Viện bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác
Bước tới điều hướng
Bước tới tìm kiếm
Viện bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác | |
---|---|
Hoạt động | 1/12/1964 ( 56 năm, 138 ngày) |
Quốc gia | ![]() |
Phục vụ | ![]() |
Phân loại | Bệnh viện (Nhóm 5) |
Chức năng | Là viện thực hành của Học viện Quân y |
Quy mô | 1.500 người
|
Bộ phận của | Học viện Quân y, Bộ Quốc phòng (Việt Nam) |
Bộ chỉ huy | 263, đường Phùng Hưng, Hà Đông, Hà Nội |
Tên khác | Viện Bỏng Quốc gia |
Các tư lệnh | |
Giám đốc | PGS.TS Nguyễn Gia Tiến |
Chính ủy | Trương Ngọc Dương |
Viện bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác [1] là một trong 2 bệnh viện thực hành của Học viện Quân y thuộc Bộ Quốc phòng được thành lập theo quyết định số 142-CT của Hội đồng Bộ trưởng ký ngày 25/4/1991 trên cơ sở Khoa Bỏng (B3), Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang thuộc Viện Quân y 103 - Học viện Quân y.
Lược sử hình thành[sửa | sửa mã nguồn]
- Ngày 01 tháng 12 năm 1964, thành lập Khoa Bỏng trên cơ sở Khoa Ngoại dã chiến - Viện Quân y 103 do Bác sĩ Lê Thế Trung làm Chủ nhiệm khoa. Biên chế lúc đó gồm 18 người, trong đó có 03 bác sĩ, 02 y sĩ, 09 y tá và 04 công vụ. Nhiệm vụ của khoa bỏng: điều trị, huấn luyện và nghiên cứu khoa học về bỏng, đặc biệt là bỏng chiến tranh.[2]
- Ngày 25 tháng 04 năm 1991, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Nguyễn Khánh đã ký Quyết định số 142/CT, thành lập Viện Bỏng Quốc gia mang tên danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, gọi tắt là Viện Bỏng Lê Hữu Trác trên cơ sở phát triển từ khoa Bỏng (BM3), Viện Quân y 103. Viện Bỏng được đặt tại 263 đường Phùng Hưng, phường Phúc La, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
- Là viện đầu ngành Bỏng của quân và dân trong cả nước.
- Là một trong hai Bệnh viện thực hành của Học viện Quân y
Nhiệm vụ[sửa | sửa mã nguồn]
- Nghiên cứu các phương pháp phòng và chống bỏng, xử lý bước đầu tại tuyến cơ sở.
- Theo dõi, hướng dẫn về chuyên môn, kỹ thuật chuyên khoa bỏng trong cả nước.
- Khám và điều trị bỏng cho nhân dân và quân đội, cũng như các di chứng bỏng do các bệnh viện tuyến gửi lên.
- Cùng với các Trường đại học y đào tạo, bổ túc cán bộ chuyên khoa bỏng.
- Hợp tác về khoa học thuộc lĩnh vực chuyên khoa bỏng với các bệnh viện, các viện nghiên cứu trong nước, ngoài nước và các tổ chức y tế thế giới theo sự chỉ đạo của Bộ Y tế.
Ban Giám đốc[sửa | sửa mã nguồn]
- Giám đốc: Thiếu tướng PGS.TS Nguyễn Gia Tiến
- Chính ủy: Đại tá TS Trương Ngọc Dương
- Phó Giám đốc: Đại tá PGS.TS Trần Ngọc Tuấn
- Phó Giám đốc: Đại tá PGS.TS Nguyễn Ngọc Tuấn
- Phó Giám đốc: Đại tá PGS.TS Nguyễn Như Lâm
Cơ quan trực thuộc[sửa | sửa mã nguồn]
- Phòng Kế hoạch Tổng hợp
- Phòng Tham mưu Hành chính Hậu cần
- Phòng Chính trị
- Phòng Y tá điều dưỡng
- Ban Tài chính
Khoa và Bộ môn[sửa | sửa mã nguồn]
- Bộ môn Bỏng và Thảm họa(Học viện Quân y).
- Khoa Cận Lâm sàng
- Khoa Chẩn đoán Hình ảnh
- Khoa Dược
- Khoa Trang bị
- Khoa Dinh dưỡng
- Khoang Chống nhiễm khuẩn
- Phòng khám bệnh
- Khoa Hồi sức cấp cứu
- Khoa Bỏng trẻ em
- Khoa Bỏng người lớn
- Khoa Vật lý trị liệu tạo hình thẩm mỹ
- Khoa Liền vết thương
- Khoa Gây mê
- Labo nghiên cứu ứng dụng trong điều trị bỏng
Thành tựu[sửa | sửa mã nguồn]
- - Điều trị: trong 10 nǎm (1991-2001), Viện đã cấp cứu điều trị trên 18000 lượt bệnh nhân đã điều trị thành công bệnh nhân bỏng chung 85% diện tích cơ thể trong đó 50% diện tích bỏng sâu. Tham gia cấp cứu điều trị các nạn nhân bỏng trong các vụ cháy lớn trong toàn quốc.
- - Công tác đào tạo: giảng dạy về bỏng cho 500 bác sĩ cơ sở, 300 bác sĩ dài hạn, 45 bác sĩ chuyên khoa sơ bộ, chuyên khoa I, 8 bác sĩ chuyên khoa II, 22 thạc sĩ, 8 tiến sĩ.
- - Nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu và đưa vào ứng dụng các loại thuốc chữa bỏng: B76, Maduxin, AT 04, SH 91, Eopolin, Đampomade. Hoàn thành 5 đề tài nhánh cấp nhà nước, nhiều đề tài cấp Bộ, cấp Viện. Triển khai và hợp tác nghiên cứu nuôi cấy tế bào sừng, bǎng dính công nghệ Nano;bǎng sinh học trung bì làm từ da lợn, da ếch.
Khen thưởng[3][sửa | sửa mã nguồn]
- Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân 1989 (Bộ môn Bỏng - Khoa Bỏng, Bệnh viện 103)
- Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ đổi mới năm 2007 (Viện Bỏng Lê Hữu Trác).
- Huân chương Quân công hạng Ba (1995)
- Huân chương Chiến công hạng Nhất (1979, 1996)
- Huân chương Chiến công hạng Nhì (1979, 1981)
- Huân chương Chiến công hạng Ba (2002)
- Huân chương Lao động hạng Nhất (2004), hạng Nhì (2014)[2]
- Cờ thưởng của Thủ tướng Chính phủ (2004)
- Cờ thưởng Chính phủ (2009)
- Bằng khen của Chính phủ về thực hiện ca ghép gan đầu tiên năm 2004
- Bằng khen của Bộ Quốc phòng: 2003, 2004, 2007
- Bằng khen của Bộ Y tế: 1992, 1994, 1995, 1997, 2004, 2005
- Cờ thưởng của Công đoàn Y tế Việt Nam: 2004, 2005, 2006, 2007
- Bằng khen của Bộ Đại học và THCN năm 1984
- Bệnh viện Xuất sắc toàn diện: 2006, 2007, 2008; 2009
Giám đốc qua các thời kỳ[sửa | sửa mã nguồn]
- 1991-1995, Lê Thế Trung, Thiếu tướng (1988), sáng lập đầu tiên
- Lê Năm (sinh 1952), Thiếu tướng (2008)
- Nguyễn Gia Tiến, Thiếu tướng (2014)
Chính ủy qua các thời kỳ[sửa | sửa mã nguồn]
- Nguyễn Việt Lượng, Đại tá