Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thổ Nhĩ Kỳ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 140: Dòng 140:
Tư lệnh Lục quân kiêm quyền Tổng tham mưu trưởng Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay là [[Necdet Ozel]].
Tư lệnh Lục quân kiêm quyền Tổng tham mưu trưởng Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay là [[Necdet Ozel]].


== Địa lý ==
==Địa lý==
:''Chủ đề chính: [[Địa Thổ Nhĩ Kỳ]]
[[File:Turkey topo.jpg|thumb|Bản đồ địa hình Thổ Nhĩ Kỳ]]
Thổ Nhĩ Kỳ là một quốc gia liên lục địa<ref name="Immerfall2009">{{cite book|last=Immerfall|first=Stefan|title=Handbook of European Societies: Social Transformations in the 21st Century|url=http://books.google.com/books?id=880rr6t5POQC&pg=PA417|accessdate=9 August 2011|date=1 August 2009|publisher=Springer|isbn=978-0-387-88198-0|page=417}}</ref> Á-Âu. Phần lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ thuộc châu Á chiếm 97% diện tích toàn quốc, tách khỏi phần lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ thuộc châu Âu qua eo biển [[Bosphorus]], [[biển Marmara]], và eo biển [[Dardanelles]]. Phần lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ thuộc châu Âu chiếm 3% diện tích toàn quốc.<ref name=turkeygeoth>{{cite book |year=1996 |chapter=Geography |chapterurl=http://countrystudies.us/turkey/18.htm |editor1-last=Metz |editor1-first=Helen Chapin |title=Turkey: A Country Study |series=Area handbook series |edition=fifth |location=Washington D.C. |publisher=United States Government Publishing Office for the Federal Research Division of the Library of Congress |isbn=0-8444-0864-6 |lccn=95049612}}</ref>
Lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kỳ dài trên 1.600 km và rộng trên 800&nbsp;km, có hình dạng gần giống hình chữ nhật.<ref name="USLC_TRGeo">{{cite web|url=http://countrystudies.us/turkey/18.htm|title=Geography of Turkey|author=US Library of Congress|authorlink=US Library of Congress|publisher=US Library of Congress|accessdate=13 December 2006}}</ref> Thổ Nhĩ Kỳ nằm giữa các vĩ độ 35° và 43° Bắc, và các kinh độ 25° và 45° Đông. Diện tích của Thổ Nhĩ Kỳ, gồm cả mặt hồ, là 783.562 km²<ref>{{cite web|url=http://unstats.un.org/unsd/demographic/products/dyb/DYB2004/Table03.pdf|title=UN Demographic Yearbook|format=PDF |accessdate=1 November 2010}}</ref>, trong đó 755.688 km² nằm tại Tây Nam Á và 23.764 km² nằm tại châu Âu.<ref name="USLC_TRGeo" /> Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia lớn thứ 37 thế giới xét theo diện tích. Quốc gia này có biển bao quanh tại ba mặt: [[biển Aegea]] tại phía tây, [[biển Đen]] tại phía bắc và Địa Trung Hải tại phía nam. Thổ Nhĩ Kỳ có [[biển Marmara]] tại phía tây bắc.<ref name="TRGeo_TRMinistryTourism" />


Phần thuộc châu Âu của Thổ Nhĩ Kỳ là [[Đông Thrace]], có biên giới với Hy Lạp và Bulgaria. Phần thuộc châu Á của Thổ Nhĩ Kỳ là [[Anatolia]], gồm một cao nguyên trung ương có độ cao lớn cùng các đồng bằng duyên hải hẹp, nằm giữa các dãy núi Köroğlu và [[Dãy núi Parhar|Pontic]] tại phía bắc và [[Dãy núi Taurus|Taurus]] tại phía nam. Miền đông của Thổ nhĩ Kỳ có cảnh quan đồi núi hơn và là nguồn của các sông như [[Euphrates]], [[Tigris]] và [[Sông Aras|Aras]], và có điểm cao nhất Thổ Nhĩ Kỳ là [[Núi Ararat]] với cao độ 5.137 m,<ref name=mararat>{{cite web|title=Mount Ararat|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/32131/Mount-Ararat|website=http://www.britannica.com|accessdate=18 February 2015}}</ref> và hồ lớn nhất toàn quốc là [[hồ Van]].<ref name=lvan>{{cite web|title=Lake Van|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/622548/Lake-Van|website=http://www.britannica.com|accessdate=18 February 2015}}</ref>
Lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ trải dài từ 36° tới 42° Bắc và từ 26° tới 45° Đông ở vùng [[Âu Á]]. Nước này gần có hình chữ nhật và rộng 1.660 [[kilômét]] (1.031 [[dặm Anh|dặm]]). Diện tích Thổ Nhĩ Kỳ không tính các hồ là 814.578 [[kilômét vuông]]s<!--source needed--> (314.510 [[dặm vuông Anh|dặm vuông]]), trong đó 790.200 kilômét vuông (305.098 sq dặm) ở [[bán đảo]] [[Tiểu Á|Anatolia]] (cũng được gọi là Tiểu Á) ở [[Châu Á]], và 3% hay 24.378 kilômét vuông (9.412 sq dặm) nằm ở [[Châu Âu]]. Nhiều nhà địa lý coi Thổ Nhĩ Kỳ theo chính trị là thuộc Châu Âu, dù đúng ra đó là một nước liên lục địa giữa Châu Á và Châu Âu. Biên giới trên bộ của Thổ Nhĩ Kỳ tổng cộng 2.573 kilômét (1.599 dặm), và [[đường bờ biển]] (gồm cả các đảo) tổng cộng 8.333 kilômét (5.178 dặm).


Nói chung Thổ Nhĩ Kỳ được chia thành bảy vùng: [[Biển Marmara|Marmara]], [[Biển Êgê|Êgê]], [[Địa Trung Hải]], Trung Anatolia, Đông Anatolia, Đông nam Anatolia và vùng [[Biển Đen]]. Vùng đất không bằng phẳng phía bắc Anatolia chạy dọc theo [[Biển Đen]] thành một dải dài và hẹp. Vùng này chiếm khoảng 1/6 tổng diện tích đất liền Thổ Nhĩ Kỳ. Theo xu hướng chung, vùng cao nguyên bên trong Anatolia dần nhiều đồi núi hơn khi đi về hướng đông.
Thổ Nhĩ Kỳ được phân thành bảy khu vực điều tra nhân khẩu: Marmara, Aegea, Biển Đen, Trung Anatolia, Đông Anatolia, Đông Nam Anatolia và Địa Trung Hải. Địa hình gồ ghế tại phía bắc Anatolia dọc theo biển Đen giống như một dải dài và hẹp. Như khuynh chướng chung, cao nguyên Anatolia nội lục ngày càng gồ ghề khi đi về phía đông.<ref name="TRGeo_TRMinistryTourism">{{cite web |url=http://www.turizm.net/turkey/info/geography.html|title=Geography of Turkey|publisher=Turkish Ministry of Tourism|accessdate=13 December 2006|year=2005}}</ref>


Cảnh quan đa dạng của Thổ Nhĩ Kỳ là kết quả của các hoạt động địa chất phức tạp, tạo thành hình khu vực trong hàng nghìn năm và vẫn biểu thị thông qua các trận động đất khá thường xuyên và thỉnh thoảng là phun trào núi lửa. Các eo biển [[Bosphorus]] và [[Dardanelles]] xuất hiện do đường đứt gãy chạy qua Thổ Nhĩ Kỳ, đường đứt gãy này nguyên dẫn đến hình thành biển Đen. Tồn tại một đường đứt gãy động đất chạy qua phía bắc của quốc gia từ tây sang đông.<ref name=ktu.edu.tr>{{cite web|title=About Turkey - Geography And Climate|url=http://www.ktu.edu.tr/obsen-aboutturkeygeographyandclimate|publisher=Karadeniz Technical University|accessdate=3 August 2014}}</ref>
Thổ Nhĩ Kỳ tạo thành một cây cầu giữa Châu Âu và Châu Á, với đường phân chia hai châu lục chạy từ [[Biển Đen]] (''Karadeniz'') từ hướng bắc xuống dọc theo eo biển [[Bosporus]] (''Istanbul Boğazı'') qua eo [[Biển Marmara]] (''Marmara Denizi'') và [[Dardanéllia|Dardanelles]] (''Çanakkale Boğazı'') tới Biển Êgê (''Ege Denizi'') và Biển Địa Trung Hải (''Akdeniz'') về hướng nam. Bán đảo Anatolia hay Anatolia (''Anadolu'') gồm một cao nguyên có độ cao lớn với những đồng bằng hẹp ven biển, nằm giữa Köroğlu và dãy núi Đông Biển Đen ở hướng bắc và [[Dãy núi Taurus|Dãy Taurus]] (''Toros Dağları'') ở phía nam. Phía đông có nhiều núi non hơn, là nơi khởi nguồn của nhiều con sông như [[Euphrates]] (''Fırat''), [[Tigris]] (''Dicle'') và [[Araks]] (''Aras''), cũng như [[Hồ Van]] (''Van Gölü'') và [[Núi Ararat]] (''Ağrı Dağı''), điểm cao nhất Thổ Nhĩ Kỳ cao 5.137 mét (16.853 [[foot|ft]]).


===Đa dạng sinh học===
Thổ Nhĩ Kỳ cũng là nơi phải chịu nhiều trận [[động đất]] mạnh. Bospho và Dardanelles đứng trên đường nứt gãy chạy xuyên Thổ Nhĩ Kỳ, dẫn tới việc thành tạo Biển Đen. Có một đường động đất chạy ngang phía bắc đất nước từ phía tây sang phía đông. Trong thế kỷ trước, đã có nhiều trận động đất xảy ra dọc đường đứt gãy này, tầm cỡ và vị trí của những trận động đất có thể được quan sát tại hình ảnh về Các đường nứt gãy và Động đất. Hình ảnh này cũng gồm một bản đồ tỷ lệ nhỏ thể hiện các đường nứt gãy khác ở Thổ Nhĩ Kỳ.
[[File:Sumela Showing Location.JPG|thumb|[[Tu viện Sümela]] trên dãy núi Pontic. Những ngọn núi này tạo thành một khu vực sinh thái với các loại rừng mưa ôn đới đa dạng.]]
Hệ sinh thái đặc biệt và sự đa dạng về môi trường sống của Thổ Nhĩ Kỳ sản sinh đa dạng đáng kể về loài.<ref>{{cite web|title=Biodiversity in Turkey|url=http://iucn.org/about/union/secretariat/offices/europe/?9778/Biodiversity-in-Turkey|accessdate=9 August 2014}}</ref> Anatolia lăuề hương của nhiều loài thực vật đã được canh tác để làm thực phẩm từ khi xuất hiện nông nghiệp, và các tổ tiên hoang dã của nhiều thực vật mà hiện cung cấp lương thực cho nhân loại vẫn mọc tại Thổ Nhĩ Kỳ. Tính đa dạng của động vật tại Thổ Nhĩ Kỳ thậm chí còn lớn hơn của thực vật, số lượng loài động vật trên toàn châu Âu là khoảng 60.000; tại Thổ Nhĩ Kỳ có trên 8.000.<ref name=allaboutturkey>{{cite web|title=Turkey's flora and fauna|url=http://www.allaboutturkey.com/turkfauna.htm|website=allaboutturkey.com|accessdate=12 June 2014}}</ref>


Rừng hạt trần và rụng lá Bắc Anatolia là một hệ sinh thái bao trùm hầu hết Dãy núi Pontic tại miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi rừng hỗn hợp Kavkaz trải rộng khắp cực đông của dãy núi. Khu vực này là nơi sống của các loại động vật hoang dã Âu-Á như [[cắt hỏa mai]], [[đại bàng vàng]], [[đại bàng đầu nâu]], ''[[Clanga pomarina]]'', [[gà gô Kavkaz]], [[bạch yến trán đỏ]], và ''[[Tichodroma muraria]]''.<ref>{{cite book|last=Couzens|first=Dominic|title=Top 100 Birding Sites of the World|publisher=University of California Press|year=2008|isbn=978-0-520-25932-4|pages=73–75}}</ref> Dải duyên hải hẹp giữa dãy núi Pontic và biển Đen có rừng rụng lá Euxine-Colchic, gồm một số trong số ít khu rừng mưa ôn đới của thế giới.<ref>{{cite web|url=http://www.karalahana.com/english/rize-travel-highlands.htm|title=Pontic Mountains and highlands|accessdate=9 August 2014}}</ref>
[[Khí hậu]] Thổ Nhĩ Kỳ là [[khí hậu ôn hoà]] Địa Trung Hải, với mùa hè nóng và khô, mùa đông lạnh ẩm và dịu, dù các điều kiện thời tiết có thể khắc nghiệt hơn ở những vùng khô cằn bên trong.

Thổ Nhĩ Kỳ có 40 công viên quốc gia, 189 công viên tự nhiên, 31 khu vực bảo tồn tự nhiên, 80 khu vực bảo tồn loài hoang dã và 109 di tích tự nhiên như Công viên quốc gia lịch sử [[Gallipoli]], [[Nemrut (núi)|Công viên quốc gia núi Nemrut]], [[Troy|Công viên quốc gia Troy cổ đại]], Công viên tự nhiên Ölüdeniz và Công viên tự nhiên Polonezköy.<ref name=ministryofforest>{{cite web|title=Statistics|url=http://www.milliparklar.gov.tr/Anasayfa/istatistik.aspx?sflang=tr|website=milliparklar.gov.tr|publisher=Ministry of Forest and Water - General Directorare of Nature Conservation and National Parks|accessdate=12 June 2014}}</ref>

[[Ankara]] nổi tiếng với mèo Angora, thỏ Angora và dê Angora. Giống mèo quốc gia khác của Thổ Nhĩ Kỳ là mèo Van. Các giống chó quốc gia là [[Chó chăn cừu Anatoli|chó chăn cừu Anatolia]], [[chó Kangal|Kangal]], Malaklı và Akbaş.<ref name=gateofturkey>{{cite web|title=Specific Animals of Turkey|url=http://www.gateofturkey.com/section/tr/741/5/turizm-nature-tourism-endemic-animals|website=gateofturkey.com|accessdate=12 June 2014}}</ref>

===Khí hậu===
[[File:Climate diagram of Turkey (Sensoy, S. et al, 2008).png|thumb|Biểu đồ khí hậu của Thổ Nhĩ Kỳ<ref name=Meteo/>]]
Các khu vực duyên hải của Thổ Nhĩ Kỳ giáp với biển Aegea và Địa Trung Hải có [[khí hậu Địa Trung Hải]] ôn hòa, với mùa hè nóng khô và mùa đông mát ẩm.<ref name=Meteo>{{cite web|title=Climate of Turkey|url=http://www.dmi.gov.tr/files/en-US/climateofturkey.pdf|publisher=General Directorate of Meteorology|accessdate=24 January 2014}}</ref> Các khu vực duyên hải giáp với biển Đen có [[khí hậu đại dương]] ôn hòa với mùa hè ấm ẩm và mùa đông lạnh ẩm.<ref name=Meteo/> Duyên hải biển Đen của Thổ Nhĩ Kỳ nhận lượng [[giáng thủy]] lớn nhất và là khu vực duy nhất trong nước nhận được lượng giáng thủy cao suốt năm.<ref name=Meteo/> Phần phía đông của khu vực duyên hải này nhận được lượng giáng thủy hàng năm là {{convert|2200|mm|in}}, cao nhất toàn quốc.<ref name=Meteo/>

Các khu vực duyên hải giáp với biển Marmara có khí hậu chuyển tiếp giữa khí hậu Địa Trung Hải ôn hòa và khí hậu đại dương ôn hòa, với mùa hè từ ấm đến nóng và tương đối khô cùng mùa mưa từ mát đến lạnh và ẩm.<ref name=Meteo/> Tuyết rơi tại các khu vực duyên hải của biển Marmara và biển Đen hầu như tất cả mùa đông, song thường tan trong một vài ngày.<ref name=Meteo/> Tuy nhiên, tuyết hiếm khi rơi tại các khu vực duyên hải giáp với biển Aegea và rất hiếm tại các khu vực duyên hải giáp với Địa Trung Hải.<ref name=Meteo/>

Các ngọn núi gần bờ biển ngăn các ảnh hưởng Địa Trung Hải mở rộng đến nội lục, khiến miền trung cao nguyên Anatolia có khí hậu lục địa với các mùa tương phản mạnh.<ref name=Meteo/> Mùa đông tại phần phía đông của cao nguyên đặc biệt khắc nghiệt.<ref name=Meteo/> Nhiệt độ {{convert|−30|to|-40|C}} có thể xuất hiện tại miền đông Anatolia.<ref name=Meteo/> Tại phía tây, nhiệt độ trung bình mùa đông dưới 1&nbsp;°C (34&nbsp;°F).<ref name=Meteo/> Mùa hè nóng và khô, với nhiệt độ thường trên 30&nbsp;°C (86&nbsp;°F) vào ban ngày.<ref name=Meteo/> Lượng giáng thủy trung bình năm là khoảng 400 mm, thay đổi theo độ cao. Các khu vực khô nhất là đồng bằng Konya và đồng bằng Malatya, tại đó lượng mưa hàng năm thường dưới 300 mm (12&nbsp;in). Tháng 5 thường là tháng mưa nhiều nhất, còn tháng 7 và tháng 8 là các tháng khô nhất.<ref name=Meteo/>


== Khu vực hành chính ==
== Khu vực hành chính ==

Phiên bản lúc 14:05, ngày 23 tháng 3 năm 2015

Türkiye Cumhuriyeti
Tập tin:Emblem of the President of Turkey.svg
Quốc kỳ Huy hiệu
Bản đồ
Vị trí của Thổ Nhĩ Kỳ
Vị trí của Thổ Nhĩ Kỳ
Tiêu ngữ
Egemenlik, kayıtsız şartsız Milletindir
(tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Chủ quyền vô điều kiện thuộc về Quốc gia)
Quốc ca
İstiklâl Marşı
Hành chính
Chính phủCộng hòa nghị viện
Tổng thống
Thủ tướng
Recep Tayyip Erdoğan
Thủ đôAnkara
41°1′N 28°57′E
41°1′B 28°57′Đ / 41,017°B 28,95°Đ / 41.017; 28.950
Thành phố lớn nhấtIstanbul
Địa lý
Diện tích780.580 km² (hạng 36)
Diện tích nước1,3% %
Múi giờEET (UTC+3); mùa hè: CEST (UTC+2)
Lịch sử
Ngày thành lập
23 tháng 4 năm 1920
19 tháng 5 năm 1919
30 tháng 8 năm 1922
29 tháng 10 năm 1923
Ngôn ngữ chính thứcTiếng Thổ Nhĩ Kỳ
Dân số ước lượng (2012)79.749.461 [1] người (hạng 17)
Dân số (2000)67.844.903 người
Mật độ90 người/km² (hạng 82)
Kinh tế
GDP (PPP) (2006)Tổng số: 611,6 tỷ đô la Mỹ
HDI (2003)0,750 trung bình (hạng 94)
Đơn vị tiền tệLira Thổ Nhĩ Kỳ mới (TL)
Thông tin khác
Tên miền Internet.tr

Thổ Nhĩ Kỳ (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Türkiye [tyrkije]), tên chính thức là nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Türkiye Cumhuriyeti [tyrkije d͡ʒumhurijeti]  ( nghe)), là một quốc gia cộng hòa nghị viện xuyên lục địa, phần lớn nằm tại Tây Á và một phần nằm tại Đông Nam Âu. Thổ Nhĩ Kỳ có biên giới với tám quốc gia: Bulgaria ở phía tây bắc; Hy Lạp ở phía tây; Gruia ở phía đông bắc; Armenia, Iran và vùng tách rời Nakhchivan của Azerbaijan ở phía đông; và Iraq cùng Syria ở phía dông nam. Địa Trung Hải ở phía nam; biển Aegea ở phía tây; và biển Đen ở phía bắc. Biển Marmara, các eo biển BosphorusDardanelles phân ranh giới giữa Thrace và Anatolia, và cũng phân chia châu Âu và châu Á.[2] Vị trí nằm tại nơi giao cắt giữa châu Âu và châu Á khiến Thổ Nhĩ Kỳ có tầm quan trọng địa chiến lược đáng kể.[3]

Thổ Nhĩ Kỳ có người cư trú từ thời đại đồ đá cũ,[4] Sau khi bị Alexandros Đại đế chinh phục, khu vực bị Hy Lạp hóa, quá trình này tiếp tục dưới sự cai trị của Đế quốc La Mã rồi tiếp theo là Đế quốc Đông La Mã.[5][6] Người Thổ Seljuk bắt đầu di cư đến khu vực vào thế kỷ 11, khởi đầu quá trình Thổ Nhĩ Kỳ hóa.[7] Bắt đầu từ cuối thế kỷ 13, người Ottoman thống nhất Anatolia và thiết lập một đế quốc bao gồm nhiều lãnh thổ tại Đông Nam Âu, Tây Á và Bắc Phi, trở thành một cường quốc chủ yếu tại Âu-Á và châu Phi trong thời kỳ đầu hiện đại. Đế quốc đạt đỉnh cao quyền lực trong thế kỷ 15-17. Các cải cách Tanzimat trong thế kỷ 19 nhằm hiện đại hóa Ottoman là không đủ, và thất bại trong việc ngăn chặn đế quốc tan rã.[8] Đế quốc Ottoman tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai trong Liên minh Trung tâm và cuối cùng chiến bại. Chiến tranh giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ do Mustafa Kemal Atatürk và các cộng sự của ông đề xướng tại Anatolia, dẫn đến việc thành lập nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại vào năm 1923, với Atatürk là tổng thống đầu tiên.[9]

Thổ Nhĩ Kỳ là một nước cộng hòa dân chủ, thế tục, đơn nhất, và lập hiến với một di sản văn hóa đa dạng.[10][11] Ngôn ngữ chính thức của quốc gia là tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, đây là ngôn ngữ tự nhiên của xấp xỉ 85% cư dân.[12] 70–80% dân số thuộc dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ; phần còn lại gồm các dân tộc thiểu số như người Kurd.[10] Đại đa số cư dân là tín đồ Hồi giáo.[10] Thổ Nhĩ Kỳ là một thành viên của Liên Hiệp Quốc, NATO, OECD, OSCE, OICG-20. Sau khi trở thành một trong các thành viên đầu tiên của Ủy hội châu Âu vào năm 1949, Thổ Nhĩ Kỳ trở thành một thành viên liên kết của EEC vào năm 1963, gia nhập Liên minh Thuế quan EU vào năm 1995 và bắt đầu các cuộc đàm phán về quyền thành viên đầy đủ với Liên minh châu Âu vào năm 2005.[13] Kinh tế tăng trưởng và các sáng kiến ngoại giao của Thổ Nhĩ Kỳ khiến quốc gia này được công nhận là một cường quốc khu vực.[14][15][16][17]

Lịch sử

Tiền sử của Anatolia và Đông Thrace

Cổng Sư tử tại Hattusa, thủ đô của Đế quốc Hittite. Lịch sử của thành phố truy nguyên đến thiên niên kỷ 6 TCN.[18]

Bán đảo Anatolia là một trong những khu vực định cư vĩnh cửu cổ nhất trên thế giới. Nhiều cư dân Anatolia cổ đại cư trú tại bán đảo, ít nhất là từ Thời đại đồ đá mới cho đến cuộc chinh phục của Alexandros Đại đế.[5] Nhiều dân tộc nói một trong các ngôn ngữ Anatolia, một nhánh của Ngữ hệ Ấn-Âu.[19] Dựa trên tính cổ xưa của các ngôn ngữ Hittite và Luwia, một số học giả đề xuất Anatolia là trung tâm giả thuyết mà từ đó các ngôn ngữ Ấn-Âu tỏa ra.[20] Phần thuộc châu Âu của Thổ Nhĩ Kỳ được gọi là Đông Thrace, khu vực này có người cư trú từ ít nhất là bốn mươi nghìn năm trước, và được biết đến là nằm trong Thời đại đồ đá mới vào khoảng 6000 TCN khi các cư dân bắt đầu thực hiện nông nghiệp.[21]

Göbekli Tepe là địa điểm có cấu trúc tôn giáo nhân tạo cổ nhất được biết đến, một đền thờ có niên đại từ 10.000 TCN,[22] trong khi Çatalhöyük là một khu dân cư Thời đại đồ đá mới và đồ đồng đá rất lớn tại miền nam Anatolia, tồn tại từ khoảng 7500 TCN tới 5700 TCN.[23] Khu dân cư Troy bắt đầu vào thời đại đồ đá mới và tiếp tục đến thời đại đồ sắt.[24]

Những cư dân sớm nhất của Anatolia theo ghi chép là người Hatti và người Hurria, là các dân tộc phi Ấn-Âu lần lượt cư trú tại miền trung và miền đông Anatolia, từ khoảng 2300 TCN. Người Hittite Ấn-Âu đến Anatolia và dần hấp thu người Hattia và Hurria vào khoảng 2000–1700 TCN. Đế quốc lớn đầu tiên trong khu vực do người Hittite thành lập, tồn tại từ thé kỷ 18 đến thế kỷ 13 TCN. Người Assyria chinh phục và định cư tại nhiều nơi của miền đông nam Thổ Nhĩ Kỳ từ 1950 TCN cho đến năm 612 TCN.[25][26] Urartu tái xuất hiện trên các câu khắc Assyria vào thế kỷ 9 TCN như một đối thủ phương bắc hùng mạnh của Assyria.[27]

Sau khi Đế quốc Hittite sụp đổ vào khoảng 1180 TCN, một dân tộc Ấn-Âu là Phrygia giành được uy thế tại Anatolia cho đến khi vương quốc của họ bị người Cimmeria tiêu diệt vào thế kỷ 7 TCN.[28] Bắt đầu từ 714 BC, Urartu có số phận tương tự và giải thể vào năm 590 TCN.[29] Các quốc gia kế thừa hùng mạnh nhất của Phrygia là Lydia, CariaLycia.[30]

Thời cổ đại và Đông La Mã

Hagia Sophia tại Istanbul nguyên là một nhà thờ Cơ Đốc giáo, sau là một thánh đường Hồi giáo và hiện là một bảo tàng, công trình được người Byzantine xây dựng trong thế kỷ 6.

Bắt đầu từ khoảng 1200 TCN, người Hy Lạp Aeolus và Ionia định cư nhiều tại duyên hải Anatolia. Nhiều thành phố quan trọng được họ lập ra, như Miletus, Ephesus, SmyrnaByzantium. Quốc gia đầu tiên được các dân tộc lân cận gọi là Armenia là quốc gia của triều đại Orontid, bao gồm các bộ phận miền đông Thổ Nhĩ Kỳ, bắt đầu từ thế kỷ 6 TCN. Tại tây bắc Thổ Nhĩ Kỳ, nhóm bộ tộc quan trọng nhất tại Thrace là Odyrisia.[31]

Đế quốc Achaemenes Ba Tư chinh phục Anatolia trong các thế kỷ 6 và 5 TCN, rồi thất thủ trước Alexandros Đại đế vào năm 334 TCN,[32] sự kiện này làm gia tăng tính đồng nhất văn hóa và Hy Lạp hóa trong khu vực.[5] Sau khi Alexandros Đại đế từ trần vào năm 323 TCN, Anatolia bị phân chia thành một số vương quốc Hy Lạp hóa nhỏ, toàn bộ chúng đều trở thành bộ phận của Cộng hòa La Mã vào khoảng giữa thế kỷ 1 TCN.[33] Quá trình Hy Lạp hóa vốn bắt đầu bằng cuộc chinh phục của Alexandros được tăng tốc dưới sự cai trị của La Mã, và đến khoảng những thế kỷ đầu CN thì ngữ tộc Anatolia và văn hóa bản địa bị tuyệt diệt, phần lớn bị thay thế bằng ngôn ngữ và văn hóa Hy Lạp cổ đại.[6][34]

Năm 324, Constantine I lựa chọn Byzantium làm thủ đô mới của Đế quốc La Mã. Sau khi Theodosius I từ trần vào năm 395 và đế quốc bị phân chia vĩnh viễn giữa hai con trai của ông, thành phố trở thành thủ đô của Đế quốc Đông La Mã và có tên gọi đại chúng là Constantinopolis. Đế quốc Đông La Mã cai trị hầu hết lãnh thổ nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ cho đến Hậu kỳ Trung Cổ.[35]

Người Seljuk và Đế quốc Ottoman

Bảo tàng Mevlana tại Konya do người Thổ Seljuk xây dựng vào năm 1274. Konya là thủ đô của Hồi quốc Rum.[36]

Nhà Seljuk là một nhánh của người Thổ Oghuz Kınık, những người cư trú tại ngoại vi của thế giới Hồi giáo, trong Hãn quốc Yabghu của liên minh Oguz, từ phía bắc của các biển CaspiaAral, trong thế kỷ 9.[37] Trong thế kỷ 10, người Seljuk bắt đầu di cư đến Ba Tư, nơi này trở thành trung tâm hành chính của Đế quốc Đại Seljuk.[38]

Trong nửa cuối của thế kỷ 11, người Seljuk bắt đầu thâm nhập các khu vực miền đông của Anatolia. Năm 1071, người Thổ Seljuk đánh bại người Đông La Mã trong trận Manzikert, khởi đầu Thổ hóa khu vực, ngôn ngữ Thổ Nhĩ KỳHồi giáo được đưa đến Anatolia và dần truyền bá khắp khu vực và tiến hành chuyển đổi chậm Anatolia từ khu vực chủ yếu Cơ Đốc giáo và Hy Lạp ngữ sang chủ yếu Hồi giáo và Thổ ngữ.[39]

Năm 1243, quân đội Seljuk bị người Mông Cổ đánh bại, khiến quyền lực của Đế quốc Seljuk từ từ tan rã. Trong bối cảnh này, một trong các thân vương quốc Thổ do Osman I cai trị tiến triển thành Đế quốc Ottoman. Năm 1453, người Ottoman hoàn thành chinh phục Đế quốc Đông La Mã khi chiếm lĩnh Constantinopolis.[40]

Năm 1514, Sultan Selim I (1512–1520) bành trướng thành công biên giới phía nam và phía đông của Đế quốc khi đánh bại Shah Ismail I của triều đại Safavid trong trận Chaldiran. Năm 1517, Selim I bành trướng quyền cai trị của Ottoman đến AlgeriaAi Cập, và thiết lập hiện diện hải quân tại biển Đỏ. Sau đó, Ottoman và Bồ Đào Nha bắt đầu cạnh tranh để trở thành thế lực hải dương chi phối tại Ấn Độ Dương. Sự hiện diện của người Bồ Đào Nha tại Ấn Độ Dương được cho là một mối đe dọa đối với độc quyền của Ottoman trên các tuyến mậu dịch cổ giữa Đông Á và Tây Âu. Độc quyền quan trọng này càng bị tổn hại sau khi người Bồ Đào Nha phát hiện tuyến hàng hải vòng qua châu Phi vào năm 1488, một tác động đáng kể đối với kinh tế Ottoman.[41]

Quyền lực và thanh thế của Ottoman đạt đỉnh trong thế kỷ 16 và 17, đặc biệt là trong triều đại của Suleiman I. Ottoman thường xung đột với Đế quốc La Mã Thần thánh trong bước tiến vững chắc của mình hướng đến Trung Âu qua Balkan và phần phía nam của Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva.[42] Trên hải dương, Hải quân Ottoman đấu tranh với vài liên minh Công giáo để kiểm soát Địa Trung Hải. Tại phía đông, người Ottoman thỉnh thoảng có chiến tranh với Safavid Ba Tư từ thế kỷ 16 đến 18 do tranh chấp lãnh thổ và khác biệt tôn giáo.[43]

Từ đầu thế kỷ 19 trở đi, Ottoman bắt đầu suy yếu, kích thước lãnh thổ cùng năng lực quân sự và thịnh vượng dần giảm đi, khiến nhiều người Hồi giáo Balkan di cư đến phần trung tâm của Đế quốc tại Anatolia,[44][45] Ottoman suy yếu khiến tình cảm dân tộc chủ nghĩa nổi lên trong các dân tộc khác nhau, dẫn đến gia tăng căng thẳng dân tộc mà đôi khi bùng phát thành bạo lực.[46]

Ottoman tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất bên phe Liên minh Trung tâm và cuối cùng chiến bại. Trong chiến tranh, người Armenia trong Đế quốc bị trục xuất từ miền đông Anatolia đến Syria như bộ phận của Cuộc diệt chủng người Armenia. Theo ước tính, có 1,5 triệu người Armenia bị sát hại.[47][48][49][50] Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ bác bỏ đó là một cuộc diệt chủng và tuyên bố rằng người Armenia chỉ bị tái định cư từ khu vực chiến sự phía đông.[51] Sau Hiệp định đình chiến Mudros vào ngày 30 tháng 10 năm 1918, Đồng Minh tìm cách phân chia Ottoman thông qua Hòa ước Sèvres 1923.[40]

Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ

Tập tin:MustafaKemalAtaturk.jpg
Mustafa Kemal Atatürk, tổng thống khai quốc của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ.

Trước việc Đồng Minh chiếm đóng Constantinopolis và Smyrna, Phong trào Dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ được xúc tiến thành lập.[52] Dưới quyền lãnh đạo của Mustafa Kemal, Chiến tranh giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ được tiến hành với mục tiêu hủy bỏ các điều khoản của Hòa ước Sèvres.[53]

Đến ngày 18 tháng 9 năm 1922, các quân đội chiếm đóng bị trục xuất, và chính thể Thổ Nhĩ Kỳ đặt tại Ankara bắt đầu chính thức hóa chuyển giao tư pháp từ Ottoman sang hệ thống chính trị Cộng hòa mới. Ngày 1 tháng 11, nghị viện mới hình thành chính thức bãi bỏ Đế quốc. Hiệp ước Lausanne ngày 24 tháng 7 năm 1923 dẫn đến việc quốc tế công nhận chủ quyền của "Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ" mới hình thành với vị thế quốc gia liên tục của Đế quốc Ottoman, và nước cộng hòa được tuyên bố chính thức vào ngày 29 tháng 10 năm 1923 tại thủ đô mới Ankara.[54] Hiệp định Lausanne quy định trao đổi cư dân giữa Hy Lạp và Thổ nhĩ Kỳ, do đó 1,1 triệu người Hy Lạp rời Thổ Nhĩ Kỳ trong khi 380 nghìn người Hồi giáo chuyển từ Hy Lạp sang Thổ Nhĩ Kỳ.[55] Mustafa Kemal trở thành tổng thống đầu tiên của nước cộng hòa và sau đó tiến hành nhiều cải cách căn bản với mục tiêu chuyển đổi quốc gia Ottoman-Thổ Nhĩ Kỳ cũ thành một nước cộng hòa thế tục mới.[56]

Thổ Nhĩ Kỳ duy trì trung lập trong hầu hết Chiến tranh thế giới thứ hai, tuy nhiên tham gia trong giai đoạn cuối của chiến tranh bên phe Đồng Minh vào ngày 23 tháng 2 năm 1945. Ngày 26 tháng 6 năm 1945, Thổ Nhĩ Kỳ trở thành một thành viên hiến chương của Liên Hiệp Quốc.[57] Khó khăn của Hy Lạp sau chiến tranh đàn áp nổi loạn cộng sản, cùng với các yêu cầu của Liên Xô về căn cứ quân sự tại các eo biển Thổ nhĩ Kỳ, xúc tiến Hoa Kỳ tuyên bố Học thuyết Truman vào năm 1947. Học thuyết đề ra các mục đích của Hoa Kỳ để đảm bảo an ninh cho Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp, kết quả là hỗ trợ quân sự và kinh tế quy mô lớn của Hoa Kỳ. Hai quốc gia tham dự Kế hoạch MarshallOEEC về tái thiết các nền kinh tế châu Âu vào năm 1948,[58] và sau đó trở thành các thành viên sáng lập của OECD vào năm 1961.[59]

Sau khi tham gia cùng lực lượng Liên Hiệp Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên, Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập NATO vào năm 1952, trở thành một tường thành chống lại sự bành trướng của Liên Xô đến Địa Trung Hải. Sau một thập niên bạo lực giữa các cộng đồng tại Síp, và đảo chính tại Síp vào ngày 15 tháng 7 năm 1974, trong đó phế truất Tổng thống Makarios và đưa nhân vật ủng hộ liên minh với Hy Lạp là Nikos Sampson lên cầm quyền, Thổ Nhĩ Kỳ xâm chiếm Síp vào ngày 20 tháng 7 năm 1974.[60] Chín năm sau đó, Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ Bắc Síp được thành lập, Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia duy nhất công nhận chính thể này.[61]

Giai đoạn độc đảng kết thúc vào năm 1945, sau đó là một chuyển đổi náo động sang dân chủ đa đảng trong vài thập niên kế tiếp, bị gián đoạn do đảo chính quân sự vào năm 1960, 1971, và 1980, cũng như một bị vong lục quân sự vào năm 1997.[62][63] Năm 1984, một nhóm ly khai người Kurd mang tên PKK bắt đầu chiến dịch nổi loạn chống chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ.[64] Kể từ khi tự do hóa kinh tế trong thập niên 1980, Thổ Nhĩ Kỳ đạt được tăng trưởng kinh tế mạnh hơn và ổn định chính trị lớn hơn.[65]

Chính trị

Thổ Nhĩ Kỳ

Chính trị và chính phủ
Thổ Nhĩ Kỳ


Các nước khác
Lỗi: không có tên trang được chỉ định (trợ giúp).

Chính trị Thổ Nhĩ Kỳ dựa trên hệ thống cộng hoà nghị viện đại diện dân chủ phi tôn giáo, theo đó Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳlãnh đạo chính phủ, và một hệ thống đa đảng. Quyền hành pháp thuộc về chính phủ. Quyền lập pháp thuộc cả chính phủQuốc hội Thổ Nhĩ Kỳ. Tư pháp độc lập với hành pháp và lập pháp.

Quan hệ nước ngoài

Các mối quan hệ chính trị, kinh tế và quân sự chính của Thổ Nhĩ Kỳ là với phương Tây và Hoa Kỳ. Thổ Nhĩ Kỳ hiện đang trong quá trình gia nhập Liên minh Châu Âu, và họ đã ký kết thỏa thuận liên kết với khối này từ năm 1964, cũng như Liên minh Thuế quan từ năm 1996. Một trở ngại chính ngăn cản tham vọng gia nhập EU của họ là vấn đề Síp, một thành viên của EU mà Thổ Nhĩ Kỳ không công nhận, nhưng họ lại ủng hộ "nước" Cộng hòa bắc Síp Thổ Nhĩ Kỳ trên thực tế. Ankara đã nhiều lần bị hối thúc phải mở cửa các cảng của mình và công nhận Cộng hòa Síp nếu không sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn trong đàm phán. Thổ Nhĩ Kỳ ủng hộ một thỏa thuận hòa bình năm 2004 do Liên hiệp quốc bảo trợ nhưng bị người Síp Hy Lạp phản đối, còn người Síp Thổ Nhĩ Kỳ ủng hộ, vì thế phần Síp Hy Lạp đã được trao tư cách thành viên. Chính quyền Síp Hy Lạp đe dọa dùng quyền phủ quyết của họ nếu Ankara không đáp ứng các yêu cầu của EU, dù việc này đã bị coi là một hành động khó có thể xảy ra và có thể dẫn tới việc Thổ Nhĩ Kỳ sáp nhập phần phía bắc đảo Síp với đa số dân Thổ Nhĩ Kỳ.

Thổ Nhĩ Kỳ là một đồng minh thân cận của Hoa Kỳ, ủng hộ nước này trong cuộc chiến chống khủng bố sau sự kiện 11 tháng 9. Tuy nhiên, chiến tranh Iraq đã gây ra nhiều phản ứng mạnh mẽ trong nước và vì thế nghị viện Thổ Nhĩ Kỳ đã phải bỏ phiếu chống lại việc cho phép quân đội Mỹ tấn công Iraq từ Thổ Nhĩ Kỳ. Việc này đã dẫn tới một giai đoạn lạnh nhạt trong quan hệ hai nước, nhưng lại nhanh chóng qua đi cùng với những viện trợ gián tiếp về nhân đạo quân sự và các biện pháp ngoại giao. Thổ Nhĩ Kỳ đặc biệt lo ngại về sự nổi lên của một nhà nước của người Kurd sau khi Mỹ tấn công Iraq. Thổ Nhĩ Kỳ đã tiến hành một cuộc chiến chống lại cuộc nổi dậy của PKK, một nhóm du kích người Kurd đòi thành lập một quốc gia độc lập của người Kurd, cuộc chiến đã khiến khoảng 30.000 người thiệt mạng. Vì thế Ankara đã gây áp lực với Mỹ kiểm soát chặt chẽ các trại huấn luyện du kích ở phía bắc Iraq, dù Mỹ tỏ ra khá miễn cưỡng vì ở đây vẫn yên ổn hơn miền bắc Iraq. Vì thế Thổ Nhĩ Kỳ phải cân bằng các áp lực trong nước bằng cách cam kết sát cánh với đồng minh mạnh nhất của mình.

Các quan hệ với nước Hy Lạp láng giềng vốn đã căng thẳng từ trong quá khứ, và nhiều lần đã cận kề tình trạng chiến tranh. Síp và những tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển Êgê (Aegean) vẫn là điểm bất đồng chính giữa hai nước. Síp tiếp tục bị chia thành Síp Hy Lạp phía nam và Síp Thổ Nhĩ Kỳ phía bắc, và các nỗ lực nhằm thống nhất hòn đảo này dưới sự bảo trợ của Liên hiệp quốc vẫn chưa mang lại thành công. Vùng biển Êgê, có tầm quan trọng chiến lược đối với tàu bè Thổ Nhĩ Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ đã tuyên bố rõ ràng rằng họ sẽ không chấp nhận 12 hải lý lãnh hải bao quanh hòn đảo. Dù sao những tranh chấp lịch sử giữa hai đối thủ cũng đã có phần giảm nhẹ, sau cuộc động đất có mức độ tàn phá lớn năm 1999 tại Thổ Nhĩ Kỳ, và sự giúp đỡ nhanh chóng của Hy Lạp quan hệ hai nước đã bước vào một giai đoạn ấm dần lên, với việc Hy Lạp ủng hộ tư cách ứng cử viên gia nhập EU của Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày 23 tháng 5, 2006, một máy bay chiến đấu Hy Lạp và một của Thổ Nhĩ Kỳ đã va chạm vào nhau trên bầu trời phía nam vùng biển Êgê. Viên phi công Hy Lạp thiệt mạng trong khi phi công Thổ Nhĩ Kỳ nhảy dù an toàn. Cả hai nước đã đồng ý rằng sự kiện này sẽ không làm ảnh hưởng tới mối quan hệ của họ.[66]

Quân đội

Lực lượng quân đội Thổ Nhĩ Kỳ (tiếng Thổ: Türk Silahlı Kuvvetleri hay TSK) gồm Quân đội, Hải quân (gồm Không quân Hải quân và Thủy quân lục chiến) và Không quân. Hiến binh và lực lượng Phòng vệ bờ biển hoạt động trong khuôn khổ Bộ nội vụ trong thời bình và phụ thuộc vào Quân đội cũng như Hải quân. Thời chiến cả hai đều có chức năng bảo vệ pháp luật và quân sự. Các lực lượng quân đội, với số binh lính lên tới 1.043.550[67] người, là đội quân đông thứ hai trong NATO sau Hoa Kỳ. Hiện tại, 36.000[68] quân đồn trú tại Bắc Síp được Thổ Nhĩ Kỳ công nhận. Mọi nam giới là công dân Thổ phải phục vụ trong quân đội trong những thời hạn khác nhau từ 1 đến 15 tháng tùy theo trình độ giáo dục, vị trí công việc. Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành một thành viên của NATO từ ngày 18 tháng 2, 1952.

Năm 1998, Thổ Nhĩ Kỳ đã thông báo một chương trình hiện đại hóa quân đội giá trị khoảng $31 tỷ trong giai đoạn mười năm gồm xe tăng, máy bay trực thăng và vũ khí tấn công. Thổ Nhĩ Kỳ là bên đóng góp đứng hạng ba vào chương trình Máy bay tấn công chung (JSF), khiến họ có cơ hội phát triển và có ảnh hưởng tới việc chế tạo thế hệ máy bay tấn công tiếp theo của Hoa Kỳ.

Theo truyền thống, các lực lượng vũ trang có vị thế quyền lực chính trị quan trọng, tự coi mình là người bảo vệ di sản của Atatürk. Họ đã thực hiện ba cuộc đảo chính trong giai đoạn 1960 và 1980, trong khi cũng có tác động quan trọng tới việc lật đổ chính phủ theo khuynh hướng Hồi giáo của Necmettin Erbakan năm 1997. Thông qua Hội đồng an ninh quốc gia, quân đội gây ảnh hưởng tới chính sách về các vấn đề mà họ coi là mối đe dọa tới đất nước, gồm cả vấn đề liên quan tới cuộc nổi dậy của người Kurd, và Chủ nghĩa Hồi giáo. Trong những năm gần đây, các cuộc cải cách đã được tiến hành để tăng cường sự hiện diện dân sự trong NSC và giảm bớt ảnh hưởng của giới quân sự nhằm đáp ứng tiêu chí Copenhagen của EU. Dù ảnh hưởng trong lĩnh vực dân sự đã giảm bớt, quân đội tiếp tục được quốc gia ủng hộ vai trò quan trọng của họ, thường xuyên được người dân coi là thể chế đáng tin cậy nhất.[69]

Tư lệnh Lục quân kiêm quyền Tổng tham mưu trưởng Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay là Necdet Ozel.

Địa lý

Bản đồ địa hình Thổ Nhĩ Kỳ

Thổ Nhĩ Kỳ là một quốc gia liên lục địa[70] Á-Âu. Phần lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ thuộc châu Á chiếm 97% diện tích toàn quốc, tách khỏi phần lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ thuộc châu Âu qua eo biển Bosphorus, biển Marmara, và eo biển Dardanelles. Phần lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ thuộc châu Âu chiếm 3% diện tích toàn quốc.[71] Lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kỳ dài trên 1.600 km và rộng trên 800 km, có hình dạng gần giống hình chữ nhật.[72] Thổ Nhĩ Kỳ nằm giữa các vĩ độ 35° và 43° Bắc, và các kinh độ 25° và 45° Đông. Diện tích của Thổ Nhĩ Kỳ, gồm cả mặt hồ, là 783.562 km²[73], trong đó 755.688 km² nằm tại Tây Nam Á và 23.764 km² nằm tại châu Âu.[72] Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia lớn thứ 37 thế giới xét theo diện tích. Quốc gia này có biển bao quanh tại ba mặt: biển Aegea tại phía tây, biển Đen tại phía bắc và Địa Trung Hải tại phía nam. Thổ Nhĩ Kỳ có biển Marmara tại phía tây bắc.[74]

Phần thuộc châu Âu của Thổ Nhĩ Kỳ là Đông Thrace, có biên giới với Hy Lạp và Bulgaria. Phần thuộc châu Á của Thổ Nhĩ Kỳ là Anatolia, gồm một cao nguyên trung ương có độ cao lớn cùng các đồng bằng duyên hải hẹp, nằm giữa các dãy núi Köroğlu và Pontic tại phía bắc và Taurus tại phía nam. Miền đông của Thổ nhĩ Kỳ có cảnh quan đồi núi hơn và là nguồn của các sông như Euphrates, TigrisAras, và có điểm cao nhất Thổ Nhĩ Kỳ là Núi Ararat với cao độ 5.137 m,[75] và hồ lớn nhất toàn quốc là hồ Van.[76]

Thổ Nhĩ Kỳ được phân thành bảy khu vực điều tra nhân khẩu: Marmara, Aegea, Biển Đen, Trung Anatolia, Đông Anatolia, Đông Nam Anatolia và Địa Trung Hải. Địa hình gồ ghế tại phía bắc Anatolia dọc theo biển Đen giống như một dải dài và hẹp. Như khuynh chướng chung, cao nguyên Anatolia nội lục ngày càng gồ ghề khi đi về phía đông.[74]

Cảnh quan đa dạng của Thổ Nhĩ Kỳ là kết quả của các hoạt động địa chất phức tạp, tạo thành hình khu vực trong hàng nghìn năm và vẫn biểu thị thông qua các trận động đất khá thường xuyên và thỉnh thoảng là phun trào núi lửa. Các eo biển BosphorusDardanelles xuất hiện do đường đứt gãy chạy qua Thổ Nhĩ Kỳ, đường đứt gãy này nguyên dẫn đến hình thành biển Đen. Tồn tại một đường đứt gãy động đất chạy qua phía bắc của quốc gia từ tây sang đông.[30]

Đa dạng sinh học

Tu viện Sümela trên dãy núi Pontic. Những ngọn núi này tạo thành một khu vực sinh thái với các loại rừng mưa ôn đới đa dạng.

Hệ sinh thái đặc biệt và sự đa dạng về môi trường sống của Thổ Nhĩ Kỳ sản sinh đa dạng đáng kể về loài.[77] Anatolia lăuề hương của nhiều loài thực vật đã được canh tác để làm thực phẩm từ khi xuất hiện nông nghiệp, và các tổ tiên hoang dã của nhiều thực vật mà hiện cung cấp lương thực cho nhân loại vẫn mọc tại Thổ Nhĩ Kỳ. Tính đa dạng của động vật tại Thổ Nhĩ Kỳ thậm chí còn lớn hơn của thực vật, số lượng loài động vật trên toàn châu Âu là khoảng 60.000; tại Thổ Nhĩ Kỳ có trên 8.000.[78]

Rừng hạt trần và rụng lá Bắc Anatolia là một hệ sinh thái bao trùm hầu hết Dãy núi Pontic tại miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi rừng hỗn hợp Kavkaz trải rộng khắp cực đông của dãy núi. Khu vực này là nơi sống của các loại động vật hoang dã Âu-Á như cắt hỏa mai, đại bàng vàng, đại bàng đầu nâu, Clanga pomarina, gà gô Kavkaz, bạch yến trán đỏ, và Tichodroma muraria.[79] Dải duyên hải hẹp giữa dãy núi Pontic và biển Đen có rừng rụng lá Euxine-Colchic, gồm một số trong số ít khu rừng mưa ôn đới của thế giới.[80]

Thổ Nhĩ Kỳ có 40 công viên quốc gia, 189 công viên tự nhiên, 31 khu vực bảo tồn tự nhiên, 80 khu vực bảo tồn loài hoang dã và 109 di tích tự nhiên như Công viên quốc gia lịch sử Gallipoli, Công viên quốc gia núi Nemrut, Công viên quốc gia Troy cổ đại, Công viên tự nhiên Ölüdeniz và Công viên tự nhiên Polonezköy.[81]

Ankara nổi tiếng với mèo Angora, thỏ Angora và dê Angora. Giống mèo quốc gia khác của Thổ Nhĩ Kỳ là mèo Van. Các giống chó quốc gia là chó chăn cừu Anatolia, Kangal, Malaklı và Akbaş.[82]

Khí hậu

Biểu đồ khí hậu của Thổ Nhĩ Kỳ[83]

Các khu vực duyên hải của Thổ Nhĩ Kỳ giáp với biển Aegea và Địa Trung Hải có khí hậu Địa Trung Hải ôn hòa, với mùa hè nóng khô và mùa đông mát ẩm.[83] Các khu vực duyên hải giáp với biển Đen có khí hậu đại dương ôn hòa với mùa hè ấm ẩm và mùa đông lạnh ẩm.[83] Duyên hải biển Đen của Thổ Nhĩ Kỳ nhận lượng giáng thủy lớn nhất và là khu vực duy nhất trong nước nhận được lượng giáng thủy cao suốt năm.[83] Phần phía đông của khu vực duyên hải này nhận được lượng giáng thủy hàng năm là 2.200 milimét (87 in), cao nhất toàn quốc.[83]

Các khu vực duyên hải giáp với biển Marmara có khí hậu chuyển tiếp giữa khí hậu Địa Trung Hải ôn hòa và khí hậu đại dương ôn hòa, với mùa hè từ ấm đến nóng và tương đối khô cùng mùa mưa từ mát đến lạnh và ẩm.[83] Tuyết rơi tại các khu vực duyên hải của biển Marmara và biển Đen hầu như tất cả mùa đông, song thường tan trong một vài ngày.[83] Tuy nhiên, tuyết hiếm khi rơi tại các khu vực duyên hải giáp với biển Aegea và rất hiếm tại các khu vực duyên hải giáp với Địa Trung Hải.[83]

Các ngọn núi gần bờ biển ngăn các ảnh hưởng Địa Trung Hải mở rộng đến nội lục, khiến miền trung cao nguyên Anatolia có khí hậu lục địa với các mùa tương phản mạnh.[83] Mùa đông tại phần phía đông của cao nguyên đặc biệt khắc nghiệt.[83] Nhiệt độ −30 đến −40 °C (−22 đến −40 °F) có thể xuất hiện tại miền đông Anatolia.[83] Tại phía tây, nhiệt độ trung bình mùa đông dưới 1 °C (34 °F).[83] Mùa hè nóng và khô, với nhiệt độ thường trên 30 °C (86 °F) vào ban ngày.[83] Lượng giáng thủy trung bình năm là khoảng 400 mm, thay đổi theo độ cao. Các khu vực khô nhất là đồng bằng Konya và đồng bằng Malatya, tại đó lượng mưa hàng năm thường dưới 300 mm (12 in). Tháng 5 thường là tháng mưa nhiều nhất, còn tháng 7 và tháng 8 là các tháng khô nhất.[83]

Khu vực hành chính

Múi giờ của Thổ Nhĩ Kỳ là (GMT-4:00)

Thổ Nhĩ Kỳ được chia thành 81 tỉnh (iller trong tiếng Thổ; số ít il). Mỗi tỉnh lại được chia thành tỉnh nhỏ (ilçeler; số ít ilçe). Tỉnh thường được đặt cùng tên với thành phố thủ phủ, cũng được gọi là các trung tâm tỉnh nhỏ; ngoại trừ Hatay (thủ phủ: Antakya), Kocaeli (thủ phủ: İzmit) và Sakarya (thủ phủ: Adapazarı). Các tỉnh lớn gồm: İstanbul 11 triệu, Ankara 4 triệu, İzmir 3.5 triệu, Bursa 2.1 triệu, Tỉnh Konya 2.2 triệu, Tỉnh Adana 1.8 triệu.

Các thành phố

Thành phố thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ là Ankara, nhưng thủ đô lịch sử là İstanbul vẫn là một trung tâm văn hoá, kinh tế và tài chính quan trọng của đất nước. Các thành phố quan trọng khác gồm İzmir, Bursa, Adana, Trabzon, Malatya, Gaziantep, Erzurum, Kayseri, İzmit (Kocaeli), Konya, Mersin, Eskişehir, Diyarbakır, AntalyaSamsun. Ước tính 68% dân số Thổ Nhĩ Kỳ sống tại các vùng thành thị.[84]

Kinh tế

Bản mẫu:Kinh tế quốc gia

Kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ là sự hòa trộn phức tạp giữa thương mại và công nghiệp hiện đại cùng với lĩnh vực nông nghiệp truyền thống trong năm 2005 vẫn chiếm tới 30% lực lượng lao động. Thổ Nhĩ Kỳ có khu vực kinh tế tư nhân mạnh và phát triển nhanh, nhưng nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng trong công nghiệp căn bản, ngân hàng, vận tải, và viễn thông.

Thổ Nhĩ Kỳ đã tiến hành nhiều cải cách trong thập niên 1980 nhằm mục đích biến nền kinh tế từ một hệ thống trì trệ, cô lập thành một nền kinh tế với lĩnh vực tư nhân chiếm phần trăm lớn hơn và dựa trên thị trường. Những cải cách đã mang lại phát triển kinh tế cao, nhưng sự tăng trưởng này đã bị ngắt quãng bởi một cuộc khủng hoảng đột ngột và các khủng hoảng tài chính năm 1994, 1999, và 2001. Việc Thổ Nhĩ Kỳ không thành công trong nỗ lực theo đuổi cách cải cách kinh tế cộng với những khoản nợ lớn ngày càng tăng của lĩnh vực công cộng khiến lạm phát tăng cao, làm tăng tính bất ổn của kinh tế vĩ mô và một lĩnh vực ngân hàng yếu kém.

GDP trên đầu người từng đạt mức rất cao 210% ở thập niên bảy mươi. Nhưng không bền vững và đã giảm mạnh xuống còn 70% trong thập niên tám mươi và ở mức đáng thất vọng 11% những năm chín mươi.

Chính phủ Ecevit, lên nắm quyền từ năm 1999 tới 2002, đã tái khởi động các cải cách cấu trúc cùng lúc với các chương trình kinh tế đang thực hiện theo thoả thuận ký kết với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), gồm cả việc thông qua cải cách an sinh xã hội, cải cách tài chính công cộng, ngân hàng nhà nước, lĩnh vực ngân hàng, tăng tính minh bạch của lĩnh vực công cộng và cũng đưa ra các luật lệ liên quan nhằm tự do hoá lĩnh vực thông tin và năng lượng. Theo chương trình của IMF, chính phủ cũng tìm cách sử dụng chính sách tỷ giá hối đoái để kiềm chế lạm phát.

Trong thập kỷ 1990, kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ trải qua một giai đoạn thay đổi chính phủ liên tục với các chính sách điều hành kinh tế kém cỏi, dẫn tới một chu trình phát triển-khủng hoảng lên tới đỉnh điểm ở cuộc khủng khoảng ngân hàng, kinh tế tồi tệ năm 2001 và một sự giảm phát kinh tế mạnh mẽ (GNP giảm 9.5% năm 2001) và thất nghiệp gia tăng.

Chính phủ buộc phải thả nổi đồng lira và đưa ra những chương trình cải cách tham vọng hơn, gồm một chính sách thuế rất chặt chẽ, thúc đẩy cải cách cơ cấu, và vay mượn IMF ở mức cao chưa từng thấy.

Các khoản vay lớn của IMF — với mục đích giúp thực hiện các cải cách kinh tế đầy tham vọng — đã cho phép Thổ Nhĩ Kỳ ổn định tỷ lệ lãi suất và tiền tệ ở mức yêu cầu khi vay nợ. Năm 2002 và 2003, các cải cách bắt đầu mang lại kết quả. Chỉ trừ một giai đoạn không ổn định trước khi xảy ra cuộc chiến Iraq, lạm phát và tỷ lệ lãi suất đã giảm rất nhiều, đồng tiền ổn định, và lòng tin bắt đầu quay trở lại. Kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức tăng trưởng bình quân 7.5% hàng năm từ 2002 tới 2005 - một trong những tỷ lệ tăng trưởng cao nhất thế giới, có thể sánh với Trung QuốcẤn Độ. Lạm phát và tỷ lệ lãi suất giảm, đồng tiền ổn định, nợ chính phủ giảm ở mức có thể chấp nhận được, lòng tin của giới kinh doanh và người tiêu dùng đã quay trở lại. Cùng lúc đó, sự bùng nổ kinh tế và dòng chảy đầu tư lớn đã góp phần làm tăng thâm hụt tài khoản vãng lai. Dù sự dễ bị tổn thương của kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm bớt, nó vẫn phải đối mặt với các vấn đề nếu xảy ra một sự thay đổi bất thường trong quan điểm của nhà đầu tư dẫn tới sự sụt giảm lớn về tỷ giá hối đoái. Tiếp tục thực hiện cải cách, gồm cả việc thắt chặt chính sách thuế, là việc làm chủ chốt nhằm duy trì tăng trưởng và ổn định.

Ngày 1 tháng 1 năm 2005 đồng Lira của Thổ Nhĩ Kỳ bị thay thế bằng đồng Lira Mới Thổ Nhĩ Kỳ, với tỷ giá trao đổi 1 lira mới bằng 1.000.000 lira cũ. Điều này minh chứng cho sự ổn định có được của đồng tiền trong những năm gần đây và giúp thúc đẩy trao đổi, đầu tư và thương mại.

Thổ Nhĩ Kỳ tham gia một số hiệp ước đầu tư và thuế đa bên gồm với Hoa Kỳ, đảm bảo tự do di chuyển vốn bằng ngoại tệ mạnh và hạn chế đánh thuế hai lần. Sau nhiều năm có mức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở mức thấp, năm 2005 Thổ Nhĩ Kỳ đã thu hút được $9.6 tỷ FDI và hiện đang được dự báo thu hút được mức đầu tư tương đương trong năm 2006. Những chính sách tư nhân hoá lớn, sự ổn định cần thiết cho quá trình đàm phán gia nhập EU của Thổ Nhĩ Kỳ, tăng trưởng nhanh và ổn định, thay đổi cơ câu ngân hàng, bán lẻ, viễn thông, tất cả đang góp phần vào sự tăng trưởng đầu tư nước ngoài.

Thổ Nhĩ Kỳ đang tìm cách cải thiện môi trường đầu tư thông qua việc hợp lý hoá hành chính, chấm dứt cản trở đầu tư, tăng cường pháp luật về sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, một số tranh cãi liên quan tới đầu tư nước ngoài ở Thổ Nhĩ Kỳ và một số chính sách như thuế cao đánh vào các sản phẩm từ cola và những khe hở vẫn còn trong việc bảo hộ sở hữu trí tuệ, đang cản trở đầu tư. Uỷ ban tư nhân hoá Thổ Nhĩ Kỳ đang tiến hành tư nhân hoá một loạt công ty nhà nước, gồm cả công ty rượu và thuốc lá và công ty lọc dầu. Năm 2004, Uỷ ban tư nhân hoá đã tư nhân hoá công ty điện thoại và một số ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước. Chính phủ cũng cam đoan với Tổ chức thương mại thế giới về việc tự do hoá lĩnh vực viễn thông từ đầu năm 2004.

Xã hội

Nhân khẩu học

Các nhóm dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ[85]
Nhóm dân tộc Phần trăm
Người Thổ
  
80%
Người Kurd
  
15%
Khác
  
5%

Việc sử dụng thuật ngữ "Người Thổ Nhĩ Kỳ" (tiếng Anh "Turkish" - một công dân Thổ Nhĩ Kỳ) theo quy định của hiến pháp khác biệt so với định nghĩa dân tộc (một dân tộc Thổ - ethnic Turk trong tiếng Anh). Tuy nhiên, đa số dân Thổ Nhĩ Kỳ là thuộc dân tộc Thổ. Các nhóm thiểu số dân tộc gồm, bên cạnh các nhóm được xác định chính thức, Abkhazia, Albania, Ả Rập, Bosna, Chechen, Circassia, Grizia, Kabard, Kurd, LazZaza.

Chính thuật ngữ "thiểu số" cũng vẫn còn là một vấn đề nhạy cảm ở Thổ Nhĩ Kỳ, bởi vì Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ chỉ công nhận các công đồng được đề cập tới trong văn bản Hiệp ước Lausanne. Các cộng đồng thiểu số gồm Armenia,Hy Lạp, Hamshenis, Do Thái, Levant, Ossetians, PomaksRoma (Roma là tên gọi người Gypsy).

Cộng đồng dân tộc không phải Thổ lớn nhất là người Kurd, một nhóm dân tộc riêng biệt tập trung ở phía đông nam. Cuộc điều tra dân số năm 1965 cho thấy 7.1% dân số sử dụng tiếng Kurd làm ngôn ngữ chính và số người biết tiếng này chiếm 12.7% tổng dân số, nhưng có nhiều người Kurd nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ. Theo CIA fact book [86], 20% dân số được ước tính thuộc dân tộc Kurd. Tuy nhiên, không có những con số chính xác về số lượng người Kurd.

Tây Âu ngày càng có nhiều nhu cầu về lực lượng lao động trong khoảng từ 1960 đến 1980 nhiều công dân Thổ Nhĩ Kỳ đã di cư sang Tây Đức, Hà Lan, Pháp và các nước Tây Âu khác, tạo thành một lực lượng đáng kể người Thổ ở nước ngoài.

Giáo dục

Giáo dục là bắt buộc và không mất tiền từ 7 đến 15 tuổi. Có khoảng 820 viện giáo dục bậc cao gồm các trường đại học, với tổng số sinh viên khoảng hơn 1 triệu người. 15 trường đại học chính nằm ở IstanbulAnkara. Giáo dục cấp ba (đại học và cao đẳng) thuộc trách nhiệm của Ủy ban Giáo dục Cấp cao, và được chính phủ cấp ngân sách. Từ năm 1998 các trường đại học được trao quyền tự chủ rộng lớn hơn và được khuyến khích tìm kiếm thêm ngân quỹ từ bên ngoài thông qua hoạt động hợp tác với các ngành công nghiệp.

Có khoảng 85 trường Đại học ở Thổ Nhĩ Kỳ. Có hai kiểu trường chính, trường nhà nước và tư thục. Các trường đại học nhà nước lấy học phí rất thấp còn trường tư có mức học phí rất đắt đỏ, có thể lên tới $15 000 hay thậm chí còn cao hơn. Tổng năng lực các trường đại học Thổ Nhĩ Kỳ là 300.000. Một số trường có mức tiêu chuẩn cao sánh ngang với các trường tốt nhất trên thế giới, trong khi đó những trường khác chỉ đạt mức trung bình vì thiếu ngân sách hoạt động. Tuy nhiên, các sinh viên đại học là một thiểu số được ưu tiên ở Thổ Nhĩ Kỳ. Các trường cung cấp các khóa đào tạo từ 2 đến 4 năm cho các sinh viên mới nhập trường. Đối với các sinh viên đã ra trường, thông thường họ đi học thêm hai năm nữa, theo kiểu thường thấy trên thế giới.

Ủy ban Nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật Thổ Nhĩ Kỳ điều phối các hoạt động nghiên cứu và phát triển cơ bản cũng như ứng dụng. Có 64 viện và các tổ chức nghiên cứu. Những mặt mạnh của cơ quan này là nông nghiệp, lâm nghiệp, y tế, công nghiệ sinh học, kỹ thuật hạt nhân, khoáng chất, vật liệu, IT và quốc phòng.

Văn hoá

Thổ Nhĩ Kỳ có một nền văn hóa rất đa dạng bắt nguồn từ nhiều yếu tố của Đế chế Ottoman, Châu Âu, và các truyền thống Hồi giáo. Vì Thổ Nhĩ Kỳ đã chuyển đổi thành công từ một nhà nước tôn giáo thời Đế chế Ottoman để trở thành một quốc gia hiện đại với một sự tách biệt rất rõ ràng giữa nhà nước và tôn giáo, nên sự tự do thể hiện nghệ thuật được tôn trọng rõ rệt. Trong những năm đầu của nền cộng hoà, chính phủ đã đầu tư nhiều khoản tài nguyên vào nghệ thuật, như hội hoạ, điêu khắc và kiến trúc cũng như nhiều ngành khác. Điều này được thực hiện nhờ vào cả quá trình hiện đại hóa và việc sáng tạo một bản sắc văn hóa riêng. Hiện nay kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ đã phát triển tới mức đủ đảm bảo cho sự tự do sáng tạo nghệ thuật của nghệ sĩ.

Vì nhiều yếu tố lịch sử còn đóng vai trò quan trọng trong việc xác định bản sắc Thổ Nhĩ Kỳ, văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ là một sự tổng hợp đáng chú ý giữa các nỗ lực rõ rệt nhằm trở thành "hiện đại" và tây phương Hoá, cộng với sự cảm giác cần thiết phải giữ lại truyền thống tôn giáo và các giá trị lịch sử.

Văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ
Âm nhạc Điện ảnh Thi ca Văn xuôi Ẩm thực Văn học

Tôn giáo

Trên danh nghĩa, 99% dân số theo Hồi giáo. Đa số thuộc phái Hồi giáo Sunni. Khoảng 15-20% dân số là người Hồi giáo Alevi. Cũng có một thiểu số Twelver Shi'a nhưng có vai trò khá quan trọng, đa phần họ là con cháu người Azeri.

1% dân số còn lại, đa số là người Ki-tô giáo. Có khoảng 120.000 tín hữu Ki-tô giáo thuộc các hệ phái khác nhau, bao gồm ước tính 80.000 người Chính thống giáo Cổ Đông phương (Oriental Orthodox), 35.000 người Công giáo La mã, 5.000 người Chính thống giáo Đông phương (Eastern Orthodox) (trong số đó có khoảng ba tới bốn ngàn là người Hy lạp) và một số nhỏ hơn các tín hữu Kháng Cách. Thượng phụ Đại kết Constantinopolis ở Istanbul là vị lãnh đạo tinh thần của các giáo hội Chính thống trên toàn thế giới

Không giống các nước có cộng đồng Hồi giáo đa số khác, ở Thổ Nhĩ Kỳ từ lâu đã có truyền thống tách biệt giữa tôn giáo và quốc gia. Thậm chí nhà nước không có bất kỳ hành động/hay khuyến khích tôn giáo, nhà nước giám sát tích cực những lĩnh vực tôn giáo. Hiến pháp cấm phân biệt giữa các tôn giáo và thực hiện điều này rất chặt chẽ. Hiến pháp Thổ Nhĩ Kỳ công nhận tự do tôn giáo cho các cá nhân, và các cộng đồng tôn giáo nằm dưới sự bảo vệ của nhà nước, nhưng hiến pháp cũng quy định rõ rằng tôn giáo không được can thiệp vào quá trình chính trị, ví dụ thông qua cách thành lập một đảng phái tôn giáo. Không đảng phái nào được tuyên bố rằng mình được hình thành để đại diện cho một niềm tin tôn giáo. Tuy nhiên, những sự nhạy cảm tôn giáo nói chung thường được thể hiện thông qua các đảng bảo thủ.

Trường đạo chính của Hồi giáo Sunni Hanafite phần lớn được nhà nước tổ chức thông qua Diyanet İşleri Başkanlığı (Bộ các vấn đề tôn giáo). Diyanet là cơ cấu chính của Hồi giáo được thành lập sau khi UlamaSeyh-ul-Islam của chế độ cũ bị bãi bỏ. Vì thế, họ kiểm soát mọi thánh đường Hồi giáo và các tu sĩ. Các thầy tế được đào tạo trong Imam Hatip school và trên lý thuyết nó thuộc sở quản lý các trường đại học. Sở này ủng hộ Hồi giáo Sunni và được phép đưa ra các phán quyết (Fatwa) về các vấn đề Hồi giáo. Một số người Hồi giáo Alevi chỉ trích sở này vì không ủng hộ đức tin của họ.

Cộng đồng Do Thái có khoảng 26.000 người được lãnh đạo bởi Hahambasi, Lãnh tụ Do Thái ở Thổ Nhĩ Kỳ, tất cả đều đóng trụ sở tại Istanbul. Dân Do Thái ở Thổ Nhĩ Kỳ là một trong những cộng đồng Do Thái lớn nhất và mạnh nhất bên ngoài Israel.

Hình ảnh Thổ Nhĩ Kỳ

Xem thêm

Liên kết ngoài

Tham khảo

  1. ^ Dân số các Quốc Gia trên Thế Giới, CIA World Factbook ước tính
  2. ^ National Geographic Atlas of the World (ấn bản 7). Washington, D.C.: National Geographic. 1999. ISBN 0-7922-7528-4. "Europe" (pp. 68–69); "Asia" (pp. 90–91): "A commonly accepted division between Asia and Europe... is formed by the Ural Mountains, Ural River, Caspian Sea, Caucasus Mountains, and the Black Sea with its outlets, the Bosporus and Dardanelles."
  3. ^ “The Economist: "Turkey in the Balkans: The good old days?". Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2011.
  4. ^ Stiner, Mary C.; Kuhn, Steven L.; Güleç, Erksin. “Early Upper Paleolithic shell beads at Üçağızlı Cave I (Turkey): Technology and the socioeconomic context of ornament life-histories”. Journal of Human Evolution. 64 (5): 380–398. doi:10.1016/j.jhevol.2013.01.008. ISSN 0047-2484. PMID 23481346.
  5. ^ a b c Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên SteadmanMcMahon2011
  6. ^ a b David Noel Freedman; Allen C. Myers; Astrid Biles Beck (2000). Eerdmans Dictionary of the Bible. Wm. B. Eerdmans Publishing. tr. 61. ISBN 978-0-8028-2400-4. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2013.
  7. ^ Metz, Helen Chapin biên tập (1996). “Turkish Origins”. Turkey: A Country Study. Area handbook series . Washington D.C.: United States Government Publishing Office for the Federal Research Division of the Library of Congress. ISBN 0-8444-0864-6. LCCN 95049612. Đã bỏ qua tham số không rõ |chapterurl= (trợ giúp)
  8. ^ “Ottoman/Turkish Visions of the Nation, 1860–1950”. https://books.google.com.tr/books?id=qejRAQAAQBAJ&pg=PA180&lpg=PA180&dq=tanzimat+failed&source=bl&ots=7fsuiFvNe-&sig=3WEg2QvuUZto8fEsc71NBquzFPU&hl=tr&sa=X&ei=o_PkVOLEKcK5Ua6hgagH&ved=0CC4Q6AEwAjgK#v=onepage&q=tanzimat%20failed&f=false. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2015. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  9. ^ “Turkey, Mustafa Kemal and the Turkish War of Independence, 1919–23”. Encyclopædia Britannica. 2007. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2007.
  10. ^ a b c “Turkey”. The World Factbook. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2013.
  11. ^ “What really matters about Multiculturalism in Turkey by Rabee Al-Hafidh”. http://www.todayszaman.com. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2015. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  12. ^ “Türkiye'nin yüzde 85'i 'anadilim Türkçe' diyor”. Milliyet.com.tr. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2012.
  13. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên TR_EUChrono
  14. ^ “The Political Economy of Regional Power: Turkey” (PDF). http://www.giga-hamburg.de. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2015. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  15. ^ “Turkey: From regional to global player”. http://www.dw.de. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2015. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  16. ^ “International Organisations”. http://www.mfa.gov.tr. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2014. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  17. ^ “Theoretical Analysis of Turkey as a Regional Power” (PDF). http://web.isanet.org. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2015. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  18. ^ “Hattusha: the Hittite Capital”. whc.unesco.org. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2014.
  19. ^ “The Position of Anatolian”. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2013.
  20. ^ Balter, Michael (27 tháng 2 năm 2004). “Search for the Indo-Europeans: Were Kurgan horsemen or Anatolian farmers responsible for creating and spreading the world's most far-flung language family?”. Science. 303 (5662): 1323. doi:10.1126/science.303.5662.1323. PMID 14988549.
  21. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên MET
  22. ^ “The World's First Temple”. Archaeology magazine. Nov–Dec 2008. tr. 23.
  23. ^ “Çatalhöyük added to UNESCO World Heritage List”. Global Heritage Fund. 3 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2013.
  24. ^ “Troy”. Ancient History Encyclopedia. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014.
  25. ^ “Ziyaret Tepe – Turkey Archaeological Dig Site”. uakron.edu. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2010.
  26. ^ “Assyrian Identity in Ancient Times And Today' (PDF). Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2010.
  27. ^ Zimansky, Paul. Urartian Material Culture As State Assemblage: An Anomaly in the Archaeology of Empire. tr. 103.
  28. ^ The Metropolitan Museum of Art, New York (tháng 10 năm 2000). “Anatolia and the Caucasus, 2000–1000 B.C. in Timeline of Art History.. New York: The Metropolitan Museum of Art. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2006.
  29. ^ Roux, Georges. Ancient Iraq. tr. 314.
  30. ^ a b “About Turkey - Etymology And Climate”. http://www.ktu.edu.tr. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp) Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “ktu.edu.tr” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  31. ^ D. M. Lewis; John Boardman (1994). The Cambridge Ancient History. Cambridge University Press. tr. 444. ISBN 978-0-521-23348-4. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  32. ^ Hooker, Richard (6 tháng 6 năm 1999). “Ancient Greece: The Persian Wars”. Washington State University, Washington, United States. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2006.
  33. ^ The Metropolitan Museum of Art, New York (tháng 10 năm 2000). “Anatolia and the Caucasus (Asia Minor), 1000 B.C. – 1 A.D. in Timeline of Art History.. New York: The Metropolitan Museum of Art. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2006.
  34. ^ Theo van den Hout (27 tháng 10 năm 2011). The Elements of Hittite. Cambridge University Press. tr. 1. ISBN 978-1-139-50178-1. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2013.
  35. ^ Daniel C. Waugh (2004). “Constantinople/Istanbul”. University of Washington, Seattle, Washington. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2006.
  36. ^ “Anadolu Selçuklu Devleti”. turktarihim.com. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  37. ^ Wink, Andre (1990). Al Hind: The Making of the Indo Islamic World, Vol. 1, Early Medieval India and the Expansion of Islam, 7th–11th Centuries. Brill Academic Publishers. tr. 21. ISBN 90-04-09249-8.
  38. ^ “THE SELJUK TURKS”. http://peter.mackenzie.org. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  39. ^ Rafis Abazov (2009). Culture and Customs of Turkey. Greenwood Publishing Group. tr. 1071. ISBN 978-0-313-34215-8. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2013.
  40. ^ a b Kinross, Patrick (1977). The Ottoman Centuries: The Rise and Fall of the Turkish Empire. Morrow. tr. 28–30. ISBN 0-688-03093-9.
  41. ^ “TheOttomans.org - Discover The Ottomans”. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014.
  42. ^ Stanford J. Shaw (29 tháng 10 năm 1976). History of the Ottoman Empire and Modern Turkey. 1. Cambridge University Press. tr. 213. ISBN 978-0-521-29163-7. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2013.
  43. ^ Kirk, George E. (2008). A Short History of the Middle East. Brill Academic Publishers. tr. 58. ISBN 1-4437-2568-4.
  44. ^ Todorova, Maria (18 tháng 3 năm 2009). Imagining the Balkans. Oxford University Press. tr. 175. ISBN 978-0-19-972838-1. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2013.
  45. ^ Mann, Michael (2005). The Dark Side of Democracy: Explaining Ethnic Cleansing. Cambridge University Press. tr. 118. ISBN 978-0-521-53854-1. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2013.
  46. ^ “Collapse of the Ottoman Empire, 1918-1920”. http://www.nzhistory.net.nz. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  47. ^ “Death toll of the Armenian Massacres”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014.
  48. ^ “Fact Sheet: Armenian Genocide”. University of Michigan. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2010.
  49. ^ Freedman, Jeri (2009). The Armenian genocide (ấn bản 1). New York: Rosen Pub. Group. ISBN 1-4042-1825-4. |ấn bản= có văn bản dư (trợ giúp)
  50. ^ Totten, Samuel, Paul Robert Bartrop, Steven L. Jacobs (eds.) Dictionary of Genocide. Greenwood Publishing Group, 2008, p. 19. ISBN 0-313-34642-9.
  51. ^ Patrick J. Roelle, Sr. (27 tháng 9 năm 2010). Islam's Mandate- a Tribute to Jihad: The Mosque at Ground Zero. AuthorHouse. tr. 33. ISBN 978-1-4520-8018-5. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2013.
  52. ^ “Turkey marks May 19 holiday today”. http://www.todayszaman.com. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2015. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  53. ^ Mango, Andrew (2000). Atatürk: The Biography of the Founder of Modern Turkey. Overlook. tr. lxxviii. ISBN 1-58567-011-1.
  54. ^ Axiarlis, Evangelia (2014). Political Islam and the Secular State in Turkey: Democracy, Reform and the Justice and Development Party. I.B. Tauris. tr. 11.
  55. ^ Clogg, Richard (20 tháng 6 năm 2002). A Concise History of Greece. Cambridge University Press. tr. 101. ISBN 978-0-521-00479-4. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2013.
  56. ^ Gerhard Bowering; Patricia Crone; Wadad Kadi (28 tháng 11 năm 2012). The Princeton Encyclopedia of Islamic Political Thought. Princeton University Press. tr. 49. ISBN 978-1-4008-3855-4. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2013. Following the revolution, Mustafa Kemal became an important figure in the military ranks of the Ottoman Committee of Union and Progress (CUP) as a protégé ... Although the sultanate had already been abolished in November 1922, the republic was founded in October 1923. ... ambitious reform programme aimed at the creation of a modern, secular state and the construction of a new identity for its citizens. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  57. ^ “Growth in United Nations membership (1945–2005)”. United Nations. 3 tháng 7 năm 2006. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2006.
  58. ^ Huston, James A. (1988). Outposts and Allies: U.S. Army Logistics in the Cold War, 1945–1953. Susquehanna University Press. tr. 134. ISBN 0-941664-84-8.
  59. ^ “Members and partners”. OECD. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014.
  60. ^ Uslu, Nasuh (2003). The Cyprus question as an issue of Turkish foreign policy and Turkish-American relations, 1959–2003. Nova Publishers. tr. 119. ISBN 978-1-59033-847-6. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2011.
  61. ^ “Timeline: Cyprus”. BBC. 12 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2006.
  62. ^ Hale, William Mathew (1994). Turkish Politics and the Military. Routledge, UK. tr. 161, 215, 246. ISBN 0-415-02455-2.
  63. ^ Arsu, Sebsem (12 tháng 4 năm 2012). “Turkish Military Leaders Held for Role in '97 Coup”. The New York Times. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2014. Không cho phép mã đánh dấu trong: |publisher= (trợ giúp)
  64. ^ “Turkey's PKK peace plan delayed”. BBC. 10 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2010.
  65. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên 80sLiberalization
  66. ^ BBC News Online ngày 23 tháng 5 năm 2006.
  67. ^ Economist Intelligence Unit: Turkey 2005 p.23.
  68. ^ Ibid.
  69. ^ A poll published in September 2005 in the national Hürriyet paper found the army to Turkey's most trusted national institution. See Aydinli, Ersen, 2006. The Turkish Military's March Toward Europe. Foreign Affairs Jan/Feb2006, Vol. 85 Issue 1, p77-90.
  70. ^ Immerfall, Stefan (1 tháng 8 năm 2009). Handbook of European Societies: Social Transformations in the 21st Century. Springer. tr. 417. ISBN 978-0-387-88198-0. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2011.
  71. ^ Metz, Helen Chapin biên tập (1996). “Geography”. Turkey: A Country Study. Area handbook series . Washington D.C.: United States Government Publishing Office for the Federal Research Division of the Library of Congress. ISBN 0-8444-0864-6. LCCN 95049612. Đã bỏ qua tham số không rõ |chapterurl= (trợ giúp)
  72. ^ a b US Library of Congress. “Geography of Turkey”. US Library of Congress. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2006.
  73. ^ “UN Demographic Yearbook” (PDF). Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2010.
  74. ^ a b “Geography of Turkey”. Turkish Ministry of Tourism. 2005. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2006.
  75. ^ “Mount Ararat”. http://www.britannica.com. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2015. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  76. ^ “Lake Van”. http://www.britannica.com. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2015. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  77. ^ “Biodiversity in Turkey”. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014.
  78. ^ “Turkey's flora and fauna”. allaboutturkey.com. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2014.
  79. ^ Couzens, Dominic (2008). Top 100 Birding Sites of the World. University of California Press. tr. 73–75. ISBN 978-0-520-25932-4.
  80. ^ “Pontic Mountains and highlands”. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014.
  81. ^ “Statistics”. milliparklar.gov.tr. Ministry of Forest and Water - General Directorare of Nature Conservation and National Parks. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2014.
  82. ^ “Specific Animals of Turkey”. gateofturkey.com. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2014.
  83. ^ a b c d e f g h i j k l m n “Climate of Turkey” (PDF). General Directorate of Meteorology. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2014.
  84. ^ Globalis - an interactive world map - Turkey - Urban Population
  85. ^ [1]
  86. ^ “CIA — The World Factbook”. CIA. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2006.