James Rodríguez

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
James Rodríguez
James tập luyện cùng Bayern Munich năm 2018
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ James David Rodríguez Rubio
Ngày sinh 12 tháng 7, 1991 (32 tuổi)
Nơi sinh Cúcuta, Colombia
Chiều cao 1,8 m (5 ft 11 in)
Vị trí Tiền vệ tấn công, Tiền vệ cánh
Thông tin đội
Đội hiện nay
São Paulo
Số áo 19
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
1995–2007 Envigado
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2006–2008 Envigado 30 (9)
2008–2010 Banfield 42 (5)
2010–2013 Porto 63 (25)
2013–2014 Monaco 34 (9)
2014–2020 Real Madrid 85 (29)
2017–2019Bayern München (mượn) 43 (14)
2020–2021 Everton 23 (6)
2021–2022 Al-Rayyan 13 (4)
2022–2023 Olympiakos 20 (5)
2023– São Paulo 0 (0)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2007 U-17 Colombia 11 (3)
2011 U-20 Colombia 5 (3)
2011– Colombia 96 (27)
Thành tích huy chương
Đại diện cho  Colombia
Bóng đá nam
U-17 Nam Mỹ
Á quân Ecuador 2007 Đồng đội
Copa América
Vị trí thứ ba Hoa Kỳ 2016 Đồng đội
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến ngày 9 tháng 4 năm 2023
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 21 tháng 11 năm 2023

James David Rodríguez Rubio (phát âm tiếng Tây Ban Nha[ˈxames roˈðɾiɣeθ] hoặc [ˈxames daˈβið ro'ðɾiɣeð 'ruβjo], sinh ngày 12 tháng 7 năm 1991), là một cầu thủ bóng đá người Colombia thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công cho São Paulođội tuyển quốc gia Colombia.

Ở cấp độ câu lạc bộ, anh được chú ý nhiều kể từ khi gia nhập Porto năm 2012, ngay sau mùa giải đó anh được vinh danh là cầu thủ xuất sắc nhất Primeira Liga, trở thành cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử nhận được danh hiệu này. Năm 2013, anh chuyển đến Pháp thi đấu cho Monaco với phí chuyển nhượng 45 triệu euro.

Ngày 22 tháng 7 năm 2014, James chuyển tới Real Madrid với giá trị chuyển nhượng lên tới 80 triệu euro, đưa anh trở thành cầu thủ Colombia đắt giá nhất trong lịch sử, qua mặt Radamel Falcao (60 triệu Euro vào năm 2013).

đội tuyển Colombia, anh bắt đầu chơi bóng ở cấp độ U-20 quốc gia, nơi mà anh được đeo băng đội trưởng và vô địch giải Toulon Tournament năm 2011, và cũng trong năm đó anh cùng Colombia tham dự giải U-20 World Cup. Giải đấu lớn đầu tiên của anh cho đội tuyển Colombia là World Cup 2014 tại Brasil, giải đấu mà anh đã cùng Colombia vào đến tứ kết và cá nhân anh giành được danh hiệu Chiếc giày vàng World Cup, được chọn vào đội hình tiêu biểu của giải đấu và sở hữu bàn thắng đẹp nhất giải.

Tuổi thơ[sửa | sửa mã nguồn]

Rodríguez sinh ra tại Cúcuta, thành phố gần biên giới Colombia và Venezuela. Cha anh là ông Wilson James Rodríguez Bedolla cũng là một cầu thủ chuyên nghiệp. Tuy nhiên do cha anh thường xuyên thi đấu xa nhà nên cha đỡ đầu của anh là ông Juan Carlos Restrepo mới là người hướng dẫn anh những bước đầu đến sự nghiệp bóng đá.[1] Rodríguez bắt đầu chơi bóng tại trường bóng đá Academia Tolimense và giành chức vô địch Giải Pony Futbol, giải đấu toàn quốc dành cho các trường bóng đá thiếu nhi vào năm 2004.[1]

Sự nghiệp câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Envigado FC[sửa | sửa mã nguồn]

Ngay sau Giải Pony Futbol, chủ tịch Gustavo Adolfo Upegui Lopez của câu lạc bộ Envigado đã nhanh chóng tìm cách đưa anh đến Envigado.[2] Tuy nhiên, tại Envigado, gia đình Rodríguez phải thuê huấn luyện viên riêng cho anh do trình độ của anh bỏ xa các đồng đội ở học viện đào tạo trẻ câu lạc bộ.[2]

Vào năm 15 tuổi, anh có trận đấu chuyên nghiệp đầu tiên cho Envigado.[3] Năm 2007, khi mới 16 tuổi, Rodriguez ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Envigado nhưng anh chỉ thi đấu đúng một trận cho đội một trước khi chuyển đến Argentina thi đấu.[1][2]

Banfield[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2008, Rodríguez trở thành cầu thủ của Club Atlético Banfield. Ở tuổi 17 vào năm 2009, khi được vào sân thay người trong trận trận đấu giữa BanfieldGodoy Cruz tại Clausura, năm 2009, anh đã trở thành cầu thủ người nước ngoài trẻ nhất tham dự giải đấu hàng đầu của bóng đá Argentina.[4][5] Bàn thắng đầu tiên của anh cho Banfield là trong trận gặp Rosario Central với cú sút xa mạnh từ ngoài vòng cấm vào ngày 27 tháng 2 năm 2009.[6] Bàn thắng này cũng giúp anh trở thành cầu thủ nước ngoài trẻ nhất ghi bàn tại giải vô địch bóng đá Argentina.[5]

Đến mùa giải 2009-10, Rodríguez có được vị trí đá chính bên cánh trái khi Nicolás Bertolo chuyển đến Palermo. Với bộ ba Walter Erviti - Maximiliano Bustos - James Rodríguez, trong đó Rodríguez chỉ vắng mặt duy nhất 2 trận đấu, 'El Taladro' có được danh hiệu vô địch Apertura lần đầu tiên trong lịch sử.[5]

Tại đấu trường Copa Libertadores, Rodríguez đã ghi bàn vào lưới Deportivo Cuenca trong chiến thắng 4–1 của Banfield và sau đó là cú đúp trong trận hòa 2-2 với Club Nacional de Football.[7] Tại vòng loại trực tiếp, anh ghi bàn vào lưới Internacional giúp Banfield thắng 3–1 vào ngày 29 tháng 4 năm 2010. Banfield bị loại khỏi Copa Libertadores 2010 sau trận thua trước Porto Alegre, trận đấu mà Rodríguez đã phải nhận thẻ đỏ.[8]

Porto[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa hè năm 2010, Udinese đã đạt được thỏa thuận ban đầu với Rodríguez, nhưng sau cùng chính câu lạc bộ Bồ Đào Nha Porto mới là câu lạc bộ có được anh với hợp đồng 4 năm có giá chuyển nhượng 5,1 triệu .[9]

Mùa bóng 2010–11[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 18 tháng 7 năm 2010, anh có trận đấu đầu tiên cho Porto trong trận giao hữu với Ajax và ngay lập tức đã ghi bàn.[10] Ngày 15 tháng 12 năm 2010, Rodríguez có bàn thắng đầu tiên trên đấu trường châu lục trong chiến thắng 3-1 của Porto trước CSKA Sofia.[11] Anh vào sân từ băng ghế dự bị trong trận chung kết UEFA Europa League 2011 với SC Braga, trận đấu mà Porto đã thắng 1-0. Rodríguez lập hat-trick và có một pha kiến tạo trong trận chung kết Cúp bóng đá Bồ Đào Nha với Vitória de Guimarães để đem về chiến thắng 6–2 cho Porto.[12] Ngày 13 tháng 6 năm 2011, anh gia hạn hợp đồng với Porto thêm năm năm. Trong mùa giải đầu tiên tại Bồ Đào Nha, sau 24 trận, anh có được tổng cộng sáu bàn thắng và tám pha kiến tạo.[13]

Mùa bóng 2011–12[sửa | sửa mã nguồn]

Trong mùa bóng 2011-12, Rodríguez ghi đến 14 bàn thắng và có 11 pha kiến tạo.[14] Kết thúc mùa giải, anh được trao danh hiệu Quả bóng Vàng Bồ Đào Nha 2012 dành cho cầu thủ xuất sắc nhất năm của Giải vô địch bóng đá Bồ Đào Nha. Anh là cầu thủ Colombia thứ hai giành được danh hiệu này sau Radamel Falcao và là cầu thủ trẻ nhất giành được danh hiệu này khi chỉ mới 20 tuổi.[15][16]

Mùa bóng 2012–13[sửa | sửa mã nguồn]

Đến mùa giải 2012-13, anh được câu lạc bộ Porto trao cho chiếc áo số 10. Việc các trụ cột của Porto như Radamel Falcao, Fredy GuarínHulk ra đi đã giúp cho vai trò của Rodríguez ngày càng trở nên quan trọng. Rodríguez ghi một bàn và có hai pha kiến tạo trong chiến thắng 4-0 trước Beira-Mar vào ngày 22 tháng 9 năm 2012.[17] Anh được hai lần liên tiếp bầu là Cầu thủ xuất sắc nhất trong tháng của Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha trong tháng 8 và tháng 9.[18] Tại vòng bảng UEFA Champions League 2012–13, anh ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu giữa Porto và đội bóng Pháp Paris Saint-Germain, đưa Porto lên vị trí đầu bảng.[19]

Ngày 26 tháng 11 năm 2012, Rodríguez ghi bàn ở phút 90 ấn định chiến thắng 2-0 cho Porto trước Braga để câu lạc bộ này có kỷ lục 23 trận bất bại trên mọi mặt trận.[20]

Trong trận đấu cuối cùng của mùa giải với Paços de Ferreira, Rodríguez đem về một quả phạt đền để bảo đảm chiến thắng cho Porto, giúp đội bóng này lần thứ ba liên tiếp giành chức vô địch Giải vô địch bóng đá Bồ Đào Nha.[21] Tổng cộng trong 105 trận cho Porto, Rodríguez đã ghi 32 bàn thắng và có 21 pha kiến tạo.[22]

Monaco[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 24 tháng 5 năm 2013, Rodríguez gia nhập đội bóng nước Pháp AS Monaco với phí chuyển nhượng 45 triệu theo bản hợp đồng có thời hạn 5 năm.[23] Đây là giá trị chuyển nhượng cao thứ hai trong lịch sử dành cho một cầu thủ bóng đá Colombia, sau Radamel Falcao.[24]

Mùa bóng 2013–14[sửa | sửa mã nguồn]

Rodríguez có trận đấu đầu tiên tại Ligue 1 trong chiến thắng 2-0 trước Bordeaux.[25] Rodríguez có đóng góp trực tiếp đầu tiên cho Monaco khi kiến tạo một bàn và đóng góp dấu ấn cho cả hai bài thắng còn lại trong chiến thắng 3-0 trước Bastia.[26] Đến ngày 30 tháng 11 năm 2013, anh mới có bàn thắng đầu tiên cho Monaco với pha đá phạt thành bàn trong chiến thắng 2-0 trước Rennes.[27]

Rodríguez mở đầu năm 2014 với trận đấu đầu tiên tại Coupe de France với Vannes, và anh đã ghi bàn và kiến tạo trong chiến thắng 3-2 của Monaco.[28] Anh lập cú đúp đầu tiên cho Monaco giúp đội bóng này thắng Bastia 2-0.[29]

Rodríguez kết thúc mùa giải đầu tiên với Monaco không có được danh hiệu nào nhưng Monaco cũng kết thúc Ligue 1 2013-14 với vị trí nhì bảng và cá nhân anh được chọn vào đội hình tiêu biểu của Ligue 1 mùa giải 2013-14.[30]

Real Madrid[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 22 tháng 7 năm 2014, Rodríguez ký hợp đồng có thời hạn 6 năm với Real Madrid với phí chuyển nhượng không được tiết lộ, nhưng ước tính vào khoảng 80 triệu .[31][32] Giá chuyển nhượng này giúp anh trở thành cầu thủ đắt giá thứ tư trong lịch sử bóng đá thế giới và là cầu thủ Colombia đắt giá nhất, vượt qua kỷ lục cũ của Radamel Falcao.[33][34] Tại Real, anh khoác áo số 10, số áo từng thuộc về các cầu thủ nổi tiếng của câu lạc bộ này như Luis Figo, Ferenc Puskás và chơi cùng vị trí thần tượng của Rodríguez là Zinedine Zidane.[35] Buổi lễ ra mắt của anh tại Real Madrid đã thu hút sự tham dự của 45.000 cổ động viên.[36]

Mùa bóng 2014–15[sửa | sửa mã nguồn]

Rodríguez có trận đấu đầu tiên cho Real trong trận Siêu cúp châu Âu tại Sân vận động Cardiff City với Sevilla. Real Madrid giành thắng lợi 2–0 và anh có được danh hiệu vô địch đầu tiên cùng câu lạc bộ.[37] Ngày 19 tháng 8, anh chính thức có bàn thắng đầu tiên cho Real Madrid trong trận lượt đi tranh Siêu cúp bóng đá Tây Ban Nha với Atletico Madrid kết thúc với tỉ số hòa 1-1 khi được vào sân trong hiệp hai thay cho Cristiano Ronaldo.[38] Ngày 16 tháng 9, anh có trận đấu đầu tiên tại UEFA Champions League trong màu áo Real Madrid và đã ghi bàn thắng thứ tư trong chiến thắng 5-1 trước Basel.[39] James có pha lập công đầu tiên tại La Liga không lâu sau đó trong chiến thắng 8-2 trước Deportivo.[40]

Ngày 1 tháng 11, Rodríguez lập cú đúp trong chiến thắng 4–0 trước Granada trong đó có một quả vô lê thành bàn từ góc sút khó.[41] Ngày 2 tháng 12, anh lập một cú đúp khác, lần này là trong trận thắng Cornellà 5-0 trong khuôn khổ Cúp Nhà vua Tây Ban Nha.[42] Đến ngày 6 tháng 2 năm 2015, sau khi ghi bàn mở tỉ số trong trận đấu bù với Sevilla FC tại La Liga, James bị gãy xương bàn chân và dự tính phải nghỉ thi đấu đến hết tháng 3, lần nghỉ thương dài hạn đầu tiên của anh tại Real.[43]

Mùa bóng 2015–16[sửa | sửa mã nguồn]

Trong mùa giải này, dưới thời huấn luyện viên Rafael Benitez và sau đó là Zinedine Zidane, Rodríguez thường xuyên phải ngồi dự bị và cả mùa giải anh chỉ có 21 trận cho Real trên mọi đấu trường.[44].Tuy vậy cuối mùa đó anh vẫn giành UEFA Champions League với đội bóng.

Mùa bóng 2016–17[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 5 tháng 4 năm 2017, trong chiến thắng 4-2 trước CD Leganés, Rodríguez có 1 bàn thắng và 1 kiến tạo nhưng bị thay ra ở phút 72 nên đã có phản ứng mạnh khi rời sân. Trận gặp Leganes là lần thứ chín liên tiếp, anh không được thi đấu trọn vẹn 90 phút và lần gần nhất anh thi đấu từ đầu đến cuối một trận đấu là cuộc đón tiếp Deportivo de La Coruña ngày 10 tháng 12 năm 2016.[45]. Cuối mùa dù có 11 bàn với 13 kiến tạo giúp Real giành La Liga sau 5 năm & chức vô địch Champions League thứ 2 liên tiếp, nhưng những tin tức về việc anh muốn ra đi vẫn xuất hiện nhiều hơn.

Bayern München[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 11 tháng 7 năm 2017, Rodríguez đến Bayern München theo hợp đồng cho mượn có thời hạn hai năm từ Real Madrid.[46] Bayern phải trả toàn bộ tiền lương và phí mượn trong hai năm có được sự phục vụ của anh, vào khoảng 30 triệu và có quyền mua đứt sau khi hết thời gian mượn.[47]. Anh ghi bàn đầu tiên trong chiến thắng 3-0 vào lưới Schalke, sau thời gian khó khăn do chấn thương, anh là lựa chọn chính trong đội hình sau khi Jupp Heynckes lên nắm quyền thay Carlo Ancelotti vào tháng 10/2017. Sự tiến bộ của James giúp Bayern bay cao tại Bundesliga, anh đã có 6 bàn & 10 kiến tạo trong 19 lần ra sân, giúp đội giành Chiếc đĩa bạc mùa này

Everton[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 7 tháng 9 năm 2020, câu lạc bộ Everton thông báo rằng họ đã chiêu mộ thành công James từ Real Madrid với một bản hợp đồng có thời hạn 2 năm, với điều khoản tùy chọn gia hạn thêm 1 năm.[48][49] Tại xứ sở sương mù, James sẽ tái ngộ HLV Carlo Ancelotti, người giúp anh nhận danh hiệu tiền vệ hay nhất La Liga mùa giải 2014–15, với 13 bàn và 13 pha kiến tại sau 29 trận cho Real Madrid. Anh cũng có thời gian thi đấu cho Bayern München dưới thời chiến lược gia người Ý theo dạng cho mượn.[50]

Al-Rayyan[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 22 tháng 9 năm 2021, James gia nhập Al-Rayyan với mức giá chưa xác định.[51] Vào ngày 17 tháng 10 năm 2021, Rodriguez đã chơi trận đầu tiên cho Al-Rayyan, trong trận thua 3-0 của đội với Al-Duhail.[52] Anh đã ghi bàn thắng đầu tiên của mình ở đây trước Al-Sailiya.[53] Vào ngày 15 tháng 9 năm 2022, Al-Rayyan chấm dứt hợp đồng với James Rodriguez theo sự đồng ý của hai bên.[54].

Olympiacos[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 15 tháng 9 năm 2022, James Rodríguez gia nhập nhà vô địch Giải bóng đá vô địch quốc gia Hy Lạp Olympiacos theo dạng chuyển nhượng tự do.[55] Khi đến nơi, Rodríguez được trao chiếc áo số 10, trước đó được mặc bởi Rony Lopes, người đã rời đi để chơi cho đội bóng cho mượn Ligue 1 Troyes.[56] Anh ra mắt giải đấu vào ngày 18 tháng 9 với tư cách là người bắt đầu trận đấu trước Aris Thessaloniki, một trận đấu mà đội của anh ấy thua 2-1 mặc dù đã dẫn trước một bàn trong phần lớn thời gian của trận đấu..[57]

Vào ngày 13 tháng 4 năm 2023, hợp đồng của James với Olympiacos bị chấm dứt theo sự đồng ý của cả hai bên..[58].

São Paulo[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 29 tháng 7 năm 2023, James gia nhập câu lạc bộ Campeonato Brasileiro Série A São Paulo, ký hợp đồng hai năm.[59]

Sự nghiệp đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

Các đội trẻ[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2007, Rodríguez là thành viên đội tuyển U-17 Colombia giành chức á quân Giải vô địch bóng đá U-17 Nam Mỹ và ghi được ba bàn. Cùng năm đó, anh và U-17 Colombia cũng tham dự Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới 2007 nhưng U-17 Colombia đã bị loại ngay ở vòng 1/8 bởi U-17 Nigeria.

Rodríguez là đội trưởng đội tuyển U-20 Colombia giành chức vô địch Giải đấu Toulon 2011, giải đấu mà anh cũng được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất giải.[60]

Tại Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2011 tổ chức ngay tại Colombia, anh tiếp tục là đội trưởng của U-20 Colombia và đội bóng của anh bị loại ở tứ kết bởi U-20 Mexico.

Đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

Rodríguez trong màu áo đội tuyển Colombia năm 2013

Ngày 29 tháng 9 năm 2011, Rodríguez lần đầu tiên được triệu tập vào đội tuyển Colombia cho trận đấu với Bolivia ngày 11 tháng 10 năm 2011.[61] Anh có trận đấu đầu tiên cho tuyển Colombia vào ngày 11 tháng 10 năm 2011 và đã có pha kiến tạo cho Falcao ấn định chiến thắng 2-1 trước Bolivia.

Ngày 3 tháng 6 năm 2012, anh có bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển Colombia trong chiến thắng 1-0 trước Peru tại vòng loại World Cup 2014.[62] Hơn ba tháng sau đó, anh có pha đá phạt trực tiếp thành bàn giúp Colombia đánh bại Chile 3-1 trên sân khách.[63] Ngày 7 tháng 9 năm 2013, anh ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu với Ecuador để đảm bảo chắc chắn tấm vé tham dự World Cup 2014 của đội tuyển Colombia.[64]

World Cup 2014[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 2 tháng 6 năm 2014, Rodríguez có tên trong danh sách 23 cầu thủ Colombia tham dự World Cup 2014 tại Brasil của huấn luyện viên José Pékerman.[65] Trong trận đấu đầu tiên của Colombia tại vòng bảng, Rodríguez đã có hai pha kiến tạo và ghi bàn ấn định chiến thắng 3-0 trước Hy Lạp và được FIFA bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu.[66] Đến trận đấu thứ hai với Bờ Biển Ngà, Rodríguez tiếp tục phong độ cao với một quả đánh đầu thành bàn và đường chuyền cho Juan Fernando Quintero lập công để đem về chiến thắng 2-1 cho Colombia; cá nhân anh một lần nữa lại nhận danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu.[67]

Rodríguez vào sân từ băng ghế dự bị trong cuộc đối đầu với Nhật Bản tại lượt cuối vòng bảng và có được một bàn thắng cùng với hai pha kiến tạo cho tiền đạo Jackson Martínez và chung cuộc Colombia giành chiến thắng đậm 4–1.[68] Sau khi kết thúc vòng bảng, Rodríguez được FIFA xếp hạng là cầu thủ có thành tích xuất sắc nhất vòng bảng.[69]

Ngày 28 tháng 6, Rodríguez ghi cả hai bàn thắng trong chiến thắng 2-0 trước Uruguay tại Sân vận động Maracanã để đưa Colombia lần đầu tiên trong lịch sử vào tứ kết World Cup và Rodríguez được FIFA chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất trận lần thứ ba chỉ sau bốn trận đấu tại giải đấu.[70]. Bàn thắng này giúp anh sánh ngang với kỷ lục của RonaldoRivaldo khi ghi bàn trong cả bốn trận đầu tiên của mình tại World Cup.[71] Bàn thắng đầu tiên của anh, một cú vô lê đẹp mắt từ ngoài vòng cấm đã được huấn luyện viên Uruguay Óscar Tabárez khen là "một trong những bàn thắng đẹp nhất tôi từng thấy tại World Cup" và ông cũng đánh giá Rodríguez là "cầu thủ xuất sắc nhất World Cup năm nay".[72] Bàn thắng này sau đó cũng giúp anh giành giải Bàn thắng đẹp nhất World Cup 2014.[73]

Trong trận tứ kết World Cup 2014 với đội chủ nhà Brasil, Rodríguez đã có bàn thắng thứ sáu của mình tại giải đấu từ chấm phạt đền và tiếp tục giữ vị trí dẫn đầu trong danh sách các cầu thủ ghi bàn tại World Cup 2014. Tuy nhiên điều này đã không giúp Colombia tránh khỏi thất bại 2–1 trước Brasil.[74] Sau trận đấu, anh đã chỉ trích trọng tài chính điều khiển trận đấu nhưng vẫn khen ngợi Brasil là "một đội bóng tốt".[75]

Ngày 11 tháng 7, Rodríguez có tên trong danh sách rút gọn 10 cầu thủ cho danh hiệu Quả bóng Vàng, dành cho cầu thủ xuất sắc nhất World Cup 2014.[76] Sau khi giải đấu kết thúc, dù Colombia bị loại tại tứ kết, anh vẫn giành được danh hiệu Chiếc giày Vàng với thành tích sáu bàn thắng ngay trong lần đầu tiên tham dự World Cup.[77]

Copa América 2015 và Copa América Centenario[sửa | sửa mã nguồn]

Rodríguez được triệu tập vào đội tuyển Colombia tham dự Copa América 2015 tại Chile.[78] Colombia bị loại ở tứ kết sau khi thua Argentina 5-4 trên chấm luân lưu sau khi hòa 0-0 trong 120 phút.[79]

Mùa hè năm 2016, anh mang băng đội trưởng đội tuyển Colombia tham dự Copa América Centenario.[80] Ngày 3 tháng 6, trong trận mở màn với chủ nhà Mỹ, anh là người ấn định chiến thắng 2-0 cho Colombia từ chấm phạt đền nhưng sau đó phải rời sân sớm vì chấn thương.[81] Tuy nhiên anh đã kịp quay trở lại trong trận đấu thứ hai với Paraguay và ghi bàn giúp Colombia vào tứ kết với chiến thắng 2-1.[82] Chung cuộc Colombia giành vị trí thứ ba tại giải đấu này.

Phong cách thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]

"Colombia không cần một "El Pibe" ("Cậu bé") mới nữa vì James chính là "cậu bé" ấy, người mà đội tuyển Colombia đã thiếu vắng từ lâu. Cậu ấy có tài năng đáng kinh ngạc và nhiệt huyết thi đấu hơn bất kỳ cầu thủ nào mà tôi từng thấy khi còn thi đấu và trong quá trình làm huấn luyện viên bóng đá chuyên nghiệp. James có tố chất để trở thành cầu thủ Colombia vĩ đại nhất và có thể là một trong các cầu thủ vĩ đại nhất từng thi đấu."

'El Pibe' Valderrama khen ngợi James Rodríguez như truyền nhân của mình.[83]

Được đánh giá là một trong những tài năng trẻ hay nhất thế giới, Rodríguez có thể chơi ở nhiều vị trí khác nhau: tiền vệ công, tiền vệ cánh thậm chí là tiền đạo. Anh thường đảm nhận vai trò dẫn dắt lối chơi ở cả câu lạc bộ lẫn đội tuyển quốc gia. Khả năng đi bóng khéo léo, chuyền bóng chính xác nhất là những quả chọc khe giúp anh trở thành nguồn sáng tạo của đội tuyển Colombia.[84] Trước việc được so sánh với Valderrama, anh đã nói: "Đó là một vinh dự khi được xem là truyền nhân của 'El Pibe' ở độ tuổi của tôi".[85]

Cuộc sống cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Rodríguez từng kết hôn với Daniela Ospina, em gái David Ospina và có một con gái, tuy nhiên sau 2 năm chung sống, hai người đã chính thức ly hôn.[86] Rodríguez là một Kitô hữu.[87]

Thống kê sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến ngày 3 tháng 10 năm 2020
Câu lạc bộ Mùa giải Vô địch quốc gia Cúp quốc gia Cúp liên đoàn Cúp châu lục Khác Tổng cộng Tham
khảo
Số trận Số bàn Số trận Số bàn Số trận Số bàn Số trận Số bàn Số trận Số bàn Số trận Số bàn
Envigado 2007 8 0 8 0
2008 22 9 22 9
Tổng cộng 30 9 30 9
Banfield 2008–09 11 1 11 1 [88]
2009–10 30 4 8[a] 5 38 9 [88]
Tổng cộng 41 5 8 5 49 10
Porto 2010–11 15 2 5 3 2 0 9[b] 1 31 6 [89]
2011–12 26 13 1 0 3 0 8[c] 1 38 14 [89]
2012–13 24 10 2 0 3 1 8[d] 1 1[e] 0 38 12 [89]
Tổng cộng 65 25 8 3 8 1 25 3 1 0 107 32
Monaco 2013–14 34 9 3 1 1 0 38 10 [89]
Real Madrid 2014–15 29 13 4 2 9[d] 1 4[f] 1 46 17 [89]
2015–16 26 7 1 0 5[d] 1 32 8 [89]
2016–17 22 8 3 3 6[d] 0 2[g] 0 33 11 [89]
2019–20 8 1 3 0 2 0 1[h] 0 14 1 [89]
Tổng cộng 85 29 10 5 22 2 7 1 125 37
Bayern Munich (mượn) 2017–18 23 7 4 0 12[d] 1 0 0 39 8 [90]
2018–19 20 7 3 0 5[d] 0 0 0 28 7 [89]
Tổng cộng 43 14 7 0 17 1 0 0 67 15
Everton 2020–21 23 6 2 0 1 0 26 6 [89]
Al-Rayyan 2021–22 12 4 3 1 0 0 0 0 15 5 [89]
2022–23 1 0 1 0
Tổng cộng sự nghiệp 303 94 29 9 11 1 72 11 8 1 421 116

Bàn thắng cho đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

Bàn thắng và kết quả của đội tuyển Colombia được ghi đầu tiên.[91]
# Ngày Địa điểm Đối thủ Bàn thắng Kết quả Giải đấu
1. 3-6-2012 Sân vận động Quốc gia, Lima, Peru  Peru
1–0
1–0
Vòng loại FIFA World Cup 2014
2. 11-9-2012 Sân vận động tượng đài David Arellano, Santiago de Chile, Chile  Chile
1–1
3–1
3. 6-9-2013 Sân vận động đô thị Roberto Meléndez, Barranquilla, Colombia  Ecuador
1–0
1–0
4. 5-3-2014 Sân vận động Cornellà-El Prat, Barcelona, Tây Ban Nha  Tunisia
1–0
1–1
Giao hữu
5. 6-6-2014 Sân vận động Nuevo Gasómetro, Buenos Aires, Argentina  Jordan
1–0
3–0
6. 14-6-2014 Sân vận động Mineirão, Belo Horizonte, Brasil  Hy Lạp
3–0
3–0
FIFA World Cup 2014
7. 19-6-2014 Sân vận động Mané Garrincha, Brasília, Brasil  Bờ Biển Ngà
1–0
2–1
8. 24-6-2014 Arena Pantanal, Cuiabá, Brasil  Nhật Bản
4–1
4–1
9. 28-6-2014 Sân vận động Maracanã, Rio de Janeiro, Brasil  Uruguay
1–0
2–0
10.
2–0
11. 4-7-2014 Sân vận động Castelão, Fortaleza, Brasil  Brasil
1–2
1–2
12. 14-10-2014 Red Bull Arena, Harrison, Hoa Kỳ  Canada
1–0
1–0
Giao hữu
13. 12-11-2015 Sân vận động Quốc gia Julio Martínez Prádanos, Santiago, Chile  Chile
1–1
1–1
Vòng loại FIFA World Cup 2018
14. 24-3-2016 Sân vận động Hernando Siles, La Paz, Bolivia  Bolivia
1–0
1–0
15. 3-6-2016 Sân vận động Levi's, Santa Clara, Hoa Kỳ  Bolivia
2–0
2–0
Copa América Centenario
16. 7-6-2016 Rose Bowl, Pasadena, Hoa Kỳ  Paraguay
2–0
2–1
17. 1-9-2016 Sân vận động Đô thị Roberto Meléndez, Barranquilla, Colombia  Paraguay
1–0
2–0
Vòng loại FIFA World Cup 2018
18. 23-3-2017 Sân vận động Đô thị Roberto Meléndez, Barranquilla, Colombia  Bolivia
1–0
1–0
19. 28-3-2017 Sân vận động Olympic Atahualpa, Quito, Ecuador  Ecuador
1–0
2–0
20. 13-6-2017 Coliseum Alfonso Pérez, Getafe, Tây Ban Nha  Cameroon
1–0
4–0
Giao hữu
21. 10-10-2017 Sân vận động Quốc gia Lima, Lima, Peru  Cameroon
1–0
1–1
Vòng loại FIFA World Cup 2018
22. 11-10-2018 Sân vận động Raymond James, Tampa, Hoa Kỳ  Hoa Kỳ
1–0
4–2
Giao hữu
23. 17-11-2020 Sân vận động Rodrigo Paz Delgado, Quito, Ecuador  Ecuador
1–4
1–6
Vòng loại FIFA World Cup 2022
24. 29-3-2022 Polideportivo Cachamay, Ciudad Guayana, Venezuela  Venezuela
1–0
1–0
25. 24-9-2022 Red Bull Arena, Harrison, Hoa Kỳ  Guatemala
1–0
4–1
Giao hữu
26. 24-3-2023 Sân vận động bóng đá Ulsan Munsu, Ulsan, Hàn Quốc  Hàn Quốc
1–2
2–2
27. 12-10-2023 Sân vận động Đô thị Roberto Meléndez, Barranquilla, Colombia  Uruguay
1–0
2–2
Vòng loại FIFA World Cup 2026

Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Envigado

Banfield

Porto

Real Madrid[94]

Bayern Munich[94]

São Paulo[94]

Quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

U-20 Colombia

Colombia

Cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c “Who is James Rodriguez? All you need to know about Colombia's World Cup superstar”. Mirror Online. ngày 29 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2014.
  2. ^ a b c “James Rodriguez: Thần đồng làm lu mờ Messi, Neymar”. VTC News. ngày 29 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2014.
  3. ^ “James Rodriguez, the young guide to Colombia”. CONMEBOL. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2014.
  4. ^ “Man United từng từ chối chiêu mộ James Rodriguez chỉ vì... Bebe”. Thể thao và Văn Hóa Online. ngày 30 tháng 6 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2014.
  5. ^ a b c “Goal.com Scouting Report: James Rodriguez - Banfield”. Goal.com. ngày 13 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2014.
  6. ^ “Rodriguez đổi đời nhờ bàn thắng từ chấm phạt góc”. Báo điện tử Một Thế giới. ngày 29 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2014.[liên kết hỏng]
  7. ^ “Un Taladro rendidor”. Ole.clarin.com. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2014.
  8. ^ “ph Internacional x-x Banfield: xxx”. Goal.com. ngày 7 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2014.
  9. ^ “The South American Cristiano Ronaldo on Manchester United's shopping list: talkSPORT Transfer Spotlight”. Talk Sport. ngày 19 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  10. ^ “Football | Match | Team Lineups | Friendly Match | FC Porto v Ajax | 18th July 2010”. TEAMtalk. ngày 18 tháng 7 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  11. ^ “FC Porto 3-1 CSKA Sofia”. Football.co.uk. ngày 15 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  12. ^ “Porto 6-2 Vitoria Guimaraes: James Rodriguez hat-trick helps Dragons to quadruple”. Goal.com. ngày 22 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  13. ^ “The Rise of James Rodriguez”. Pundit Arena. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  14. ^ “Messi Who? Colombia's 'King James' Is The World Cup's New Superstar”. Fox News Latino. ngày 30 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  15. ^ “Manchester United: 5 Transfers Who Could Bring Some Creativity to Their Midfield”. Bleacher Report. ngày 8 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  16. ^ “World Cup 2014: James Rodriguez closing gap on Shakira”. BBC Sport. ngày 3 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  17. ^ “FC Porto thrashes Beira Mar 4-0 in Portugal”. News OK. ngày 22 tháng 9 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2014.
  18. ^ “Rodriguez scoops Portuguese award Colombia News | Colombia Reports - Colombia News”. Colombia Reports. ngày 8 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2014.
  19. ^ “Porto 1-0 Paris Saint-Germain: James Rodriguez breaks through to earn deserved triumph”. Goal.com. ngày 3 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2014.
  20. ^ “Porto 1-0 Paris Saint-Germain: James Rodriguez breaks through to earn deserved triumph”. Sports.ndtv.com. ngày 26 tháng 11 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2014.
  21. ^ “Unbeaten Porto wrap up 27th league title”. UEFA.com. ngày 19 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  22. ^ “James Rodriguez vs Neymar: Who has been the bigger star at World Cup 2014 so far?”. The Independent. ngày 29 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  23. ^ “Monaco pay €70 million for Porto pair”. Goal.com. ngày 24 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2014.
  24. ^ “World Cup 2014: James Rodriguez joins the perfect 10s”. BBC Sport. ngày 29 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2014.
  25. ^ “Falcao, Monaco win Ligue 1 debut”. FOX Sports. ngày 21 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2014.
  26. ^ “Monaco maintain two-point lead over PSG”. UEFA.com. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2013.
  27. ^ “Primer gol oficial de James Rodríguez con el Mónaco”. Comutricolor.com. ngày 30 tháng 11 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2014.
  28. ^ “Live Commentary: Vannes OC 2-3 AS Monaco - as it happened - Sports Mole”. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2014.
  29. ^ “Ligue 1 - James Rodriguez at the double as Monaco win at Bastia - Yahoo Eurosport UK”. uk.eurosport.yahoo.com. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  30. ^ “Ligue 1 Team of the Season: Ibrahimovic enjoys greatest ever campaign”. Goal.com. ngày 8 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  31. ^ “James Rodríguez signs for Real Madrid for a reported £63m”. The Guardian. ngày 22 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2014.
  32. ^ “Real Madrid sign James Rodriguez from Monaco in £63million deal”. Sky Sports. ngày 22 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2014.
  33. ^ “James Rodriguez signs for Real Madrid inking a six-year contract in £63m transfer from Monaco”. The Telegraph. ngày 22 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2014.
  34. ^ “Real Madrid sign Monaco forward”. BBC. ngày 22 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2014.
  35. ^ “James Rodríguez: "Zidane fue mi ídolo y siempre fui del Real Madrid". Liga BBVA (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 22 tháng 7 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2014.
  36. ^ “Real Madrid sign Monaco forward”. Football-Espana. ngày 23 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2014.
  37. ^ “Ronaldo, Real sink Sevilla to claim Super Cup”. FIFA.com. ngày 12 tháng 8 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2014.
  38. ^ “James Rodriguez đã ghi bàn ra mắt, Real Madrid vẫn bị Atletico cầm hòa 1-1”. Thể thao và Văn Hóa. ngày 20 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  39. ^ “Real Madrid 5-1 FC Basel”. BBC Sports. ngày 16 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  40. ^ “Deportivo de La Coruña 2-8 Real Madrid”. BBC Sport. ngày 20 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
  41. ^ “Granada 0-4 Real Madrid: James Rodriguez lập cú đúp, Real nối dài mạch thắng”. Thể thao và Văn Hóa. ngày 1 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
  42. ^ “Result: James Rodriguez bags brace as Real Madrid ease past Cornella”. Sports Mole. ngày 2 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
  43. ^ “Real mất James Rodriguez đến cuối tháng 3”. Vnexpress. ngày 6 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
  44. ^ “Nước mắt của James Rodriguez”. Vnexpress. ngày 21 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2018.
  45. ^ “James Rodriguez đấm tường, không bắt tay Zidane”. Vnexpress. ngày 6 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2018.
  46. ^ “Real Madrid: James Rodriguez joins Bayern Munich on loan”. BBC Sport. ngày 11 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2018.
  47. ^ “Những con số lớn đằng sau vụ Bayern mượn James từ Real”. Vnexpress. ngày 12 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2018.
  48. ^ “Everton Complete Signing Of James Rodriguez”. Everton F.C. ngày 7 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2020.
  49. ^ “Official Announcement: James Rodríguez”. realmadrid.com. ngày 7 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2020.
  50. ^ “Everton chiêu mộ thành công James Rodriguez”. Zing News. 8 tháng 9 năm 2021.
  51. ^ “Romano xác nhận James Rodriguez đầu quân cho một đội bóng Qatar”. Bóng đá Plus. 10 tháng 12 năm 2021.
  52. ^ “Al Duhail - Al-Rayyan”. Sofascore. 10 tháng 12 năm 2021.
  53. ^ “Al Sailiya - Al-Rayyan”. Sofascore. 10 tháng 12 năm 2021.
  54. ^ “Al Rayyan terminates the contract of Colombian professional James Rodriguez”. 15 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2022.
  55. ^ “james-rodriguez-joins-olympiacos”. 15 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2022.
  56. ^ Olé, Diario Deportivo (15 tháng 9 năm 2022). “James Rodríguez fue presentado en Olympiakos: usará la 10”. Olé (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2023.
  57. ^ “Debut amargo de James con Olympiacos; peor no pudo ser”. Antena 2 (bằng tiếng Tây Ban Nha). 18 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2023.
  58. ^ Burlaga, Kate (13 tháng 4 năm 2023). “James Rodriguez: Former Real Madrid and Everton player has contract terminated by Olympiacos”. The Athletic (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
  59. ^ “Tricolor acerta a contratação de James Rodríguez”. São Paulo FC (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 29 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2023.
  60. ^ John Edwards (ngày 13 tháng 11 năm 2012). “James Rodriguez: Manchester United watch Porto winger for seventh time this season | Mail Online”. Dailymail.co.uk. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  61. ^ “Convocatoria Selección Mayores para juego ante Bolivia” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Colombia national football team. ngày 29 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2011.
  62. ^ Tom Beck (ngày 4 tháng 1 năm 2012). “Conmebol World Cup Qualifying Round-up: Forlan strike not enough as Uruguay are held by Vinotinto”. Goal.com. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  63. ^ “Colombia routs Chile 3-1, gets into qualification zone”. Deportes.terra.es. ngày 11 tháng 9 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  64. ^ “Colombia 1-0 Ecuador: Rodriguez clinches vital three points”. Goal.com. ngày 7 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2014.
  65. ^ “Recovering Falcao left off Colombia's final 23-player World Cup roster”. Fox Sports. ngày 2 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  66. ^ “Colombia 3-0 Greece”. FIFA. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  67. ^ “2014 FIFA World Cup Brazil™: Colombia-Côte d'Ivoire - Overview”. FIFA.com. ngày 19 tháng 6 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  68. ^ “2014 FIFA World Cup Brazil™: Japan-Colombia”. FIFA.com. ngày 24 tháng 6 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  69. ^ “Rodriguez hits front as Perisic goes home in second”. FIFA. ngày 27 tháng 6 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2014.
  70. ^ “Colombia 2-0 Uruguay”. FIFA. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2014.
  71. ^ “World Cup - Genius Rodriguez fires Colombia past toothless Uruguay”. Eurosport. ngày 28 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2014.
  72. ^ “Colombia's James Rodríguez sizzles to end Uruguay World Cup saga”. The Guardian. ngày 29 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2014.
  73. ^ “James Rodriguez giành giải Bàn thắng đẹp nhất World Cup 2014”. TTVH Online. ngày 21 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2018.
  74. ^ “Brazil 2-1 Colombia”. BBC. ngày 4 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2014.
  75. ^ “World Cup 2014: Colombia's James Rodriguez criticises referee”. BBC. ngày 5 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2014.
  76. ^ “World Cup 2014: Fifa announces Golden Ball shortlist”. BBC. ngày 11 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2014.
  77. ^ “World Cup 2014: James Rodriguez wins Golden Boot”. BBC. ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2014.
  78. ^ Jonathan Wilson (ngày 26 tháng 6 năm 2015). “James Rodríguez irked at Copa América, a year on from World Cup wonder goal”. The Guardian. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2018.
  79. ^ “Copa América: Argentina beat Colombia in penalty shootout after stalemate”. The Guardian. ngày 27 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2018.
  80. ^ Doug McIntyre (ngày 2 tháng 6 năm 2016). “Colombia 'can go far' at Copa America Centenario – Jose Pekerman”. ESPN FC. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2018.
  81. ^ Alicia Rodriguez (ngày 3 tháng 6 năm 2016). “USA 0, Colombia 2 – Copa America Centenario Match Recap”. MLSSoccer.com. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2018.
  82. ^ “James fires Colombia into quarter final”. beIN Sports. ngày 8 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2018.
  83. ^ “James Rodríguez es mi sucesor, afirma "El Pibe" Valderrama Chile”. Deportescl.terra.cl. ngày 9 tháng 11 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2013.
  84. ^ “Rodriguez: I've got a lot to learn”. FIFA.com. ngày 20 tháng 8 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2013.
  85. ^ “Why James Rodriguez Will Have a Massive World Cup for Colombia”. Bleacher Report.com. ngày 3 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2014.
  86. ^ “James Rodriguez The Soccer Star is also a Family Man”. ngày 20 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2014.
  87. ^ “Colombia's James Rodriguez, a proud father and the man Brazil most fears at World Cup”.
  88. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Estadísticas James Rodríguez Rubio
  89. ^ a b c d e f g h i j k Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Soccerway profile
  90. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên 2017–18 season
  91. ^ "James Rodríguez International Statistics"., Int.soccerway.com Retrieved on ngày 14 tháng 7 năm 2014
  92. ^ “The James Rodríguez story | Real Madrid CF”. Real Madrid C.F. - Web Oficial (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2021.
  93. ^ a b c d “Real Madrid Transfer News (2015-2016) | Real Madrid CF”. Real Madrid C.F. - Web Oficial (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2021.
  94. ^ a b c “J. Rodríguez”. Soccerway. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2016.
  95. ^ “Real Madrid win 2019/20 LaLiga Santander”. LaLiga. 16 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2020.
  96. ^ “Real Madrid win the Supercopa from the spot”. Marca. Spain. 12 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2020.
  97. ^ “FIFA U-20 World Cup Colombia 2011 - Statistics - Players - Top goals”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2017.
  98. ^ Real Madrid C.F. (ngày 22 tháng 7 năm 2014). “James Rodríguez's presentation as new Real Madrid player” – qua YouTube.
  99. ^ Liga Portugal
  100. ^ “Record elege o onze de 2012” [Record elects the eleven of 2012]. A Bola (bằng tiếng Bồ Đào Nha). ngày 1 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2013.
  101. ^ “João Moutinho e mais dez craques” [João Moutinho and ten aces]. O Jogo (bằng tiếng Bồ Đào Nha). ngày 31 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2013.
  102. ^ “O melhor onze da I Liga”. O Jogo. Truy cập 23 tháng 10 năm 2015.
  103. ^ “French Ligue 1 Stats: Assists Leaders – 2013–14”. ESPN FC. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2014.
  104. ^ “Ibrahimovic mejor jugador de Francia; James Rodríguez tercero”.
  105. ^ “Sondages | Communauté | AS Monaco FC”. Asm-fc.com. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2014.
  106. ^ “James es de oro”. Copa América. Truy cập 23 tháng 10 năm 2015.
  107. ^ FIFA.com. “2018 FIFA World Cup Russia — FIFA.com”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2014.
  108. ^ “The Dream Team”. FIFA.com. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2014.
  109. ^ “Rodriguez volley named Goal of the Tournament”. FIFA.com. ngày 21 tháng 7 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  110. ^ “FIFA Puskás award 2014 – results” (PDF). FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. ngày 12 tháng 1 năm 2015. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2015.
  111. ^ “The 2014/15 Liga BBVA Ideal XI”. LFP. ngày 15 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2015.
  112. ^ “James Rodriguez, 2014/15 Liga BBVA Best Midfielder”. LFP. 30 tháng 11 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017.
  113. ^ “UEFA Champions League Squad of the Season”. UEFA. 27 tháng 5 năm 2018.
  114. ^ “CONFIRMED 2017/18 Bundesliga FIFA 18 Team of the Season”. Bundesliga. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2018.
  115. ^ “Spanish Copa del Rey Statistics”. ESPN FC. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2017.
  116. ^ “El equipo ideal de la CONMEBOL Copa América Brasil 2019” (bằng tiếng Tây Ban Nha). CONMEBOL.com. 9 tháng 7 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2019.
  1. ^ Appearances in the Copa Libertadores.
  2. ^ Appearances in the UEFA Europa League.
  3. ^ Appearances in the UEFA Champions League and UEFA Europa League.
  4. ^ a b c d e f Appearances in the UEFA Champions League.
  5. ^ Appearances in the Portuguese Super Cup.
  6. ^ Appearances in the Spanish Super Cup, UEFA Super Cup, and FIFA World Club Cup.
  7. ^ Appearances in the UEFA Super Cup and FIFA World Club Cup.
  8. ^ Appearances in the Spanish Super Cup.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]