ trích Tom Sneddon như một kẻ chống lại xã hội, kẻ coi người da trắng là thượng đẳng, ưu việt. Invincible cho thấy Jackson đã phải làm việc rất vất vả với nhà sản xuất Rodney Jerkins[2]. Đó là bản thu âm tạo bởi nhạc urban soul như các bài "Cry", "The Lost Children", những bản ballad như "Speechless", "Break of Dawn" và "Butterflies"[154][159], pha trộn thêm hip-hop, pop, rap trong "2000 Watts", "Heartbreaker" và "Invincible"[159].

Giọng hát

Audio sample:
    Michael Jackson - "Black or White"
    Đĩa đơn đầu tiên từ Dangerous, một trong những bài hát thành công nhất của Jackson. Tuy nhạc Pop là chủ đạo nhưng bài hát vẫn có chút âm hưởng của hard rock và R&B.[249] Ca khúc cho thấy khả năng hát của Jackson theo nhiều phong cách khác nhau, trong đó có cả giọng nấc mà anh rất hay sử dụng những năm trước đó.
  • Trục trặc khi nghe? Xem hướng dẫn.

Michael Jackson có chất giọng trong và thanh, hơi giống giọng nữ. Phong cách âm nhạc của anh dựa trên nền tảng hát đơn, học hỏi thêm tiết tấu jazz blues, đồng thời kế thừa các đặc điểm từ The BeatlesThe Rolling Stones. Anh bắt đầu hát khi còn là một đứa trẻ và trải qua năm tháng thì giọng và cách hát đã có những thay đổi đáng chú ý. Trong những năm 1971 đến 1975, giọng của anh đã "giảm một cách nhẹ nhàng từ một giọng nữ cao của một cậu bé tới kiểu giọng mái (một giọng nam cao lưỡng tính) đầy quyến rũ như hiện nay"[208]. Khoảng giữa những năm 1970 thì Jackson đã bắt đầu quen hát kiểu nấc, có thể thấy trong bài "Shake Your Body (Down to the Ground)". Mục đích của cách hát nấc - một chút giống như việc nuốt không khí hoặc thở hổn hển - là để giúp tăng cảm hứng; tạo nên sự sôi nổi, buồn bã hoặc sợ hãi[250]. Với sự ra đời của Off the Wall cuối thập niên 1970, năng lực của Jackson như một ca sĩ thực thụ đã được công nhận[239]. Thời gian đó, Rolling Stone đã so sánh giọng của anh như "nói lắp nín thở, vẩn vơ" theo kiểu Stevie Wonder. Họ cũng phân tích rằng "giọng hát vừa mềm mại vừa cứng cáp của Jackson thật tuyệt vời. Nó đi một cách nhẹ nhàng đến một chất giọng falsetto đáng ngạc nhiên thật táo bạo"[240]. Năm 1982 chứng kiến sự phát hành của Thriller, Rolling Stone cho rằng anh đang hát với một "giọng hát hoàn toàn trưởng thành" mà "đượm chút buồn"[243].

Album Bad năm 1987 cho thấy giọng hát gai góc trong phần tiền khúc và mềm mại trong phần điệp khúc của các bài hát[251]. Jackson thường xuyên cố tình phát âm sai, thỉnh thoảng đánh vần là "cha'mone" hay "shamone"[252]. Sự quay trở lại trong thập niên 1990 với phát hành album Dangerous mang nhiều tính nội tâm, Jackson tiếp tục sử dụng thế mạnh về giọng hát của mình để làm sâu sắc thêm những chủ đề và thể loại nhạc trong các album trước đó của mình. Thời báo New York cho rằng trong một số track, Jackson như "nín thở", giọng anh run run khi nhắc đến những mối lo toan hay rơi xuống "những lời thì thầm tuyệt vọng", "rít lên giận dữ qua những tiếng nghiến răng" và anh có một "giọng hát đầy đau khổ"[246]. Còn khi hát về tình anh em hay lòng tự trọng, giọng ca của ca sĩ dường như trở nên mềm mại hơn[246]. Bài "In the Closet" chứa đựng tiếng thở nặng nề và tiếng loop 5 âm tiết scat, trong khi đó ở ca khúc cùng tên album, Jackson lại phô diễn khả năng rap của minh[246][253]. Khi nhận xét về album Invincible, tạp chí Rolling Stone cho rằng Michael Jackson, ở tuổi 43, vẫn còn biểu diễn "những ca khúc mang giai điệu giọng thanh thoát và sự hòa giọng ngân vang"[155]. Nelson George kết luận giọng hát của Jackson rằng, với "những sự thanh nhã, sự phản kháng, sự giận dữ, sự trẻ con, chất giọng mái, sự mềm mại, tất cả trở thành những yếu tố làm nên tên tuổi Michael Jackson như một giọng ca lớn"[253].

Video âm nhạc và vũ đạo

Michael Jackson nhảy múa cùng lũ thây ma trong video ca nhạc "Thriller" rất phổ biến thời bấy giờ.

Michael Jackson được cho là ca sĩ đầu tiên đã nâng giá trị của video ca nhạc trở thành một hình thức nghệ thuật và một công cụ quảng cáo thông qua lối kể chuyện, những bộ phim ngắn và sáng tác, dàn dựng những điệu nhảy mà đến ngày nay vẫn còn rất thịnh hành. Tiêu biểu là "Thriller" nhưng cũng có thể thấy điều này ở những video khác của Jackson như "Bad", "Smooth Criminal", "Remember the Time". Những cảnh quay nhảy nhóm được tiên phong bởi "Beat It" và phổ biến nhờ "Thriller" đã là một yếu tố chính trong các video ca nhạc suốt thời kỳ đó. Những điệu nhảy trong "Thriller" đã được phổ biến trong nền văn hoá đại chúng, được dựng lại ở khắp nơi, từ những bộ phim của Ấn Độ cho đến những nhà tùPhilippines[254][255]. Chìa khoá cho những thành công này của Jackson chính là mối quan hệ mật thiết với MTV, một kênh truyền hình âm nhạc trẻ tuổi được thành lập năm 1981. Nhờ đó mà những video ca nhạc của Jackson đã được trình chiếu với một tần suất cao. Năm 1983, khi Jackson xuất hiện với "Billie Jean", video đầu tiên từ album Thriller, MTV rất hiếm khi chiếu video của một ca sĩ người Mỹ gốc Phi[256] và nhanh chóng từ chối trình chiếu những video tiếp theo của anh. Nghe tin này, ông chủ hãng thu âm CBS Records đã rất tức giận và chỉ trích MTV. Thái độ quyết liệt của ông này khiến cho MTV phải thay đổi thái độ và bắt đầu trình chiếu "Billie Jean" với tần suất cao hơn, qua đó đặt nền móng cho mối quan hệ đắc lực kéo dài nhiều năm sau giữa Jackson và MTV và cả những nghệ sĩ da màu khác nữa[257]. Video ca nhạc dài 14 phút "Thriller" xuất hiện tháng 12 năm 1983 đã làm chao đảo kênh truyền hình này. Video đã mang đến cảm giác ly kỳ rùng rợn cho người xem khắp nước Mỹ, đặc biệt là trẻ em nhỏ tuổi. "Thriller" đã khởi đầu một kỷ nguyên mới của video ca nhạc và thường được sách kỷ lục Guinness coi là một trong những video ca nhạc thành công nhất mọi thời đại. Hưởng ứng ảnh hưởng của Michael Jackson, MTV bắt đầu có xu hướng trình chiếu video nhạc popR&B nhiều hơn thay cho nhạc rock[257][258].

Trong video 18 phút "Bad" đạo diễn bởi Martin Scorsese, Michael Jackson bắt đầu sử dụng hình tượng giới tính và khả năng biên đạo mà chưa từng thấy trước đó trong các sản phẩm của anh. Anh thỉnh thoảng túm lấy hoặc chạm vào ngực, thân mình và hạ bộ. Khi mà anh miêu tả đó là "biên đạo múa", nó đã nhận được những sự khen chê lẫn lộn từ cả người hâm mộ lẫn nhà phê bình. Tạp chí Time coi nó là điều "đáng hổ thẹn"[259]. Với "Smooth Criminal", Jackson đã sáng tạo trong phần biểu diễn của mình một cú "ngả người chống lại trọng lực", mà đã được anh đăng ký bằng sáng chế ở Mỹ số 5,225,452[260]. Mặc dù video ca nhạc "Leave Me Alone" (1989) không được phát hành chính thức tại Mỹ nhưng nó được đề cử 4 giải Billboard hạng mục video ca nhạc và thắng 3 giải. Cùng năm đó nó đã giành giải thưởng Sư Tử Vàng cho chất lượng của hiệu ứng đặc biệt được nhà sản xuất sử dụng. Năm 1990, "Leave Me Alone" đã giành giải Grammy cho hạng mục "Video âm nhạc hình thái ngắn xuất sắc nhất"[261].

Năm 1988, giải thưởng tiên phong của MTV được trao cho Michael Jackson nhằm tôn vinh thành tựu nghệ thuật trong video ca nhạc của anh trong suốt thập niên 1980[127]. Kèm theo đĩa đơn "Black or White" là một video ca nhạc gây nhiều tranh cãi. Ngày 14 tháng 11 năm 1991, video được khởi chiếu cùng lúc tại 27 quốc gia với lượng người xem lên tới 500 triệu người, lại trở thành một kỷ lục nữa từ trước đến nay. Trong video này có nhiều cảnh có vẻ như bạo lực và gợi cảm mà một số người xem không ưa thích như việc đập phá phố phường, xé rách quần áo hay chà xát khu vực nhạy cảm. Những cảnh quay gây khó chịu ở nửa cuối của video được điều chỉnh lại nhằm tránh khỏi lệnh cấm chiếu, và Jackson đã lên tiếng xin lỗi công chúng[262]. Cùng với Jackson, những diễn viên khác như Macaulay Culkin, Peggy LiptonGeorge Wendt cũng xuất hiện trong video. Video cho "Remember the Time" được anh đầu tư kỹ lưỡng và trở thành một trong những video dài nhất của anh, với thời lượng hơn 9 phút. Lấy bối cảnh là Ai Cập cổ đại, nhà sản xuất phải sử dụng nhiều hiệu ứng thị giác, với sự tham gia của diễn viên Eddie Murphy, người mẫu Iman và vận động viên bóng rổ Magic Johnson, lần lượt trong các vai pharaoh, nữ hoàng và quan[263]. "In the Closet" là một trong những video gợi cảm nhất của Jackson cho tới bây giờ. Siêu mẫu Naomi Campbell xuất hiện trong video và thực hiện những điệu múa tình tứ với Jackson. Đó là lí do khiến nó bị cấm chiếu tại Nam Phi[127].

Video ca nhạc của "Scream", đạo diễn bởi Mark Romanek và thiết kế sản xuất bởi Tom Foden, là một trong những video được hoan nghênh từ giới phê bình. Năm 1995, nó nhận được 11 đề cử giải Video ca nhạc của MTV, nhiều hơn bất kỳ video nào khác, và giành được giải "Video nhảy xuất sắc nhất", "Bố trí đẹp nhất" và "Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất"[264]. Bài hát "Scream" và video của nó được cho là một nỗ lực phản kháng mạnh mẽ của hai anh em Jackson đối với lời buộc tội xâm hại tình dục trẻ em năm 1993[265]. Foden nói rằng "Mark đã viết ý tưởng để Michael và Janet ở trên một tàu vũ trụ rất lớn. Và họ chỉ có một mình... Họ đang trốn tránh khỏi Trái Đất. Mỗi cảnh là một môi trường khác nhau trên con tàu, nơi họ có thể tìm thấy chút ít niềm vui và thư giãn". Foden miêu tả nhiệm vụ của mình như "một quá trình hoạt động trong quân đội": "ý tưởng là mỗi một đạo diễn nghệ thuật đảm nhiệm 3 cảnh: một cảnh phức tạp, một cảnh không phức tạp lắm và một số họa tiết nhỏ và dễ thực hiện hơn". Một năm sau, video giành một giải Grammy hạng mục "Video âm nhạc hình thái ngắn xuất sắc nhất" và sau đó được sách kỷ lục Guinness ghi nhận là video ca nhạc có chi phí đầu tư lớn nhất mọi thời đại với 7 triệu USD[140][266]. Video "Earth Song" tuy chỉ được đề cử Grammy nhưng cũng được coi là một thành công của Jackson. Trong video clip có những cảnh quay về sự tàn phá của con người với thiên nhiên như chặt phá rừng, săn voi lấy ngà cùng với đó là sự suy thoái của môi trường khi các nhà máy liên tục xả ống khói lên bầu trời; tiếp theo là cảnh chiến tranh loạn lạc giết hại những con người vô tội và cuối cùng là nguyện vọng của ca sĩ, sự tái sinh của Trái Đất cùng những con người đã chết trong chiến tranh, các nhà máy ngừng xả khói, những động thực vật hồi sinh[140][267]. Phát hành năm 1997 và khởi chiếu một năm trước đó tại Liên hoan phim Cannes, Ghosts dài đến nỗi được coi là một bộ phim ngắn, biên kịch bởi Jackson và Stephen King, đạo diễn bởi Stan Winston. Nó dài tới 38 phút và hiện đang giữ kỷ lục là video ca nhạc dài nhất thế giới theo sách kỷ lục Guinness[103][140][268][269].

Khả năng vũ đạo của Michael Jackson do thường xuyên được trau dồi, trở thành một phần quan trọng làm nên thành công của anh. Phong cách nhảy của anh vừa bốc lửa rạo rực, vừa yểu điệu, nhiều khi còn xen kẽ vài bước đi ngờ nghệch theo kiểu hề Charles. Theo như TIME thì anh "giam mình ở nhà, trong một căn phòng mà không có cái gương nào bởi gương sẽ làm bạn điệu... Từng động tác xoay tròn, nhún, nhấc chân, phanh áo rồi lắc người hay đứng như phỗng được kết hợp nhuần nhuyễn... Và đáng chú ý là động tác đi giật lùi về phía sau, xoay ba vòng rồi đứng lên bằng ngón chân. Đó là một thương hiệu, một điệu nhảy mà nhiều vũ công không dám tập. Nếu bạn lỡ bước, bạn có thể bị thương"[270]. Khả năng vũ đạo của Jackson, đôi khi được so sánh với một vài vũ công nổi tiếng trước đó như Fred Astaire hay Rudolf Nureyev, đã tạo nên tên tuổi Jackson như một trong những nghệ sĩ trình diễn xuất sắc của thời đại.

Màn trình diễn ca khúc "Billie Jean" tại chương trình Motown 25: Yesterday, Today, Forever ngày 16 tháng 5 năm 1983 gây được tiếng vang lớn nhờ vũ đạo độc đáo, mặc dù lúc đó anh hát nhép. Hơn 50 triệu người đã chứng kiến Jackson biểu diễn ca khúc nổi tiếng nhất của mình lúc bấy giờ[271]. Điệu nhảy trong màn trình diễn về sau được gọi là moonwalk, tuy không phải do Jackson nghĩ ra, nhưng chính anh là người hoàn thiện và khiến nó trở nên nổi tiếng và trở thành từ cửa miệng của nhiều trẻ em. Tờ Thời báo New York đưa ra lời bình luận: "Điệu moonwalk quả là một phép ẩn dụ thích hợp cho phong cách vũ đạo của Michael Jackson. Anh thực hiện nó như thế nào? Về mặt kỹ thuật, anh quả là một nhà ảo thuật và nghệ sĩ kịch câm tài năng. Khả năng trượt lùi đồng thời giữ một chân thẳng đứng còn chân kia uốn cong chắc hẳn phải được luyện tập trong một thời gian rất dài"[272].

Di sản

Michael Jackson được lưu danh trên Đại lộ Danh vọng Hollywood năm 1984.

Các phương tiện truyền thông đã tôn vinh ông là "Vua nhạc Pop" bởi vì, trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã tạo nên cuộc cách tân về nghệ thuật của video âm nhạc và mở đường cho nền nhạc pop hiện đại. Nhà báo tờ Daily Telegraph Tom Utley đã mô tả những đóng góp của Michael Jackson vào năm 2003 là "cực kỳ quan trọng" anh là một "thiên tài".[273] Là ngôi sao ca nhạc sô-lô lớn nhất kể từ Elvis Presley và sớm được vinh danh tại Đại lộ Danh vọng Hollywood từ năm 1984, Michael Jackson đã tạo ra những ảnh hưởng đáng kể lên nền âm nhạc thế giới với việc phá bỏ rào cản xã hội, mở đường cho nhạc pop hiện đại và thay đổi hình tượng về một ngôi sao nhạc pop hiện đại ở nước Mỹ. Những sản phẩm của anh, đặc biệt là phong cách nhạc và cách hát đã ảnh hưởng lên một số lượng lớn nghệ sĩ sau này trong đó có những ca sĩ thành danh như Mariah Carey[208], Usher[274], Justin Timberlake[158], Britney Spears[208], Justin Bieber, Chris Brown, R. Kelly[253]..v.v. Không chỉ riêng tại Mỹ, tầm ảnh hưởng "không thể sánh kịp" của Jackson lên thế hệ đàn em đã lên đến phạm vi toàn cầu[275].

Vinh danh và giải thưởng

Tập tin:Thriller platinum record, Hard Rock Cafe Hollywood.JPG
Chứng nhận đĩa bạch kim của Thriller được đặt tại Hard Rock Cafe, Hollywood tại Universal City, California

Trong suốt sự nghiệp của mình, Jackson đã nhận được rất nhiều giải thưởng và huân chương, trong đó có Giải thưởng Âm nhạc Thế giới cho "Nghệ sĩ pop nam bán đĩa chạy nhất thiên niên kỷ", Giải thưởng Âm nhạc Mỹ cho "Nghệ sĩ của thế kỷ" và giải Bambi cho "Nghệ sĩ Pop của Thiên niên kỷ"[276][277]. Anh đã hai lần được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll, lần thứ nhất vào năm 1997 cùng với các anh trai trong ban nhạc The Jackson 5 và lần thứ hai vào năm 2001 dưới vai trò là một nghệ sĩ hát đơn[276]. Năm 2002, Jackson cũng được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Nhạc sĩ. Thành tích nổi bật khác của anh còn là hàng loạt kỷ lục Guinness, riêng năm 2006 anh đã được công nhận 6 kỷ lục, 13 giải Grammy, 13 đĩa đơn quán quân tại Mỹ và hơn 800 triệu album được tiêu thụ trên toàn cầu, giúp anh trở thành một trong những nghệ sĩ bán chạy nhất trong lịch sử âm nhạc[125][142][278][279][280]. Năm 2010, Jackson được giới thiệu vào "Đại sảnh Khiêu Vũ" (Dance Hall of Fame) và cũng là người đầu tiên (và duy nhất) của nhạcpop và rock 'n' roll được vinh danh.

Michael Jackson được miêu tả như một con người "sở hữu mọi công cụ để thống trị các bảng xếp hạng một cách có vẻ như tùy ý", "một giọng hát đặc biệt đến nỗi có thể nhận ra ngay lập tức"[2]. Trong giữa thập niên 1980, anh được Time miêu tả như "hiện tượng nóng nhất kể từ Elvis Presley[70]. Tom Utley của Daily Telegraph là "một nhân vật cực kỳ quan trọng trong lịch sử văn hóa đại chúng" và "một thiên tài"[281]. Tổng cộng tiền bản quyền từ các sản phẩm thu âm, hòa nhạc, video mà Jackson thu được là khoảng 500 triệu USD. Một số nhà phân tích nghiên cứu rằng con số có thể lên đến hàng tỉ USD[148][282]. Sự nghiệp âm nhạc thành công đã làm nên tên tuổi của một Michael Jackson, một phần quan trọng trong văn hóa pop[125]. Trong những năm gần đây Jackson liên tục được ghi nhận là một trong những người đàn ông nổi tiếng nhất thế giới[283].

Danh sách đĩa nhạc

Sự nghiệp điện ảnh

Lưu diễn

Xem thêm

Tham khảo

Ghi chú

^

Chú thích
  1. ^ Sở Y Tế hạt Los Angeles (2009). Giấy chứng tử của Michael Jackson.
  2. ^ a b c d e f g h i j k Huey, Steve. “Michael Jackson – Artist Biography”. AllMusic. All Media Network. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “allmusic” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  3. ^ Lewis Jones 2005, tr. 3
  4. ^ Arar, Yardena (29 tháng 2 năm 1984). “Michael Jackson coronated latest king of rock 'n' roll”. Boca Raton News. tr. 7A.
  5. ^ “Is the thrill gone for singer Michael Jackson?”. Sacramento Bee. 27 tháng 7 năm 1987. tr. B3.
  6. ^ Lewis, Monica (14 tháng 6 năm 2007). “20 People Who Changed Black Music: Michael Jackson, the Child Star-Turned-Adult Enigma”. The Miami Herald. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2013.
  7. ^ Trust, Gary (21 tháng 5 năm 2014). “Michael Jackson, Coldplay Hit Hot 100's Top 10; John Legend Still No. 1”. Billboard. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2014.
  8. ^ Orth, Maureen (tháng 4 năm 2003). “Losing His Grip”. Vanity Fair. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2008.
  9. ^ Mankiewicz, Josh (3 tháng 9 năm 2004). “New details about 1993 Jackson case” (Thông cáo báo chí). NBC News.
  10. ^ “Hazarika's funeral creates world record” (Thông cáo báo chí). MSN News. 15 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  11. ^ “Top Earning Dead Celebrities 2015”. Forbes. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2015.
  12. ^ Jackson 2009, tr. 26
  13. ^ Young 2009, tr. 18
  14. ^ Young 2009, tr. 17, 19
  15. ^ Young 2009, tr. 18–9
  16. ^ a b c d George 2004, tr. 20
  17. ^ Taraborrelli 2009, tr. 434–436
  18. ^ a b “Michael Jackson's Secret Childhood”. VH1. 20 tháng 6 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2008.
  19. ^ Taraborrelli 2009, tr. 20–2
  20. ^ “Can Michael Jackson's demons be explained?”. BBC News Online. 27 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  21. ^ “Jackson interview seen by 14m”. BBC News Online. 4 tháng 2 năm 2003. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  22. ^ Young 2009, tr. 24
  23. ^ Schechter, Daniel; Willheim, Erica (2009). “The Effects of Violent Experience and Maltreatment on Infants and Young Children”. Trong Zeanah, Charles H. (biên tập). Handbook of Infant Mental Health (ấn bản 3). New York: Guilford Press. tr. 197–214.
  24. ^ Taraborrelli 2009, tr. 602
  25. ^ Lewis Jones 2005, tr. 165–68
  26. ^ Friedman, Roger (7 tháng 2 năm 2003). “Michael Jackson's Unacceptable Behavior Revealed”. Fox News Channel. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  27. ^ Duke, Alan (21 tháng 7 năm 2009). “Joe Jackson denies abusing Michael” (Thông cáo báo chí). CNN. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  28. ^ “Jackson Brothers: Was Joe Jackson Abusive?”. Yahoo! Celebrity. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  29. ^ a b “The Jackson 5 Biography”. Rock and Roll Hall of Fame. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  30. ^ Taraborrelli 2009, tr. 13–4
  31. ^ Young 2009, tr. 21–2
  32. ^ “Triumph & Tragedy: The Life of Michael Jackson”. Rolling Stone India. 25 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  33. ^ Young 2009, tr. 22
  34. ^ Young 2009, tr. 21
  35. ^ Taraborrelli 2009, tr. 59–69
  36. ^ “Michael Jackson – Biography”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2008.
  37. ^ Taraborrelli 2009, tr. 81–2
  38. ^ a b c d Young 2009, tr. 25
  39. ^ McNulty, Bernadette (26 tháng 6 năm 2009). “Michael Jackson's music: the solo albums”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015. Không cho phép mã đánh dấu trong: |newspaper= (trợ giúp)
  40. ^ Taraborrelli 2009, tr. 98–9
  41. ^ Alban, Debra (28 tháng 6 năm 2009). “Michael Jackson broke down racial barriers” (Thông cáo báo chí). CNN. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  42. ^ a b George 2004, tr. 22
  43. ^ Taraborrelli 2009, tr. 138–144
  44. ^ The Wiz trên Internet Movie Database
  45. ^ Taraborrelli 2009, tr. 178–9
  46. ^ George 2004, tr. 23
  47. ^ a b Taraborrelli 2009, tr. 205–210
  48. ^ George 2004, tr. 37–8
  49. ^ “Aug 29, 1958: Michael Jackson is born”. History. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  50. ^ “Michael Jackson: Off The Wall”. Virgin Media. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  51. ^ “Donna Summer and Michael Jackson sweep Annual American Music Awards”. The Ledger. Associated Press. 20 tháng 1 năm 1980. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  52. ^ Peters, Ida (2 tháng 2 năm 1980). “Donna No. 1, Pop and Soul; Michael Jackson King of Soul”. The Afro-American. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  53. ^ George 2004, tr. 37–8
  54. ^ “Few Surprises In Music Awards”. Sarasota Herald-Tribune. Associated Press. 1 tháng 2 năm 1981. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  55. ^ Taraborrelli 2009, tr. 188
  56. ^ Taraborrelli 2009, tr. 191
  57. ^ Kozak, Roman (27 tháng 11 năm 1982). “CBS sues to block MCA 'E.T.' package”. Billboard. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2012.
  58. ^ a b c “Past Winners Search: Michael Jackson”. The Recording Academy. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2014.
  59. ^ “Past Winners Search: Bruce Swedien”. The Recording Academy. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2008.
  60. ^ “Michael Jackson sweeps American Music Awards”. Daily News. Associated Press. 17 tháng 1 năm 1984. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
  61. ^ “Winner Search: Search Results for "Michael Jackson". Dick Clark Productions. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2014.
  62. ^ Gitlin, Martin (2011). The Baby Boomer Encyclopedia. ABC-CLIO. tr. 96.
  63. ^ “Michael Jackson Opens Up”. CBS. ngày 6 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2008.
  64. ^ Kory Grow (16 tháng 12 năm 2015). “Michael Jackson's 'Thriller' Is First Album to Sell 30 Million Copies”. Rolling Stone. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2015.
  65. ^ Lewis Jones 2005, tr. 47
  66. ^ a b Dobuzinskis, Alex (30 tháng 12 năm 2009). “Jackson "Thriller" film picked for U.S. registry” (Thông cáo báo chí). Reuters. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  67. ^ “Zorro, Nemo, Muppets & More: Wide Variety Tapped for 2009 Film Registry”. Library of Congress. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  68. ^ a b Itzkoff, Dave (30 tháng 12 năm 2009). 'Thriller' Video Added to U.S. Film Registry”. The New York Times. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  69. ^ Piazza, Jo (30 tháng 12 năm 2009). 'Thriller,' 'Muppet Movie' now in Library of Congress film registry” (Thông cáo báo chí). CNN.
  70. ^ a b c Cocks, Jay (19 tháng 3 năm 1984). “Why He's a Thriller”. Time. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2010.
  71. ^ Taraborrelli 2009, tr. 226
  72. ^ Pareles, Jon (14 tháng 1 năm 1984). “Michael Jackson at 25: A Musical Phenomenon”. The New York Times. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  73. ^ Williams, Janette (24 tháng 6 năm 2009). “Michael Jackson left indelible mark on Pasadena”. Whittier Daily News. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  74. ^ Taraborrelli 2009, tr. 234–7
  75. ^ Taraborrelli 2009, tr. 243–4
  76. ^ Taraborrelli 2009, tr. 238–241
  77. ^ “Fatal Cardiac Arrest Strikes Michael Jackson”. Emmys.com. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  78. ^ Kisselgoff, Anna (6 tháng 3 năm 1988). “Stage: The Dancing Feet Of Michael Jackson”. The New York Times. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  79. ^ “Berry Gordy Addresses Michael Jackson Memorial Service”. Hark. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  80. ^ a b c Herrera, Monica (3 tháng 7 năm 2009). “Michael Jackson, Pepsi Made Marketing History”. Billboard. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  81. ^ Story, Louise (31 tháng 12 năm 2007). “Philip B. Dusenberry, 71, Adman, Dies”. The New York Times. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  82. ^ Taraborrelli 2009, tr. 279–287
  83. ^ “Beyonce and Pepsi Strike Estimated $50 Million Multi-Level Partnership” (blog). Hip Hop Media Training. ngày 10 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2014.
  84. ^ Taraborrelli 2009, tr. 304–7
  85. ^ “Drunk Driving Prevention (1983 – Present)”. Advertising Education Foundation. 2003. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  86. ^ Taraborrelli 2009, tr. 320
  87. ^ Taraborrelli 2009, tr. 314
  88. ^ Taraborrelli 2009, tr. 315–320
  89. ^ a b c “Past Winners Search: "We Are The World". The Recording Academy. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2014.
  90. ^ a b “Bruce shows who's Boss”. Montreal Gazette. Associated Press. 28 tháng 1 năm 1986. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
  91. ^ a b c d e Doyle, Jack (7 tháng 7 năm 2009). "Michael & McCartney": 1980s–2009”. The Pop History Dig. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  92. ^ Breznican, Anthony (30 tháng 6 năm 2009). “The many faces of Michael Jackson”. USA Today. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2015.
  93. ^ Campbell 1993, tr. 114
  94. ^ Young 2009, tr. 340–4
  95. ^ a b Hilburn, Robert (22 tháng 9 năm 1985). “The long and winding road”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  96. ^ Taraborrelli 2009, tr. 333–8
  97. ^ “Paul McCartney refused an offer to buy the ATV Catalog for £20 million ($40 million USD)”. Mjjinfo.blogspot.fr. 13 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  98. ^ “Michael Jackson owns the rights to the Beatles' songs”. Urban Legends Reference Pages. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2006.
  99. ^ “Business Data for Captain EO”. IMDb. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2006.
  100. ^ George, p. 41
  101. ^ Cocks, Jay. The Badder They Come, Time, ngày 14 tháng 9 năm 1987.
  102. ^ a b “Gold and Platinum”. Recording Industry Association of America. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2008.
  103. ^ a b Taraborrelli, tr. 610–612
  104. ^ “Michael Jackson Bad album set for re-release”. The Daily Telegraph. London. ngày 9 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2012.
  105. ^ “50 fastest selling albums ever”. NME. 2011. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2012.
  106. ^ Kaufman, Gil (2010). “Michael Jackson's New Album Cover Decoded Painting is packed with iconic MJ images”. MTV. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2012.
  107. ^ Sinha-Roy, Piya (ngày 21 tháng 5 năm 2012). “Michael Jackson is still "Bad," 25 years after”. Reuters. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2012.
  108. ^ “25th Anniversary Of Michael Jackson's Landmark Album Bad Celebrated With September 18 Release Of New Bad 25 Packages”. Yahoo!. ngày 21 tháng 5 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  109. ^ “Michael Jackson's Bad To Get 25th Anniversary Release”. contactmusic. ngày 21 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2012.
  110. ^ “Bad”. IMDb. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2006.
  111. ^ "Lịch sử" khuôn mặt của Michael Jackson”. Anomalies Unlimited. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2006.
  112. ^ Harrington, Richard (tháng 1 năm 1988). “Jackson to Make First Solo U.S. Tour” (bằng tiếng Anh). Washington Post. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2007.
  113. ^ “16 of Michael Jackson's Greatest Non-Musical Achievements”. brainz.org. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2013.
  114. ^ Shanahan, Mark and Golstein, Meredith (ngày 27 tháng 6 năm 2009). “Remembering Michael”. Boston Globe. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2010.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  115. ^ Jackson, pp. 29–31
  116. ^ George, p. 42
  117. ^ a b c d “Tiểu sử Michael Jackson”. Fox News Channel. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2006.
  118. ^ “Jackson trial: Winners and losers”. BBC News. June 13 2005. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2006. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  119. ^ Jackson, Michael. HIStory booklet. Sony BMG. p 3
  120. ^ Keehner, Jonathan (ngày 11 tháng 5 năm 2008). “Michael Jackson's Neverland Loan Sold by Fortress to Colony”. Bloomberg L.P. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2008. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  121. ^ “Lời bình trước cuộc gặp thượng đỉnh giữa Tổng thống Mỹ George H.W. Bush với Tổng bí thư Liên Xô Mikhail Gorbachev”. Kế hoạch của tổng thống Mỹ. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2007.
  122. ^ “Michael Jackson's Life & Legacy: The Eccentric King Of Pop (1986–1999)”. MTV News. ngày 6 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2010.
  123. ^ Carter, Kelley L. (ngày 11 tháng 8 năm 2008). “New jack swing”. Chicago Tribune. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2008.
  124. ^ “Flashbacks!”. beach-bulletin.com. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2007.
  125. ^ a b c d e “The return of the King of Pop”. MSNBC. 2 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2008.
  126. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên AccessHollywood
  127. ^ a b c d e George, tr. 45–46
  128. ^ “Garth Brooks ropes in most Billboard awards”. The Beaver County Times. ngày 10 tháng 12 năm 1992. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2010.
  129. ^ Jackson loses plagarism case, Michael Jackson Found Not Guilty Of Plagiarism
  130. ^ a b c d Johnson, Robert (1992). “Michael Jackson: crowned in Africa”. Ebony. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008. Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (trợ giúp)
  131. ^ Harrington, Richard (ngày 5 tháng 2 năm 1992). “Jackson to Tour Overseas”. The Washington Post.
  132. ^ Taraborrelli, pp. 452–454
  133. ^ Sandomir, Richard (ngày 29 tháng 6 năm 2009). “How Jackson Redefined the Super Bowl”. The New York Times. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2013.
  134. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên campbell (1995) 14-16
  135. ^ a b “Grammy Awards Past Winners Search”. The Recording Academy. 2014. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2014.
  136. ^ “Cyrus, Bolton please the fans”. Toledo Blade. ngày 27 tháng 1 năm 1993. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
  137. ^ “Michael Jackson sells rights to Beatles songs to Sony”. The New York Times. Associated Press. ngày 8 tháng 11 năm 1995. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2013.
  138. ^ Leeds, Jeff (ngày 13 tháng 4 năm 2006). “Michael Jackson Bailout Said to Be Close”. The New York Times. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
  139. ^ “Top 100 Albums (Page 2)”. Recording Industry Association of America. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2008.
  140. ^ a b c d e f George, pp. 48–50
  141. ^ Guinness World Records (2005). Guinness World Records 2006. Guinness. ISBN 1-ngày 94 tháng 2 năm 4994. Chú thích có tham số trống không rõ: |coauthors= (trợ giúp)
  142. ^ a b c d “Jackson receives his World Records”. Yahoo!. ngày 14 tháng 11 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2006.
  143. ^ Taraborrelli, pp. 576–577
  144. ^ a b c d “Jarvis' stage invasion at the 1996 Brits”. July 24 2006. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2006. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  145. ^ “Brooks turns down award for favorite artist of the year”. Rome News-Tribune. ngày 30 tháng 1 năm 1996. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
  146. ^ Lewis, pp. 95–96
  147. ^ “MTV effort may not be longest music video”. United Press International. July 24 2006. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2006. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  148. ^ a b c d Gunderson, Edna (ngày 19 tháng 2 năm 2007). “For Jackson, scandal could spell financial ruin”. USA Today. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2010.
  149. ^ “Slash, Scorpions, Others Scheduled For 'Michael Jackson & Friends'. VH1. ngày 27 tháng 5 năm 1999. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2008.
  150. ^ a b “History: 2000s”. Michael Jackson's official website. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2006.
  151. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên mjjcharts.com
  152. ^ “Michael Jackson”. Surgeon to the Stars. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2006.
  153. ^ Burkeman, Oliver (ngày 8 tháng 7 năm 2002). “Jacko gets tough: but is he a race crusader or just a falling star?”. The Guardian. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
  154. ^ a b c “Michael Jackson: Invincible”. Allmusic. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2007.
  155. ^ a b Hunter, James (6 tháng 12 năm 2001). “Michael Jackson: Invincible”. Rolling Stone. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008. Không cho phép mã đánh dấu trong: |publisher= (trợ giúp)
  156. ^ a b Christgau, Robert. “Robert Christgau: Artist 932”. Robert Christgau.com. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2008.
  157. ^ Christgau, Robert (28 tháng 12 năm 1982). “Christgau's Consumer Guide, Dec 28th, 1982”. Robert Christgau.com. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2008.
  158. ^ a b Taraborrelli, tr. 614–617
  159. ^ a b c “Michael Jackson: Invincible”. NME. 30 tháng 11 năm 2001. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
  160. ^ “Michael Jackson: Lễ kỷ niệm 30 năm ca hát”. IMDb. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2006.
  161. ^ “Number Ones”. The Ultimate Michael Jackson Stats Site. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2006.
  162. ^ “Lệnh bắt giữ đối với Michael Jackson”. The Baltimore Sun. November 20 2003. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2006. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  163. ^ “Michael Jackson có cuộc sống mới tại quốc gia vùng Vịnh Persian”. Gulf News. 23 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2006. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  164. ^ “Michael Jackson buys rights to Eminem tunes and more”. Rolling Stone. 31 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2008. Không cho phép mã đánh dấu trong: |publisher= (trợ giúp)
  165. ^ “Zona Musical” (bằng tiếng Tây Ban Nha). zm.nu. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2008.
  166. ^ “Thriller the best selling album of all time”. digitalproducer. 20 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2008.
  167. ^ “Michael Jackson Thriller 25”. ultratop.be. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2008.
  168. ^ Serjeant, Jill (29 tháng 8 năm 2008). “Michael Jackson turns 50, shadow of superstar self”. Reuters. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2008.
  169. ^ Friedman, Roger (16 tháng 5 năm 2008). “Jacko: Neverland East in Upstate New York”. Fox News Channel. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2008.
  170. ^ “Choose The Tracks On Michael Jackson's 50th Birthday Album!”. Sony BMG. (ngày 20 tháng 6 năm 2008). Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  171. ^ “MJ50 - Michael Jackson”. mj50.com. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2008.
  172. ^ “Michael Jackson - King of Pop”. acharts.us. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2008.
  173. ^ “King of Pop”. www.ultratop.be. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2008.
  174. ^ Kreps, Daniel (ngày 12 tháng 3 năm 2009). “Michael Jackson's "This Is It!" Tour Balloons to 50-Show Run Stretching Into 2010”. Rolling Stone. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2009. Không cho phép mã đánh dấu trong: |publisher= (trợ giúp)
  175. ^ Foster, Patrick (ngày 6 tháng 3 năm 2009). “Michael Jackson grand finale curtain-raiser”. The Times. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2009. Không cho phép mã đánh dấu trong: |publisher= (trợ giúp)
  176. ^ James, Susan Donaldson. Friend Says Michael Jackson Battled Demerol Addiction, ABC News, ngày 26 tháng 6 năm 2009.
  177. ^ Harvey, Michael (ngày 26 tháng 6 năm 2009). “Fans mourn artist for whom it didn't matter if you were black or white”. The Times. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2009.
  178. ^ “Los Angeles Fire Department recording of the emergency phone call made from Michael Jackson's home”. BBC. ngày 26 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2009.
  179. ^ “Transcript of 911 call”. Yahoo! News. ngày 26 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2009.
  180. ^ Moore, Matthew (ngày 26 tháng 6 năm 2009). “Michael Jackson, King of Pop, dies of cardiac arrest in Los Angeles”. Telegraph.co.uk. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2009.
  181. ^ Tourtellotte, Bob (ngày 25 tháng 6 năm 2009). “King of Pop Michael Jackson is dead: official”. Reuters. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009.
  182. ^ Gillum, Jack (ngày 26 tháng 6 năm 2009). “News of Jackson death breaks Web records”. USA Today. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2009.
  183. ^ Gaudin, Sharon (ngày 26 tháng 6 năm 2009). Computerworld Jackson's death sparks Internet crush http://web.archive.org/web/20070302144543/http://www.computerworld.com/action/article.do?command=viewArticleBasic Jackson's death sparks Internet crush Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2009. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  184. ^ “Jackson's Death Prompts Record Traffic for Yahoo”. PCMAG.com. Truy cập 30 tháng 7, 2009.
  185. ^ “Google & Twitter crash at news of Jackson's death”. ICM Commercial & Business News. Truy cập 30 tháng 7, 2009.
  186. ^ “Current events and traffic spikes”. Wikimedia Foundation. ngày 25 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2009.
  187. ^ Elizabeth Taylor: "I Loved Michael With All My Soul", US Magazine, ngày 26 tháng 6 năm 2009.
  188. ^ “Madonna 'can't stop crying' over Michael Jackson's death”. NME. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2009.
  189. ^ Marie Presley: 'Michael knew he would die like Elvis', NME, ngày 26 tháng 6 năm 2009.
  190. ^ “Singles chart for 04/07/2009”. Chart Stats. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2009.
  191. ^ Bucci, Paul and Wood, Graeme.Michael Jackson RIP: One billion people estimated watching for gold-plated casket at memorial service. The Vancouver Sun, ngày 7 tháng 7 năm 2009.
  192. ^ “Michael Jackson Memorial Earns 31 Million Viewers & More TV News”. AOL Television. Truy cập 10 tháng 7, 2009.
  193. ^ “Video lời nói của con gái Paris về Michael Jackson”. Truy cập 7 tháng 8, 2009. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  194. ^ “Nghi vấn mới quanh cái chết của Michael Jackson”. Truy cập 26 tháng 6, 2009. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  195. ^ “Những tiết lộ mới về cái chết của Michael Jackson”. Truy cập 28 tháng 6, 2009. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  196. ^ Taraborrelli, tr. 500–507
  197. ^ a b c Taraborrelli, tr. 518–520
  198. ^ Taraborrelli, p. 510
  199. ^ a b Taraborrelli, p. 518-520
  200. ^ a b “She's Out Of His Life”. CNN. 18 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2008.
  201. ^ a b Taraborrelli, p. 580–581
  202. ^ Taraborrelli, tr. 597
  203. ^ Taraborrelli, p. 570
  204. ^ Taraborrelli, p. 586
  205. ^ a b c Taraborrelli, p. 599–600
  206. ^ “Jackson Interview with Ed Bradley on 60 minutes”. CBS. ngày 28 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2008.
  207. ^ “Jackson to avoid baby stunt probe”. CNN. 20 tháng 11 năm 2002. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2008.
  208. ^ a b c d “Michael Jackson: Biography”. Rolling Stone. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2008.
  209. ^ Taraborrelli, p. 452–454
  210. ^ “A Timeline of Key Events in Ryan's Life”. Ryanwhite.com. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2008.
  211. ^ a b Harrington, Richard (ngày 24 tháng 11 năm 1991). “Jackson's `Dangerous' Departures; Stylistic Shifts Mar His First Album in 4 Years”. Washington Post. |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  212. ^ “Ricky Martin, Mariah Carey, Michael Jackson, Others To Join Pavarotti For Benefit”. VH1. 5 tháng 5 năm 1999. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2008.
  213. ^ “Slash, Scorpions, Others Scheduled For "Michael Jackson & Friends". VH1. 27 tháng 5 năm 1999. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2008.
  214. ^ Taraborrelli, tr. 355–361
  215. ^ “Music's misunderstood superstar”. BBC. 13 tháng 6 năm 2005. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2008.
  216. ^ a b Taraborrelli, tr. 434–436
  217. ^ “Surgeon: Michael Jackson A 'Nasal Cripple'. ABC News. ngày 8 tháng 2 năm 2003. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2006.
  218. ^ Taraborrelli, tr. 138–144
  219. ^ Jackson, tr. 229–230
  220. ^ Taraborrelli, tr. 312–313
  221. ^ Taraborrelli, tr. vii
  222. ^ a b “1993: Michael Jackson accused of child abuse”. BBC. ngày 8 tháng 2 năm 2003. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2006.
  223. ^ Taraborrelli, tr. 477–478
  224. ^ Taraborrelli, tr. 485–486
  225. ^ a b Taraborrelli, tr. 496–498
  226. ^ a b Taraborrelli, tr. 534–540
  227. ^ a b Taraborrelli, tr. 524–528
  228. ^ a b Taraborrelli, tr. 514–516
  229. ^ Taraborrelli, p. 640
  230. ^ “Elizabeth Taylor defends Michael on Larry King Live”. CNN. ngày 30 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2006.
  231. ^ Taraborrelli, p. 648
  232. ^ Taraborrelli, p. 661
  233. ^ Davis, Matthew (6 tháng 6 năm 2005). “Michael Jackson health concerns”. BBC. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2008.
  234. ^ Associated Press (ngày 13 tháng 6 năm 2005). “Michael Jackson jury reaches verdict”. Guardian. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2008.
  235. ^ “Jackson settles down to his new life in the Persian Gulf”. Gulf News. ngày 23 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2006.
  236. ^ Talmadge, Eric. “Michael Jackson 'wouldn't change anything'. Associated Press. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2008.
  237. ^ Taraborrelli, trang 205–210
  238. ^ “Michael Jackson's Monster Smash”. Daily Telegraph. 25 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2008.
  239. ^ a b c Erlewine, Stephen. “Off the Wall Overview”. Allmusic. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2008.
  240. ^ a b Holden, Stephen (1 tháng 11 năm 1979). “Off the Wall: Michael Jackson”. Rolling Stone. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
  241. ^ Henderson, Eric. “Michael Jackson:Thriller”. Slant. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2008.
  242. ^ a b Erlewine, Stephen (19 tháng 2 năm 2007). “Thriller Overview”. Allmusic. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2008.
  243. ^ a b Connelly, Christoper (28 tháng 1 năm 1983). “Michael Jackson: Thriller”. Rolling Stone. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
  244. ^ Pareles, Jon (3 tháng 9 năm 1987). “How good is Jackson's Bad?”. New York Times. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
  245. ^ a b Erlewine, Stephen. “Dangerous Overview”. Allmusic. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2008.
  246. ^ a b c d e f g h Pareles, Jon (24 tháng 11 năm 1991). “Michael Jackson in the Electronic Wilderness”. New York Times. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
  247. ^ Erlewine, Stephen. “Michael Jackson HIStory Overview”. Allmusic. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2008.
  248. ^ Hunter, James (10 tháng 8 năm 1995). “Michael Jackson HIStory”. Rolling Stone. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
  249. ^ “Dangerous album”. Sony BMG. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2008.
  250. ^ George, tr. 22
  251. ^ George, tr. 23
  252. ^ Lewarne, Rory (26 tháng 7 năm 2004). “Pink Grease”. Music News. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2008.
  253. ^ a b c George, tr. 24
  254. ^ “1500 Prisoners Perform Thriller Dance”. The Wrong Advices. 21 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2008.
  255. ^ “Jacko goes bollywood”. TMZ.com. 3 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2008.
  256. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên blender
  257. ^ a b Gundersen, Edna (25 tháng 8 năm 2005). “Music videos changing places”. USA Today. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
  258. ^ Robinson, Bryan (23 tháng 2 năm 2005). “Why Are Michael Jackson's Fans So Devoted?”. ABC News. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2007.
  259. ^ Corliss, Richard (6 tháng 9 năm 1993). “Who's Bad?”. Time. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2008. Không cho phép mã đánh dấu trong: |publisher= (trợ giúp)
  260. ^ U.S. Patent 5,255,452; "Method and Means For Creating Anti-Gravity Illusion"; Michael J. Jackson, Michael L. Bush, Dennis Tompkins, issued Oct 26, 1993, Filed ngày 29 tháng 6 năm 1992
  261. ^ George, p. 43–44
  262. ^ Michael Jackson Dangerous on Film VHS/DVD
  263. ^ Campbell (1993), tr. 313–314
  264. ^ Boepple, Leanne (1 tháng 11 năm 1995), Scream: space odyssey Jackson-style.(video production; Michael and Janet Jackson video), 29, Theatre Crafts International, tr. 52, ISSN 1063-9497 Không cho phép mã đánh dấu trong: |publisher= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết)
  265. ^ Bark, Ed (26 tháng 6 năm 1995), Michael Jackson Interview Raises Questions, Answers, St. Louis Post-Dispatch, tr. 06E Không cho phép mã đánh dấu trong: |publisher= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết)
  266. ^ Guinness World Records 2006
  267. ^ Michael Jackson HIStory on Film volume II VHS/DVD
  268. ^ Lewis, p. 125–126
  269. ^ Guinness World Records 2004
  270. ^ TIME: Why He's a Thriller?
  271. ^ “Amazon.com: Motown 25: Yesterday, Today, Forever [VHS]: Michael Jackson, Richard Pryor, Diana Ross, Stevie Wonder, Adam Ant, Lionel Richie, The Commodores, Marvin Gaye, DeBarge, Jose Feliciano, Four Tops, Billy Dee Williams, Mary Wells, Howard Hesseman, Jermaine Jackson, Rick James, Martha Reeves, Tim Reid, Smokey Robinson: Movies & TV”. Truy cập 15 tháng 2 năm 2015.
  272. ^ The New York Time: Stage - The Dancing Feet of Michael Jackson
  273. ^ Utley, Tom (ngày 8 tháng 3 năm 2003). “Of course Jackson's odd—but his genius is what matters”. The Daily Telegraph. London. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
  274. ^ “Usher, Usher, Usher: The new 'King of Pop'?”. CNN. ngày 1 tháng 11 năm 2004. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2007.
  275. ^ “ADL happy with Michael Jackson decision”. Anti-Defamation League. 22 tháng 6 năm 1995. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2008.
  276. ^ a b George, p. 50–53
  277. ^ “Michael Jackson and Halle Berry Pick Up Bambi Awards in Berlin”. Hello!. ngày 22 tháng 11 năm 2002. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
  278. ^ “Most No. 1s By Artist (All-Time)”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2008. Không cho phép mã đánh dấu trong: |publisher= (trợ giúp)
  279. ^ “Grammy Winners”. The Recording Academy. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2006.
  280. ^ “Pop Icon Looks Back At A "Thriller" Of A Career In New Interview”. CBS. ngày 6 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2008.
  281. ^ Utley, Tom (ngày 8 tháng 3 năm 2003). “Of course Jackson's odd — but his genius is what matters”. Daily Telegraph. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
  282. ^ “Witness: Jacko Lived Way Above Means”. Fox News Channel. 3 tháng 5 năm 2005. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2007.
  283. ^ “Tom Sneddon: Dogged prosecutor”. BBC. 31 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2008.
Thư mục

Liên kết ngoài