Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nga”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Tẩy trống trang (hoặc lượng lớn nội dung)
n Đã hủy sửa đổi của 1.55.134.252 (Thảo luận) quay về phiên bản của Tnt1984
Dòng 74: Dòng 74:
[[Lịch sử nước Nga thời hậu Xô viết|Lịch sử Liên bang Nga]] khá ngắn, chỉ bắt đầu từ sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991. Từ khi giành lại độc lập, nước Nga đã được công nhận là nhà nước thừa kế chính thức của Liên Xô trên bình diện quốc tế.<ref>Xem, chẳng hạn, [<!--http://www.fco.gov.uk/servlet/Front?pagename=OpenMarket/Xcelerate/ShowPage&c=Page&cid=1007029394365&a=KCountryProfile&aid=1019744935436-->http://www.fco.gov.uk/en/travel-and-living-abroad/travel-advice-by-country/country-profile/europe/russia/ Country Profile for the Russian Federation], của Bộ Ngoại giao Anh. Tra cứu ngày 21-7-2007.</ref> Tuy nhiên, nước Nga đã mất vị trí [[siêu cường]] của mình và đang phải đối mặt với những thách thức trong các nỗ lực thiết lập một hệ thống kinh tế và chính trị hậu Xô viết. Loại bỏ nền [[Kinh tế kế hoạch|kinh tế kế hoạch tập trung]] và quyền sở hữu nhà nước thời kỳ Xô viết, nước Nga đang nỗ lực xây dựng một nền kinh tế mang các yếu tốc của thị trường [[chủ nghĩa tư bản|tư bản]], với những hậu quả nhiều khi khá nặng nề.<ref name = Filzer/> Thậm chí ngày nay nước Nga vẫn mang nhiều nét đặc trưng văn hoá và xã hội thời kỳ Sa Hoàng và Liên Xô.
[[Lịch sử nước Nga thời hậu Xô viết|Lịch sử Liên bang Nga]] khá ngắn, chỉ bắt đầu từ sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991. Từ khi giành lại độc lập, nước Nga đã được công nhận là nhà nước thừa kế chính thức của Liên Xô trên bình diện quốc tế.<ref>Xem, chẳng hạn, [<!--http://www.fco.gov.uk/servlet/Front?pagename=OpenMarket/Xcelerate/ShowPage&c=Page&cid=1007029394365&a=KCountryProfile&aid=1019744935436-->http://www.fco.gov.uk/en/travel-and-living-abroad/travel-advice-by-country/country-profile/europe/russia/ Country Profile for the Russian Federation], của Bộ Ngoại giao Anh. Tra cứu ngày 21-7-2007.</ref> Tuy nhiên, nước Nga đã mất vị trí [[siêu cường]] của mình và đang phải đối mặt với những thách thức trong các nỗ lực thiết lập một hệ thống kinh tế và chính trị hậu Xô viết. Loại bỏ nền [[Kinh tế kế hoạch|kinh tế kế hoạch tập trung]] và quyền sở hữu nhà nước thời kỳ Xô viết, nước Nga đang nỗ lực xây dựng một nền kinh tế mang các yếu tốc của thị trường [[chủ nghĩa tư bản|tư bản]], với những hậu quả nhiều khi khá nặng nề.<ref name = Filzer/> Thậm chí ngày nay nước Nga vẫn mang nhiều nét đặc trưng văn hoá và xã hội thời kỳ Sa Hoàng và Liên Xô.


=== Nga thời kỳ cổ đại ===
[[Tập tin:Muromian-map.png|nhỏ|trái|Bản đồ gần đúng về các nền văn hóa của Nga phần châu Âu khi người Varangia đến]]
Phần lớn diện tích đất đai của nước Nga ngày nay là lãnh thổ của các [[bộ lạc]] khác nhau như [[người Goth]], [[người Hun|Hun]] và [[người Avar|Avar]] gốc Thổ trong khoảng thời gian từ [[thế kỷ 3]] tới [[thế kỷ 6]]. Bộ lạc [[người Scythia]] gốc [[Iran]] sinh sống ở các [[thảo nguyên]] miền nam, và bộ lạc [[người Khazar|người Ca dắc]] (''Khazar'') gốc Tuốc (''Turk'') đã cai trị phần phía tây của vùng đất này cho đến [[thế kỷ 8]]. Sau đó họ đã bị bộ lạc gốc Scandinavi là người [[Varangia]] thay thế, bộ lạc này đã thiết lập [[thủ đô]] tại thành phố của người Slav [[Novgorod]] và dần dần hòa trộn với [[người Slav]]. Người Slav tạo thành nhóm dân cư chính từ thế kỷ 8 trở đi và đồng hóa một cách chậm chạp cả những người gốc Scandinavi cũng như các bộ lạc bản địa gốc [[Phần Lan-Ugric]], chẳng hạn như [[người Merya]], [[người Muromia|Muromia]] và [[người Meshchera|Meshchera]].


Chính quyền của người Varangia tồn tại trong vài thế kỷ, trong thời gian đó họ liên kết với [[Chính thống giáo]] và chuyển thủ đô về [[Kiev]] năm [[1169]]. Trong kỷ nguyên này thuật ngữ "Rhos", hoặc "[[Nguyên từ học của Rus và các dẫn xuất|Russ]]" lần đầu tiên được sử dụng để chỉ người Varangia và người Slav sinh sống trong khu vực. Từ [[thế kỷ 10]] đến [[thế kỷ 11]] quốc gia [[Nga Kiev]] (''Киевская Русь'') đã trở thành lớn nhất ở châu Âu và rất thịnh vượng nhờ các hoạt động [[thương mại]] tích cực với cả châu Âu và châu Á.

Trong [[thế kỷ 13]] khu vực này trở nên suy yếu vì những tranh chấp nội bộ và bị tàn phá bởi những kẻ xâm lược phương đông là [[Kim trướng]] của người [[Mông Cổ]] và các bộ lạc Hồi giáo gốc Turk, là những kẻ đã cướp bóc các [[công quốc]] Nga trên ba thế kỷ. Còn được biết đến như là [[người Tatar]], họ đã cai trị vùng miền nam và miền trung Nga ngày nay, trong khi các vùng miền tây bị sát nhập vào [[Đại công quốc Litva]] và [[Ba Lan]]. Sự chia rẽ về chính trị của Rus Kiev đã tách [[người Nga]] ở phía bắc ra khỏi [[người Belarus]] và [[người Ukraine]] ở phía tây.
[[Tập tin:Zastava.jpg|nhỏ|phải|240px|Quân tuần tra [[Muscovie]] Nga ở biên giới phía Nam]]
Phần phía bắc của Nga cùng với [[Novgorod]] vẫn giữ được sự tự trị ở một mức độ nhất định trong thời gian cai trị của [[người Mông Cổ]]. Tuy thế Nga cũng đã phải chiến đấu chống lại đội quân thập tự chinh của [[người Đức]] khi người Đức có ý đồ chiếm khu vực này làm thuộc địa.

Giống như khu vực [[Balkan]] và [[Tiểu Á]] sự cai trị kéo dài của những người [[du mục]] đã làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước này. Sự [[chuyên quyền]] kiểu châu Á đã ảnh hưởng tiêu cực tới thể chế dân chủ của đất nước cũng như tới văn hóa và kinh tế.

Bất chấp điều đó, không giống như lãnh đạo tinh thần của mình là [[Đế chế Byzantine]], Nga đã không suy tàn và tổ chức những cuộc nổi dậy để giành độc lập, cuối cùng đã khuất phục được các kẻ thù của mình và khôi phục, mở mang lãnh thổ. Sau thất thủ của [[Constantinople]] năm [[1453]], Nga là quốc gia Chính thống giáo duy nhất còn thực sự hoạt động nhiều hay ít ở phần biên giới phía đông châu Âu, điều này cho phép Nga có quyền nhận mình là quốc gia kế tục hợp pháp của Đế chế Byzantine.

=== Đế chế Nga ===
{{Bài chính|Đế chế Nga}}
[[Tập tin:Surikov Pokoreniye Sibiri Yermakom.jpg|nhỏ|300px|Quân Nga xâm lược vùng [[Siberia]] cuối thế kỷ 16 dưới sự chỉ huy của [[Yermak]]]]
[[Tập tin:Port Arthur MTB attack.jpg|nhỏ|270px|Chiến hạm Nhật đánh chìm Hạm đội Nga ở [[Port Athur]] 1904]]
Trong khi về danh nghĩa vẫn nằm dưới sự cai trị của người Mông Cổ thì [[công quốc Moskva]] đã bắt đầu xác nhận ảnh hưởng của mình và cuối cùng đã thoát khỏi sự kiểm soát của những kẻ xâm lăng vào cuối [[thế kỷ 14]]. [[Ivan Hung đế]], vị vua đầu tiên xưng tước vị [[Sa hoàng]], đã kết thúc quá trình này và liên kết các khu vực xung quanh dưới ảnh hưởng của Moskva và xâm lược những vùng đất rộng lớn ở [[Siberi]]. [[Đế chế Nga]] ra đời.

Sự kiểm soát của Moskva đối với quốc gia mới ra đời còn tiếp tục dưới [[triều đại Romanov]] kế tiếp, bắt đầu với [[Mikhail I của Nga|Sa hoàng Mikhail Romanov]] năm [[1613]]. [[Pyotr Đại đế]], Sa hoàng từ [[1689]] tới [[1725]], đã thành công trong việc đem các tư tưởng và văn hóa từ Tây Âu vào Nga, khi đó còn chịu ảnh hưởng lớn của nền văn hóa du mục nguyên thủy. Với chiến thắng của quân Nga trong cuộc [[Đại chiến Bắc Âu]] chống quân [[Thụy Điển]], nước Nga vươn lên thành một trong những liệt cường của châu Âu khi đó. [[Ekaterina II của Nga|Ekaterina Đại đế]] (Екатерина II Алексеевна), cai trị từ năm [[1762]] đến năm [[1796]], đã tiếp bước gầy dựng Đế quốc Nga, đánh tan tác quân [[Đế quốc Ottoman|Thổ Nhĩ Kỳ]]. Tuy nhiên, sự náo loạn của nông nô bị áp bức và sự cấm đoán tầng lớp [[trí thức]] đang phát triển và các giai cấp gần gũi với giai cấp này, cộng thêm gánh nặng thất bại (trận [[Hải chiến Tsushima|Hải chiến Đối Mã]]) trước người Nhật trong [[chiến tranh Nga-Nhật]] năm 1905 đã dẫn đến cuộc [[Cách mạng Nga năm 1905|Cách mạng 1905]]. Trước [[Thế chiến thứ nhất]], vai trò của Sa hoàng [[Nikolai II của Nga|Nikolai II]] (Николай Александрович Романов) và triều đại của ông là không vững chắc. Những thất bại nặng nề của quân đội Nga trong Thế chiến thứ nhất đã dẫn đến sự nổi dậy rộng khắp trong các thành phố chính của [[Đế chế Nga]] và dẫn tới sự sụp đổ của nhà Romanov năm [[1917]], đó là [[Cách mạng tháng Hai]].

Vào giai đoạn cuối của [[Cách mạng tháng Mười]] (1917), những người theo đường lối [[Bolshevik]] của [[Đảng Cộng sản]] dưới sự lãnh đạo của [[Vladimir Ilyich Lenin]] đã giành được chính quyề thành lập [[Liên Xô]]. Sự lãnh đạo của [[Iosif Vissarionovich Stalin]] đã thúc đẩy nhanh quá trình [[công nghiệp hóa]] một đất nước chủ yếu là nông nghiệp và [[tập thể hóa]] nền nông nghiệp đưa đất nước phát triển vượt bậc. Điều này cũng làm tăng cường vị thế của [[Liên Xô]].

=== Nga Xô viết ===
{{main|Các nước Cộng hoà thuộc Liên xô|Lịch sử Liên bang Xô viết|Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga}}
[[Tập tin:Lenin 1920.jpg|nhỏ|trái|150px|đứng|[[Vladimir Lenin]], lãnh đạo những người [[Bolshevik]] và là người sáng lập Liên xô.]]

Sau [[Cách mạng tháng 10]], một cuộc [[Nội chiến Nga|nội chiến]] bùng phát giữa chế độ mới và phong trào [[Bạch vệ]] [[phản cách mạng]], tuy [[Hiệp ước Brest-Litovsk]] đã chấm dứt những thù địch với [[Liên minh Trung tâm]] trong [[Thế chiến I]]. Nga đã mất các lãnh thổ [[Ukraina]], [[Ba Lan]], và [[các vùng thống đốc Baltic|Baltic]], và [[Phần Lan]] khi ký kết hiệp ước. [[Đồng Minh trong Thế chiến I|Các cường quốc Đồng Minh]] tung ra một [[Đồng Minh can thiệp vào Nội chiến Nga|can thiệp quân sự]] hỗ trợ cho các lực lượng chống Cộng sản và cả những người [[Bolsheviks]] cùng Bạch vệ đều tiến hành các chiến dịch trục xuất và hành quyết chống lại nhau, được gọi là [[Khủng bố Đỏ]] và [[Khủng bố Trắng]]. Tới cuối cuộc [[Nội chiến Nga]] nền kinh tế và cơ sở hạ tầng của Nga đã bị phá huỷ nghiêm trọng, [[Nạn đói Nga năm 1921|nạn đói năm 1921]] đã làm thiệt mạng 5 triệu người.<ref>[<!--http://www.icrc.org/Web/Eng/siteeng0.nsf/html/5RFHJY-->http://www.icrc.org/eng/resources/documents/misc/5rfhjy.htm Famine in Russia: the hidden horrors of 1921], International Committee of the Red Cross</ref> [[Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga]] cùng với các nước cộng hoà thuộc Liên xô khác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã [[Hiệp ước về việc thành lập Liên xô|thành lập]] [[Liên bang Xô viết]] ngày 30 tháng 12 năm 1922. Trong số [[Các nước Cộng hoà thuộc Liên xô|15 nước cộng hoà]] thành lập Liên xô, [[Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga]], nước cộng hoà lớn nhất về diện tích và chiếm tới hơn một nửa dân số Nga, thống trị Liên bang Xô viết trong toàn bộ lịch sử 89 năm của nó, Liên bang Xô viết thường được gọi, dù một cách không chính thức, là ''"Nga"'' và người dân của nó là ''"người Nga"''.

Sau cái chết của [[Lenin]] năm 1924, một lãnh đạo Bolshevik khác [[Joseph Stalin]] đã củng cố quyền lực và trở thành một [[nhà độc tài]]. Ông đưa ra một nền [[Kinh tế kế hoạch|kinh tế chỉ huy]], nhanh chóng [[công nghiệp hoá]] đất nước vẫn còn hầu hết là nông nghiệp, và [[Tập thể hoá tại Liên xô|tập thể hoá]] nền nông nghiệp. Những động thái này đã biến Liên xô từ một nền kinh tế nông nghiệp trở thành một cường quốc công nghiệp trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, sự chuyển tiếp này có được với một giá đắt. Hàng triệu người đã chết vì hậu quả của những chính sách gay gắt của chính phủ (xem [[Gulag]], [[Phi kulak hoá]], [[Di chuyển dân cư tại Liên xô]], [[Nạn đói Liên xô 1932–1933]], và [[Đại thanh trừng]]).


Ngày 22 tháng 6 năm 1941, [[Phát xít Đức]] xâm lược Liên xô với lực lượng lớn nhất và mạnh nhất trong lịch sử nhân loại,<ref>{{cite web|title=World War II|publisher=Encyclopædia Britannica|accessdate=2008-03-09|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/648813/World-War-II}}</ref> mở ra [[Mặt trận phía Đông (Thế chiến II)|mặt trận lớn nhất của Thế chiến II]]. Dù [[Wehrmacht|quân đội Đức]] có những thắng lợi to lớn ở thời điểm ban đầu, cuộc tấn công của họ đã bị chặn lại trong [[Trận Moscow (1941)|Trận Moscow]]; sau đó người Đức đã phải chịu nhiều thất bại quan trọng khác, đầu tiên tại [[Trận Stalingrad]] mùa đông năm 1942–1943,<ref>{{cite web|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/648813/World-War-II|publisher=Encyclopedia Britannica|accessdate=2008-03-12|title=The Allies' first decisive successes > Stalingrad and the German retreat, summer 1942–February 1943}}</ref> và sau đó tại [[Trận Kursk]] vào mùa hè năm 1943. Một nơi khác với thất bại của Phát xít và chủ nghĩa anh hùng Liên xô là [[Leningrad]], bị các lực lượng Đức [[Phong toả Leningrad|phong toả hoàn toàn trên đất liền]] giai đoạn 1941–44 và phải chịu nạn đói với hàng triệu người chết, nhưng không bao giờ đầu hàng. Dưới sự lãnh đạo của các vị tướng xuất chúng như [[Georgy Zhukov]] và [[Konstantin Rokossovsky]], các lực lượng Liên xô đã tiến qua [[Đông Âu]] năm 1944–45 và [[Trận Berlin|chiếm Berlin]] tháng 5 năm 1945. Sau khi [[Duyệt binh Chiến thắng tại Moscow năm 1945|đạt được thắng lợi vĩ đại]], quân đội Liên xô [[Chiến tranh Xô-Nhật (1945)|đẩy lùi Nhật Bản]] khỏi vùng [[Mãn Châu]] của [[Trung Quốc]] và [[Bắc Triều Tiên]], một đóng góp quan trọng vào thắng lợi của Đồng Minh trước Nhật Bản.

[[Tập tin:Reichstag flag original.jpg|nhỏ|đứng|180px|phải|[[Lá cờ chiến thắng]] trên nóc toà nhà [[Reichstag (toà nhà)|Reichstag]] sau [[Trận Berlin]] tháng 5 năm 1945.]]
Giai đoạn 1941–1945 của [[Thế chiến II]] được gọi là ''[[Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại]]'' tại Nga. Trong cuộc xung đột này, vốn gồm nhiều [[Danh sách các trận đánh theo con số thương vong|chiến dịch quân sự có thiệt hại nhân mạng lớn nhất]] trong lịch sử loài người, con số thương vong của quân đội Liên xô là 10.6 triệu và thường dân là 15.9 triệu người,<ref name=vadim>{{cite book|author=Erlikman, V.|title=Poteri narodonaseleniia v XX veke : spravochnik|year=2004|id=Note: Estimates for Soviet World War II casualties vary between sources|isbn=5931651071|publisher=Russkai︠a︡ panorama|location=Moskva}}</ref> chiếm khoảng một phần ba tổng số [[thương vong trong Thế chiến II]]. Kinh tế và hạ tầng Liên xô bị phá huỷ nặng nề<ref>{{cite web|title=Reconstruction and Cold War|publisher=Library of Congress|url=http://countrystudies.us/russia/12.htm|accessdate =2007-12-27}}</ref> nhưng Liên bang Xô viết đã nổi lên trở thành một [[siêu cường]] được công nhận. [[Hồng quân]] chiếm [[Đông Âu]] sau cuộc chiến, gồm cả [[Đông Đức|nửa phía đông]] của nước Đức; Stalin đã thiết lập các chính phủ xã hội chủ nghĩa tại [[Khối Đông Âu|các quốc gia vệ tinh]] này. Trở thành [[Nga và vũ khí huỷ diệt hàng loạt|cường quốc hạt nhân]] số hai thế giới, Liên xô đã thành lập [[Khối hiệp ước Warsaw]] đồng minh và bước vào một cuộc đấu tranh giành ảnh hưởng trên thế giới với [[Hoa Kỳ]], được gọi là cuộc [[Chiến tranh Lạnh]]. [[Liên xô]] đã đưa [[ý thức hệ Cộng sản]] của mình tới những đồng minh mơói giành được độc lập, [[Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa]] cùng với [[Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên]], trong khi cũng giúp các nước này thực hiện [[công nghiệp hoá]] và [[phát triển]]. Sau đó các ý tưởng của [[Chủ nghĩa Cộng sản]] cũng đã giành được chỗ đứng tại [[Cuba]] và nhiều quốc gia khác.

[[Tập tin:Yuri Gagarin (NASA).jpg|trái|đứng|nhỏ|180px|Người đầu tiên bay vào vũ trụ, [[Yuri Gagarin]].]]
Sau khi [[Stalin]] chết và một giai đoạn lãnh đạo tập thể ngắn, một lãnh đạo mới [[Nikita Khrushchev]] lên án sự [[sùng bái cá nhân|sùng bái cá nhân với Stalin]] và khởi động quá trình [[phi Stalin hoá]]. Các trại lao động [[Gulag]] bị bãi bỏ và đại đa số tù nhân được thả ra;<ref>{{cite web|url=http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,916205-2,00.html|publisher=[[TIME]]|accessdate=2008-08-01|title=Great Escapes from the Gulag}}</ref> việc giảm nhẹ các chính sách đàn áp sau này được gọi là thời kỳ [[tan băng Khruschev]]. Liên bang Xô viết phóng [[vệ tinh nhân tạo]] đầu tiên của thế giới, ''[[Sputnik 1]]'', và [[nhà du hành vũ trụ]] Nga [[Yuri Gagarin]] trở thành người đầu tiên bay quanh [[Trái đất]] trên tàu vũ trụ có người điều khiển đầu tiên, ''[[Vostok 1]]''. Những căng thẳng với [[Quan hệ Xô-Mỹ|Hoa Kỳ]] lên cao khi hai đối thủ xung đột về việc Mỹ triển khai [[PGM-19 Jupiter|các tên lửa Jupiter]] tại [[Thổ Nhĩ Kỳ]] và Liên xô triển khai [[Khủng hoảng tên lửa Cuba|tên lửa tại Cuba]].

Sau khi Khrushchev bị loại bỏ, một giai đoạn cầm quyền tập thể ngắn khác kế tiếp, cho tới khi [[Leonid Brezhnev]] lên nắm quyền lãnh đạo chính trị Liên xô vào đầu thập niên 1970. Thời kỳ cầm quyền của Brezhnev chứng kiến giai đoạn [[Trì trệ Brezhnev|trì trệ kinh tế]], bởi những nỗ lực cải cách của [[Thủ tướng Liên xô|Thủ tướng]] [[Alexey Kosygin]], đã bị dừng lại. Những cuộc cải cách này có mục tiêu chuyển trọng tâm của nền [[kinh tế Liên xô]] từ [[công nghiệp nặng]] và [[Công nghiệp vũ khí|sản xuất quân sự]] sang [[công nghiệp nhẹ]] và sản xuất [[hàng tiêu dùng]], tuy nhiên điều này cũng có nghĩa là việc [[phi tập trung hoá]] nền kinh tế và áp dụng các yếu tố kiểu [[tư bản]], và giới lãnh đạo [[Chủ nghĩa Cộng sản|Cộng sản]] sẽ không bao giờ chấp nhận nó. Từ năm 1979 cuộc [[chiến tranh Xô viết tại Afghanistan]] đã làm cạn kệt các nguồn tài nguyên kinh tế mà không mang lại một kết quả có ý nghĩa chính trị nào. Cuối cùng [[Quân đội Liên xô|các lực lượng Liên xô]] đã rút khỏi Afghanistan năm 1989 vì sự phản đối quốc tế và thiếu sự ủng hộ từ trong nước. Căng thẳng giữa Liên xô và Mỹ lại gia tăng vào đầu thập niên 1980, được tăng cường bởi tình cảm chống Liên xô tại Mỹ, [[Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược|đề xuất SDI]], và vụ bắn hạ [[chuyến bay 007 của Korean Air Lines]] năm 1983 của Liên xô.

Trước năm 1991, [[kinh tế Liên xô]] là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới,<ref name=cia1990>{{cite web|url=http://www.umsl.edu/services/govdocs/wofact90/world12.txt|publisher=[[Central Intelligence Agency]]|accessdate=2008-03-09|title=1990 CIA World Factbook}}</ref> nhưng trong những năm cuối cùng nó đã bị ảnh hưởng bởi sự thiếu hụt hàng hoá, những khoản thâm hụt tài chính khổng lồ và việc tăng nguồn cung tiền đã dẫn tới lạm phát.<ref>{{cite web|url=http://www.photius.com/countries/russia/economy/russia_economy_unforeseen_results_o~1315.html|title=Russia Unforeseen Results of Reform|publisher=The Library of Congress Country Studies; CIA World Factbook|accessdate=2008-03-10}}</ref> Từ năm 1985 trở về sau, lãnh đạo cuối cùng của Liên xô [[Mikhail Gorbachev]] đã đưa ra các chính sách ''[[glasnost]]'' (mở cửa) và ''[[perestroika]]'' (tái cơ cấu) trong một nỗ lực nhằm hiện đại hoá đất nước và biến nó thành [[dân chủ]] hơn. Tuy nhiên, việc này đã dẫn tới sự trỗi dậy của các [[phong trào quốc gia]] và [[Lịch sử Liên bang Xô viết (1985-1991)|sự giải tán Liên xô]]. Tháng 8 năm 1991, một [[Cuộc đảo chính Xô viết năm 1991|cuộc đảo chính quân sự]] bất thành, chống lại Gorbachev và có mục tiêu duy trì Liên xô, đã dẫn tới sự sụp đổ của nó. Tại [[Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga]], [[Boris Yeltsin]] lên nắm quyền lực và tuyên bố chấm dứt chế độ [[xã hội chủ nghĩa]]. Liên xô tan rã thành [[Các quốc gia hậu Xô viết|15 nước cộng hoà độc lập]] và [[Giải tán Liên xô|chính thức giải tán]] tháng 12 năm 1991. Boris Yeltsin được bầu làm [[Tổng thống Nga]] tháng 6 năm 1991, cuộc [[Bầu cử tổng thống Nga năm 1991|bầu cử tổng thống trực tiếp]] đầu tiên trong lịch sử Nga.

=== Liên bang Xô viết tan rã và Liên bang Nga ===
{{chính|Lịch sử Nga hậu Xô viết}}
[[Tập tin:Russian Army Bosnia.jpg|nhỏ|phải|300px|Thiết giáp [[BTR-80]] của Quân đội Nga năm 1996]]
Vào giai đoạn giữa và cuối thập niên 1980, [[:Thể loại:Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô|tổng bí thư]] [[Mikhail Sergeyevich Gorbachov]] đề ra ''glasnost'' (''гласность'' tức "công khai hóa, mở cửa") và ''[[perestroika]]'' (''Перестройка'' tức "cải tổ") trong cố gắng để hiện đại hóa [[chủ nghĩa cộng sản]]. Những sáng kiến của ông [[Lịch sử Liên Xô (1985-1991)|đã vô tình giải phóng các lực lượng]] mà vào tháng 12 năm [[1991]] đã chia tách Liên Xô thành 15 nước cộng hòa độc lập trong đó Nga là lớn nhất. Kể từ đó, Nga đã cố gắng để xây dựng một hệ thống chính trị dân chủ và kinh tế thị trường nhằm thay thế cho các sự kiểm soát chặt chẽ về xã hội, chính trị, kinh tế trong thời kỳ cộng sản. Kể từ khi [[Chechnya]] tuyên bố độc lập vào đầu những năm [[thập niên 1990]], những [[cuộc chiến tranh du kích]] ([[Chiến tranh Chechnya lần 1]], [[Chiến tranh Chechnya lần 2]]) đã diễn ra giữa các nhóm [[người Chechen]] khác nhau với quân đội Nga. Một số các nhóm này đã trở thành những kẻ [[Hồi giáo]] cực đoan theo tiến trình của cuộc chiến. Ước tính có trên 200.000 người đã chết trong các cuộc xung đột này. Các cuộc xung đột nhỏ hơn diễn ra ở [[Bắc Ossetia]] và [[Ingushetia]].

Sau thời gian làm tổng thống của [[Boris Nikolayevich Yeltsin]] trong những năm thập niên 1990, [[Vladimir Vladimirovich Putin]] đã được bầu làm tổng thống năm [[1999]]. Dưới thời kỳ Putin, sự kiểm duyệt của nhà nước đối với các [[phương tiện thông tin đại chúng]] ở Nga đã làm tăng sự lo ngại của phương Tây về [[quyền con người]] ở Nga.

Với sự mất đi ảnh hưởng của Nga tại [[Grudia]] ([[Cách mạng hồng]]), [[Ukraina]] ([[Cách mạng da cam]]) Balan [[Cách mạng Tulip]] và một số quốc gia cựu Xô viết cũ, cũng như các vấn đề hiện nay về kinh tế và chủ nghĩa ly khai (nổi cộm nhất là ở Chechnya), một số bình luận viên cho rằng có nguy cơ tăng cao của việc tan rã nước Nga.

Sau cuộc chiến chớp nhoáng (07 - 12/08/2008) nhằm trả đũa việc quân đội Greogia tấn công những người Nga và lực lượng gìn giữ hòa bình của Nga ở Nam Ossetia. Việc Nga công nhận độc lập và chủ quyền của 2 vùng tự trị Abkhazia và Nam Ossetia (26/08/2008) cho thấy tham vọng của Nga trong việc lấy lại vị thế và tiếng nói trong khu vực SNG và cao hơn nữa có thể là việc trở lại vị thế của Liên Bang Xô viết trong một hoàn cảnh hoàn toàn mới.

== Chính phủ và chính trị ==
{{main|Chính phủ Nga|Chính trị Nga}}
[[Tập tin:Kremlin_Senate_in_the_Moscow_Kremlin.jpg|nhỏ|Lối vào [[Thượng viện Kremlin]], một phần của [[Kremlin Moscow]] và nơi làm việc của [[Tổng thống Nga]].]]

Theo [[Hiến pháp Nga|hiến pháp]], được thông qua trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 12 tháng 12 năm 1993 sau cuộc [[khủng hoảng hiến pháp Nga năm 1993]], Nga là một [[liên bang]] và theo chính thức là một nền [[cộng hoà]] [[hệ thống bán tổng thống|bán tổng thống]], theo đó Tổng thống là [[nguyên thủ quốc gia]]<ref>{{cite web|title=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 80, §1)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-05.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref> và [[Thủ tướng Nga|Thủ tướng]] là [[lãnh đạo chính phủ]]. Nga được cơ cấu theo nền tảng một chế độ [[dân chủ đại diện]]. [[Hành pháp (chính phủ)|Quyền hành pháp]] thuộc chính phủ.<ref>{{cite web|title=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 110, §1)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-07.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref> [[Lập pháp|Quyền lập pháp]] thuộc hai viện của [[Quốc hội Liên bang Nga|Quốc hội Liên bang]].<ref>{{cite web|title=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 94)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-06.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref> Chính phủ được điều chỉnh bằng một hệ thống [[chia tách quyền lực|kiểm tra và cân bằng]] được định nghĩa trong Hiến pháp Liên bang Nga, là tài liệu pháp lý tối cao của đất nước và [[khế ước xã hội]] cho người dân Liên bang Nga. Chính phủ Liên bang gồm ba nhánh:

* [[Lập pháp]]: [[Quốc hội Liên bang Nga|Quốc hội Liên bang]] [[lưỡng viện]], gồm [[Duma Quốc gia]] và [[Hội đồng Liên bang Nga|Hội đồng Liên bang]] thông qua [[luật liên bang]], [[tuyên chiến]], thông qua các hiệp ước, có [[quyền phê duyệt ngân sách]], và có quyền [[buộc tội]], theo đó có thể phế truất Tổng thống.
* [[Hành pháp (chính phủ)|Hành pháp]]: Tổng thống là [[tổng tư lệnh]] quân đội, có thể phủ quyết [[Dự luật (luật được đệ trình)|dự luật]] trước khi nó có hiệu lực, và chỉ định Nội các và các quan chức khác, những người giám sát và thực hiện các điều luật và chính sách liên bang.
* [[Tư pháp]]: [[Toà án Hiến pháp Liên bang Nga|Toà án Hiến pháp]], [[Toà án Tối cao Liên bang Nga|Toà án Tối cao]], [[Toà án Trọng tài Tối cao Liên bang Nga|Toà án Trọng tài]] và [[các toà án liên bang]] cấp thấp hơn, với các thẩm phán do Hội đồng Liên bang chỉ định theo sự giới thiệu của tổng thống, giải thích pháp luật và có thể bác bỏ các điều luật mà họ cho là [[theo hiến pháp|vi hiến]].


[[Tập tin:Peter the Great statue in Saint Petersburg.jpg|nhỏ|150px|Đài kỷ niệm ''[[Người cưỡi ngựa đồng]]'' phía trước [[Toà án Hiến pháp Nga]] tại [[Saint Petersburg]].]]
Theo hiến pháp, phán quyết tại toà dựa trên tính bình đẳng của mọi công dân,<ref>{{cite web|title=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 19, §1)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-03.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref> các thẩm phán là độc lập và chỉ làm theo pháp luật,<ref>{{cite web|title=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 120, §1)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-08.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref> các phiên toà được mở và người bên bị được quyền có luật sư bào chữa.<ref>{{cite web|title=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 123, §1)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-08.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref> Từ năm 1996, Nga đã quy định đình hoãn hình phạt [[Tử hình tại nga|tử hình]], dù hình phạt tử hình chưa bị pháp luật bãi bỏ.

Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ sáu năm (được tham gia tranh cử nhiệm kỳ hai nhưng bị hiến pháp cấm cầm quyền ba nhiệm kỳ liên tiếp);<ref>{{cite web|title=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 81, §3)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-05.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref> cuộc bầu cử gần nhất được tổ chức năm 2008. Các bộ của chính phủ gồm thủ tướng và các phó thủ tướng, bộ trưởng và các cá nhân được lựa chọn khác; tất cả đều do tổng thống chỉ định theo sự giới thiệu của Thủ tướng (tuy nhiên việc chỉ định thủ tướng phải được Duma Quốc gia thông qua).

Nhánh lập pháp quốc gia là [[Quốc hội Liên bang Nga|Quốc hội Liên bang]], gồm hai viện; [[Duma Quốc gia]] với 450 thành viên<ref>{{cite web|title=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 95, §3)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-06.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref> và [[Hội đồng Liên bang Nga|Hội đồng Liên bang]] 176 thành viên. Các đảng chính trị lớn của Nga gồm [[Nước Nga Thống nhất]], [[Đảng Cộng sản Liên bang Nga|Đảng Cộng sản]], [[Đảng Dân chủ Tự do Nga]], và [[Nước Nga Công bằng]].

=== Quan hệ nước ngoài ===
{{Main|Quan hệ nước ngoài của Nga}}
[[Tập tin:BRIC leaders in 2008.jpg|nhỏ|trái|Lãnh đạo các quốc gia [[BRIC]] năm 2008: (trái sang phải) [[Manmohan Singh]] của Ấn Độ, Dmitry Medvedev của Nga, [[Hồ Cẩm Đào]] của Trung Quốc và [[Luiz Inácio Lula da Silva]] của Brasil.]]
Liên bang Nga được luật pháp quốc tế công nhận là [[nhà nước kế tục]] của [[Liên xô]] cũ.<ref name=uk>{{cite web|title=Country Profile: Russia|publisher=Foreign & Commonwealth Office of the United Kingdom|url=<!--http://www.fco.gov.uk/en/about-the-fco/country-profiles/europe/russia/-->http://www.fco.gov.uk/en/travel-and-living-abroad/travel-advice-by-country/country-profile/europe/russia/|accessdate=2007-12-27}}</ref> Nga tiếp tục thực hiện các cam kết quốc tế của Liên xô, và đã nhận chiếc ghế thường trực của Liên xô tại [[Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc]], tư cách thành viên trong các tổ chức quốc tế khác, các quyền và nghị vụ theo các hiệp ước quốc tế, tài sản và các khoản nợ. Nga có chính sách đối ngoại đa dạng. Ở thời điểm năm 2009, nước này có quan hệ ngoại giao với 173 quốc gia và có 142 đại sứ quán.<ref>
Based on actual count of countries listed
{{cite web
|url=http://www.mid.ru/zu_r.nsf/strawebeng
|title=Diplomatic and consular missions of Russia
|accessdate=2009-07-12
|publisher=Ministry of Foreign Affairs of Russia
}}. Only those listed explicitly as "Embassy of Russia" are included in the embassy count.</ref>
Chính sách đối ngoại được [[Tổng thống Nga]] vạch ra và được [[Bộ Ngoại giao Nga|Bộ ngoại giao]] thực hiện.<ref>{{cite web|author=Kosachev. K|title=Russian Foreign Policy Vertical|publisher=Russia In Global Affairs|url=<!--http://eng.globalaffairs.ru/numbers/8/578.html-->http://eng.globalaffairs.ru/number/n_3372|accessdate=2007-12-27}}</ref>

Là một trong thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, Nga đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Nước này tham gia vào [[Nhóm bộ tứ cho Trung Đông]] và [[Những cuộc đàm phán sáu bên]] với [[Bắc Triều Tiên]]. Nga là một thành viên của [[G8]], [[Hội đồng châu Âu]], [[Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu|OSCE]] và [[Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương|APEC]]. Nga thường có vai trò lãnh đạo trong các tổ chức cấp vùng như [[Cộng đồng các quốc gia độc lập|CSI]], [[Cộng đồng Kinh tế Âu Á|EurAsEC]], [[Tổ chức Hiệp ước An ninh Tập thể|CSTO]], và [[Tổ chức Hợp tác Thượng Hải|SCO]]. Cựu tổng thống Vladimir Putin đã ủng hộ một đối tác chiến lược với sự hội nhập ở nhiều cấp độ gồm cả việc thành lập [[Các không gian chung Liên minh châu Âu-Nga|bốn không gian chung giữa Nga và EU]].<ref>{{ru_icon}} {{cite web|url=http://rian.ru/politics/20041125/743119.html|title=Interview of official Ambassador of Russian Foreign Ministry on relations with the EU|publisher=RIA Novosti|accessdate=2008-06-30}}</ref> Từ khi Liên xô sụp đổ, Nga đã phát triển một [[Quan hệ NATO-Nga|mối quan hệ]] thân cận hơn dù không ổn định với [[NATO]]. [[Hội đồng NATO-Nga]] được thành lập năm 2002 để cho phép 26 nước Đồng minh và Nga cùng làm việc như những đối tác bình đẳng để theo đuổi sự hợp tác chung.<ref>{{cite web|title=NATO-Russia relations|publisher =NATO|url=http://www.nato.int/issues/nato-russia/topic.html|accessdate=2007-12-27}}</ref>

=== Quân đội ===
{{Main|Các lực lượng vũ trang Liên bang Nga}}
[[Tập tin:Russian Knights and Swifts.jpg|nhỏ|Các đội [[biểu diễn hàng không]] [[Các hiệp sĩ Nga]] và [[Strizhi|Swifts]] trong đội hình bay hình thoi ([http://www.youtube.com/watch?v=-MWV_-snOJ8 Watch]{dead link|date=tháng 6, 2011}}).]]
[[Tập tin:Russian paratroopers 106th VDD.JPG|nhỏ|phải|[[Quân nhảy dù Nga|lính dù Nga]] trong một cuộc tập trận tại [[Kazakhstan]]]]
Nga thừa hưởng quyền kiểm soát các tài sản của Liên xô ở nước ngoài và hầu hết các cơ sở và ngành công nghiệp quốc phòng Liên xô.<ref>{{cite web|title=Chapter 2—Investing In Russian Defense Conversion: Obstacles and Opportunities|publisher=Federation of American Scientists|url=http://www.fas.org/nuke/guide/russia/industry/docs/rus95/rdbd4ch2.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref> Quân đội Nga được chia thành [[Các lực lượng lục quân Nga|Các lực lượng lục quân]], [[Hải quân Nga|Hải quân]], và [[Không quân Nga|Không quân]]. Cũng có ba nhánh quân đội độc lập: [[Các lực lượng tên lửa chiến lược]], [[Các lực lượng không gian Nga (VKS)|Các lực lượng quân sự không gian]], và [[Quân nhảy dù Nga|Quân nhảy dù]]. Năm 2006, quân đội có 1,037 triệu người hoạt động thường xuyên.<ref name=iiss/>

Nga có [[Nga và vũ khí huỷ diệt hàng loạt|kho vũ khí hạt nhân]] lớn nhất thế giới. Họ có hạm đội tàu ngầm tên lửa đạn đạo đứng thứ hai và là nước duy nhất ngoài Hoa Kỳ có một lực lượng [[máy bay ném bom chiến lược]] hiện đại.<ref name=fas>{{cite web|title=Status of Nuclear Powers and Their Nuclear Capabilities|publisher=Federation of American Scientists|url=http://www.fas.org/nuke/guide/summary.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref> Lực lượng [[xe tăng]] Nga lớn nhất thế giới, [[hải quân]] nổi và [[không quân]] cũng thuộc hàng mạnh nhất. Nước này có một ngành [[công nghiệp vũ khí]] lớn và hoàn toàn bản địa, sản xuất hầu hết các loại trang thiết bị quân sự với chỉ một số ít loại vũ khí phải nhập khẩu. Nga là nước cung cấp vũ khí hàng đầu thế giới, một vị thế họ đã giữ từ năm 2001, chiếm khoảng 30% doanh số vũ khí toàn cầu<ref name="abc.net.au">{{cite web|title=US drives world military spending to record high|publisher=Australian Broadcasting Corporation|url=http://www.abc.net.au/news/newsitems/200606/s1661277.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref> và xuất khẩu vũ khí tới khoảng 80 nước.<ref name="RIA Novosti">{{cite web|title=Russia arms exports could exceed $7 bln in 2007 - Ivanov|publisher=RIA Novosti|accessdate=2008-01-27|url=http://en.rian.ru/russia/20071224/93979601.html}}</ref>

Mọi công dân nam của Nga từ 18–27 tuổi phải [[đăng ký nghĩa vụ quân sự|đăng ký]] thực hiện nghĩa vụ một năm trong các lực lượng vũ trang, chính phủ có kế hoạch tăng tỷ lệ [[Quân sự tình nguyện|binh sĩ chuyên nghiệp]] lên 70% vào năm 2010. Chi phí quân sự đã tăng gấp bốn lần trong sáu năm qua<ref>{{citation|publisher=FBIS: Informatsionno-Analiticheskoye Agentstvo Marketing i Konsalting|date=14 March 2006|title=Russia: Assessment, Adam Baltin Interview, Opinion Poll on State of Armed Forces}}</ref> và chi tiêu quốc phòng chính thức của chính phủ năm 2008 là $40 tỷ, khiến nước này [[Danh sách quốc gia theo chi tiêu quân sự|đứng thứ tám về chi phí quân sự trên thế giới]],<ref>{{cite web|url=http://en.rian.ru/russia/20080226/100080440.html|title=Russian defense spending to grow 20% in 2008, to $40 bln|publisher=RIA Novosti|accessdate=2008-03-13}}</ref> dù nhiều nguồn tin, kể cả tình báo Hoa Kỳ,<ref>{{cite web|url=http://www.abcnews.go.com/WN/story?id=3728855|title=Rice: Russia's Military Moves 'a Problem'|publisher=ABC News|accessdate=2008-01-06}}</ref> và [[Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế]],<ref name=iiss>{{cite journal|journal=International Institute for Strategic Studies|title=Overview of the major Asian Powers|page=31|url=http://www.csis.org/media/csis/pubs/060626_asia_balance_powers.pdf|accessdate=2008-01-27}}</ref> đã ước tính chi phí quân sự của Nga lớn hơn rất nhiều.<ref>{{cite web|url=http://www.globalsecurity.org/military/world/spending.htm|publisher=Global Security|title=World Wide Military Expenditures|accessdate=2008-01-06}}</ref>
Hiện nay, quân đội Nga đang trải qua một quá trình nâng cấp [[Thiết bị quân sự|thiết bị]] lớn trị giá khoảng $200 tỷ trong giai đoạn 2006 và 2015.<ref>{{cite web|url=http://www.guardian.co.uk/world/2007/feb/09/russia.usa|publisher=Guardian|title=Big rise in Russian military spending raises fears of new challenge to west|accessdate=2008-01-06}}</ref> Bộ trưởng quốc phòng [[Anatoliy Serdyukov]]<ref name="defensebrief">{{cite journal|author=Pukhov, R.|date=2009|title=Serdyukov Cleans Up the Arbat|journal=[[Moscow Defense Brief]]|publisher=[[Centre for Analysis of Strategies and Technologies]]|issue=#1 (15) / 2009|url=http://mdb.cast.ru/mdb/1-2008/item2/article1/|accessdate=2009-05-19}}</ref> giám sát các cuộc cải cách lớn với mục đích chuyển đổi từ một quân đội tập trung đông đảo thành một lực lượng chuyên nghiệp nhỏ hơn.<ref name="barabanov">{{cite web|url=http://cast.ru/eng/?id=333|title=The Army's Chief Destroyer|author=Barabanov, M|date=2009-02-16|publisher=The Moscow Times|accessdate=2009-05-19}}</ref>

== Phân chia hành chính ==
{{Bài chính|Phân cấp hành chính Nga}}
[[Tập tin:Russian-regions.png|nhỏ|phải|300px|Các đơn vị hành chính của Liên bang Nga]]
''Xem thêm'':
* [[Vùng liên bang của Nga]] (''федеральные округа'')
* [[Chủ thể liên bang của Nga]] (''федеральные субъекты'')
* [[Nước cộng hòa thuộc Nga]] (''федеральные республики'')
* [[Tỉnh của Nga]] (''федеральные области'')
* [[Vùng của Nga]] (''федеральные края'')
* [[Tỉnh tự trị của Nga]] (''автономная область'')
* [[Khu tự trị của Nga]] (''автономные округа'')
* [[Thành phố liên bang của Nga]] (''города федерального значения'').

Liên bang Nga là sự hợp thành của một lượng lớn các chủ thể hành chính cấp [[liên bang]], tổng cộng là 83 đơn vị hợp thành (chủ thể) như vậy. Tại Nga có 21 nước [[cộng hòa]] trong phạm vi liên bang có mức độ tự trị cao trong phần lớn các vấn đề và chúng gần như tương ứng với khu vực sinh sống của các bộ tộc người thiểu số ở Nga. Phần còn lại của lãnh thổ bao gồm 48 [[tỉnh của Nga|tỉnh]] (''oblast'') và 7 [[vùng của Nga|vùng]] (''krai''), 1 [[tỉnh tự trị của Nga|tỉnh tự trị]] (''avtonomnaya oblast'') và 9 [[khu tự trị của Nga|khu tự trị]] (''avtonomnyi okrug''). Ngoài các đơn vị hành chính này còn 2 [[thành phố liên bang của Nga|thành phố trực thuộc trung ương]] ([[Moskva]] và [[Sankt-Peterburg]]). Gần đây nhất, 7 [[Vùng liên bang của Nga|vùng liên bang]] lớn về diện tích (4 vùng ở châu Âu và 3 vùng ở châu Á) đã được bổ sung như một thể chế hành chính giữa các thể chế hành chính nói trên và cấp độ quốc gia.

== Địa lý ==
[[Tập tin:Russland Relief.png|nhỏ|400px|Bản đồ địa lí tự nhiên của Nga]]
{{Bài chính|Địa lý nước Nga}}
Liên bang Nga trải dài trên phần phía bắc của siêu lục địa [[Á-Âu]]. Tuy rằng Nga chiếm phần lớn khu vực Bắc cực và cận Bắc cực nhưng có ít hơn về dân số, hoạt động kinh tế cũng như các sự đa dạng vật lý trên một đơn vị diện tích so với phần lớn các khu vực khác, phần lớn diện tích ở phía nam của khu vực này có phong cảnh và [[khí hậu]] đa dạng hơn. Phần lớn đất đai Nga là các đồng bằng rộng lớn, ở cả châu Âu và châu Á, được biết đến như là [[Siberi]]. Các đồng bằng này chủ yếu là [[thảo nguyên]] về phía nam và rừng rậm về phía bắc, với các [[tundra]] (lãnh nguyên) dọc theo bờ biển phía bắc. Các dãy núi chủ yếu nằm ở biên giới phía nam, chẳng hạn như [[Kavkaz]] (ở đây có đỉnh [[Elbrus]], là điểm cao nhất thuộc Nga và châu Âu với cao độ 5.633 m) và [[dãy núi Altai]], cũng như ở phần phía đông, chẳng hạn như [[dãy Verkhoyansk]] hoặc các [[núi lửa]] trên [[bán đảo Kamchatka|Kamchatka]]. [[Dãy Ural]], là một dãy núi chạy theo hướg bắc-nam, tạo ra sự phân chia cơ bản giữa châu Âu và châu Á cũng là một dãy núi nổi tiếng.

Nga có đường bờ biển dài trên 37.000 km dọc theo [[Bắc Băng Dương]] và [[Thái Bình Dương]],<ref>"http://diendankienthuc.net/diendan/dia-ly-chau-au/24119-dia-ly-nuoc-nga.html"</ref> cũng như dọc theo các biển mang tính trong nội địa ít hay nhiều như [[biển Baltic]], [[biển Đen]] và [[biển Caspi]]. Một số các biển nhỏ hơn là các phần của các đại dương như [[biển Barents]], [[Bạch Hải]], [[biển Kara]], [[biển Laptev]] và [[biển Đông Siberi]] là các phần của Bắc Băng Dương, trong khi các biển như [[biển Bering]], [[biển Okhotsk]] và [[biển Nhật Bản]] thuộc về Thái Bình Dương. Các đảo chính bao gồm [[Novaya Zemlya]], [[mũi Franz-Josef]], [[quần đảo Tân Siberi]], [[đảo Wrangel]], [[quần đảo Kuril]] và [[Sakhalin]]. (Xem ).

Nhiều con sông chảy qua nước Nga. Xem thêm các .

Các hồ chính bao gồm [[hồ Baikal]], [[hồ Ladoga]], [[biển Caspi|biển hồ Caspi]] và [[hồ Onega]]. Xem [[Danh sách các hồ ở Nga]].
[[Tập tin:Осетр_река.jpg|nhỏ|[[Nội địa Trung Nga]] gần [[Zaraysk]], [[Moscow Oblast]]]]
[[Tập tin:Caucasus, Russia (Dombay).jpg|nhỏ|Dãy [[Đại Caucasus]] gần [[Dombay, Cộng hoà Karachay-Cherkess|Dombay]], [[Karachay-Cherkessia]]]]
[[Tập tin:Vasyugan.jpg|nhỏ|Các đồng bằng phía Tây [[Siberia]], [[Sông Vasyugan]], [[Tomsk Oblast]].]]
[[Tập tin:Archangelsk taiga.JPG|nhỏ|Rừng [[Taiga]] mùa đông, [[Arkhangelsk Oblast]].]]

=== Biên giới ===
Cách thức thực tế phổ biến nhất để miêu tả nước Nga là miêu tả phần chính (phần tiếp giáp lớn với các quần đảo hay đảo ngoài biển của nó) và phần tách rời (khu vực [[Kaliningrad]] ở phía đông nam của [[biển Baltic]]).

Biên giới của phần chính và các bờ biển (bắt đầu từ phần xa nhất về phía tây bắc và tính ngược chiều kim đồng hồ) là:

* Biên giới với các quốc gia sau: [[Na Uy]] và [[Phần Lan]]
* Bờ biển ngắn trên biển Ban tích, tiếp giáp với 8 quốc gia khác trên biển này, từ Phần Lan tới [[Estonia]] và bao gồm cả [[cảng St. Petersburg]].
* Biên giới với [[Estonia]], [[Latvia]], [[Belarus]] và [[Ukraina]].
* Bờ biển trên biển Đen, tiếp giáp với 5 quốc gia khác từ Ukraina tới [[Grudia]].
* Biên giới với [[Gruzia]] và [[Azerbaijan]].
* Bờ biển trên [[biển Caspi]], tiếp giáp với 4 quốc gia khác từ Azerbaijan tới [[Kazakhstan]].
* Biên giới với Kazakhstan, [[Trung Quốc]], [[Mông Cổ]], Trung Quốc một lần nữa và [[Bắc Triều Tiên]].
* Đường bờ biển mở rộng cho phép đi lại và giao thương với tất cả các quốc gia có lãnh thổ biển trên toàn thế giới, và kéo dài
** Từ bắc [[Thái Bình Dương]] bao gồm:
*** [[Biển Nhật Bản]] (trong đó có bờ biển phía tây của [[Sakhalin]] thuộc Nga).
*** [[Biển Okhotsk]] (trong đó có bờ biển phía đông của [[Sakhalin]] và [[quần đảo Kuril]]), và
*** [[Biển Bering]],
** Dọc theo [[eo biển Bering]] (trong đó đảo nhỏ thuộc Nga [[Diomede lớn]] bị chia cắt chỉ vài dặm với [[Diomede nhỏ]], một phần thuộc [[Alaska]] của [[Hoa Kỳ]]),
** [[Bắc Băng Dương]], bao gồm:
*** [[Biển Chukchi]] (trong đó có bờ biển phía đông và nam của [[đảo Wrangel]]),
*** [[Biển Đông Siberi]] (trong đó có bờ biển phía tây của Nga và bờ phía đông của [[quần đảo Tân Siberi]]),
*** [[Biển Laptev]] (trong đó có bờ biển phía tây của Nga,
*** [[Biển Kara]] (trong đó có bờ biển phía đông của [[Novaya Zemlya]] (Đất mới)),
*** [[Biển Barents]] (trong đó có bờ biển phía tây của Nga, bờ biển phía nam của [[Mũi Franz-Josef]] và cảng [[Murmansk]] với các thiết chế hàng hải quan trọng nằm ở đó, ở đó [[Bạch Hải]] ăn sâu vào đất liền nhất).

Phần tách rời là [[Kaliningrad (tỉnh)|tỉnh Kaliningrad]], tỉnh này có
* chung biên giới với
** [[Ba Lan]] ở phía nam tỉnh này và
** [[Litva]] về phía bắc và đông tỉnh này, và
* bờ biển phía tây bắc nhìn ra biển Ban tích.

Các bờ biển thuộc các [[biển Baltic]] và [[biển Đen]] của Nga có đường giao lưu ra đại dương ít trực tiếp và rắm rối hơn so với các bờ biển thuộc Thái Bình Dương và Bắc Băng Dương, nhưng cả hai đều có vai trò quan trọng. Biển Ban tích cho phép Nga có giao thương đường biển nhanh chóng với 9 quốc gia có chung bờ biển này cũng như giữa phần lục địa chính của Nga với tỉnh [[Kaliningrad]]. Thông qua eo biển nằm trong [[Đan Mạch]], và giữa nó với [[Thụy Điển]] thì biển Ban tích thông ra [[biển Bắc]] và [[Đại Tây Dương]] về phía tây và bắc của nó. Biển Đen cho phép Nga có giao thương đường biển nhanh chóng với 5 quốc gia khác có chung bờ biển, thông qua các eo biển [[Dardanelles]] và [[Biển Marmora|Marmora]] liền kề với [[Istanbul]], [[Thổ Nhĩ Kỳ]] để nối vào [[Địa Trung Hải]] với nhiều quốc gia có bờ biển ở đó và thông qua [[kênh đào Suez]] để sang [[Ấn Độ Dương]] và [[eo biển Gibraltar]] để sang Đại Tây Dương. [[Biển Caspi]], hồ nước mặn lớn nhất thế giới, không có đường giao thông với biển cả.

=== Phạm vi không gian ===
Hai điểm xa nhau nhất tại Nga cách nhau khoảng 8.000 km trên [[đường trắc địa]] (''geodesic''). Một trong hai điểm này nằm trên biên giới với [[Ba Lan]], trên một khoảng đất dài 60 km chia [[vịnh Gdansk]] với [[phá Vistula]]. Còn điểm kia nằm tại cực đông-nam của quần đảo Kuril, chỉ vài dặm cạnh [[đảo Hokkaido]] của [[Nhật]].

Để diễn tả sự to lớn này, người ta thường nói là Nga bao trùm 11 [[múi giờ]]. Tuy nhiên, sự diễn tả này có thể gây nhầm lẫn vì hai điểm xa nhau nhất nếu tính theo [[kinh tuyến]] chỉ cách nhau 6.600 km trên đường trắc địa. Một trong hai điểm này nằm trên biên giới với Ba Lan (nói bên trên); còn điểm kia nằm trên [[quần đảo Diomede]] (''đảo Ratmanova''). Và hơn nữa, [[chính phủ Nga]] đã quyết định giảm số múi giờ từ 11 xuống 9, thậm chí là 5 để phát triển kinh tế. <ref>"http://vietbao.vn/Kinh-te/Nga-bot-2-mui-gio-de-phat-trien-kinh-te/11155915/48/"</ref>

=== Khí hậu ===
{{main|Khí hậu Nga}}
Khí hậu Liên bang Nga được hình thành dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố xác định. Diện tích to lớn của đất nước và sự xa tách khỏi biển của nhiều vùng dẫn tới một kiểu [[khí hậu lục địa ẩm]] và [[Khí hậu cận Bắc Cực|cận Bắc Cực]], là kiểu khí hậu phổ biến ở châu Âu và vùng châu Á của Nga ngoại trừ lãnh nguyên và vùng cực đông nam. Các dãy núi ở phía nam ngăn chặn các khối không khí ấm từ [[Ấn Độ Dương]], trong khi đồng bằng phía tây và phía bắc khiến nước này mở rộng với những ảnh hưởng từ [[Bắc Cực]] và [[Đại Tây Dương]].<ref name=congress>{{cite web|title=Climate|publisher=Library Of Congress|url=http://countrystudies.us/russia/24.htm|accessdate=2007-12-26}}</ref>

[[Tập tin:Birches_near_Novosibirsk_in_Autumn.jpg|đứng|nhỏ|180px|Một khu rừng [[bulô]] tại [[Siberia]], [[Novosibirsk Oblast]]. [[Bulô]] là loại [[cây quốc gia]] của Nga.]]
Trên hầu khắp lãnh thổ chỉ có hai mùa riêng biệt&nbsp;— mùa đông và mùa hè, mùa xuân và mùa thu thường chỉ là những giai đoạn thay đổi ngắn giữa thời tiết cực thấp và cực cao.<ref name=congress/> Tháng lạnh nhất là tháng 1 (tháng 2 trên bờ biển), tháng ấm nhất thường vào tháng 7. Sự chênh lệch nhiệt độ lớn là điều thông thường. Vào mùa đông, nhiệt độ lạnh đi cả từ phía nam tới phía bắc và từ phía tây tới phía đông. Mùa hè có thể khá nóng và ẩm, thậm chí tại [[Siberia]]. Một phần nhỏ của bờ [[Biển Đen]] quanh [[Sochi]] có [[Cận nhiệt đới|khí hậu cận nhiệt đới]].<ref>{{cite journal|author=Drozdov, V. A. ''et al.''|title=Ecological and Geographical Characteristics of the Coastal Zone of the Black Sea|journal=GeoJournal|publisher=Springer Netherlands|location=27.2, pp. 169–178|year=1992|doi=10.1007/BF00717701|volume=27|pages=169}}</ref> Những vùng nội địa là những nơi khô nhất.

=== Động thực vật ===
{{main|Danh sách các vùng sinh thái tại nga|Danh sách các loại thú có vú của Nga|Danh sách các loại chim của Nga}}

Từ bắc xuống nam [[Đồng bằng Đông châu Âu]], cũng được gọi là [[Đồng bằng Nga]], bị bao phủ trong ''[[lãnh nguyên]]'' Bắc Cực, những cánh rừng tùng bách (''[[taiga]]''), những cánh [[Rừng lá rộng ôn hoà và rừng pha trộn|rừng lá rộng và pha trộn]], đồng cỏ (''[[thảo nguyên]]''), và bán sa mạc (bao quanh [[Biển Caspian]]), bởi những thay đổi trong thực vật phản ánh những thay đổi trong khí hậu. [[Siberia]] cũng có một mô hình tương tự nhưng chủ yếu là [[taiga]]. Nga có [[Danh sách quốc gia theo diện tích rừng|trữ lượng rừng]] lớn nhất thế giới,<ref name=loc>{{cite web|last=Library of Congress|title=Topography and Drainage|url=http://countrystudies.us/russia/23.htm|accessdate=2007-12-26}}</ref> được gọi là ''"lá phổi của châu Âu"'',<ref name=guardianforest>{{cite web|author=Walsh, NP|title =It's Europe's lungs and home to many rare species. But to Russia it's £100bn of wood|publisher =Guardian (UK)|url=http://www.guardian.co.uk/world/2003/sep/19/environment.russia|accessdate=2007-12-26}}</ref> đứng thứ hai chỉ sau [[Rừng mưa Amazon]] về khối lượng hấp thụ [[carbon dioxide]]. Những cánh rừng Nga sản xuất ra một khối lượng lớn [[ôxy]] không chỉ cho châu Âu mà cho toàn thế giới.
{|
|-
|[[Tập tin:Medved mzoo.jpg|nhỏ|[[Gấu xám]] là một [[Gấu Nga|biểu tượng của Nga]].]] || [[Tập tin:Amur Tiger Panthera tigris altaica Cub Walking 1500px.jpg|nhỏ|Nơi sinh sống tự nhiên của [[Hổ Amur]] là vùng [[Viễn Đông Nga]].]]
|}
Có [[Danh sách các loài có vú của Nga|266 loài có vú]] và [[Danh sách các loài chim của Nga|780 loài chim]] tại Nga. Tổng cộng 415 loài thú đã được đưa vào [[Sách Đỏ Nga]] vào năm 1997,<ref>[http://enrin.grida.no/biodiv/biodiv/national/russia/state/00440.htm list of animals of Red Data Book of Russian Federation (1 November 1997)]</ref> và hiện đang được bảo vệ.

== Kinh tế ==
{{Bài chính|Kinh tế Nga}}
[[Tập tin:Russian subdivisions GRP per capita.svg|nhỏ|phải|Sản xuất cấp vùng trên đầu người năm 2007 (sẫm màu là cao hơn).]]
[[Image:Деревня Малиновка.JPG|nhỏ|Một nông trại nhỏ tại Malinovka.]]
Hơn một thập kỷ sau sự [[sụp đổ của Liên Xô]] năm [[1991]], Nga vẫn còn đang cố gắng để thiết lập một nền [[kinh tế thị trường]] và để thu được sự phát triển kinh tế bền vững. Trong 5 năm đầu nền kinh tế Nga đã phát triển không ổn định do các cơ quan [[hành pháp]] và [[lập pháp]] còn nhiều bất đồng trong việc hoàn thiện công cuộc cải cách và các nền tảng công nghiệp của Nga chịu sự suy thoái nặng nề. Ngoài ra, sự thiếu hụt thực phẩm năm 1987, mà hậu quả của nó là đã phải cần đến sự trợ giúp quốc tế trên bình diện rộng, đã làm tổn thương nghiêm trọng lòng tự hào cũng như nền kinh tế nói chung của nước Nga mới ra đời.

Tuy thế, mặc dù không hiệu quả trong điều kiện kinh tế thị trường và khẩu vị của người tiêu dùng nhưng nền kinh tế cựu Xô viết nói chung đã được chấp nhận là đã tạo cho người dân Nga nói chung có mức sống tiêu chuẩn kể từ sau những năm giữa [[thập niên 1950]] cao hơn so với công dân của của nhiều quốc gia đã phát triển theo định hướng tư bản và kinh tế thị trường như [[Mexico]], [[Brasil]], [[Ấn Độ]] và [[Argentina]].

Nạn mù chữ trên thực tế là không tồn tại{{fact}}, giáo dục cao học là rất tốt và thích hợp{{fact}}, nạn thất nghiệp trên thực tế không tồn tại, và trong các quan hệ giới tính thì Nga đã thuộc về trong nhóm các quốc gia có sự công bằng nhất trên thế giới với phụ nữ{{fact}}, đôi khi họ còn tiến xa hơn nam giới trong con đường công danh sự nghiệp{{fact}}, đặc biệt là trong khoa học. Nhiều gia đình có ô tô, ti vi, máy ghi âm, và có thể đi du lịch bằng máy bay ít nhất một lần trong năm tới những nhà nghỉ ven biển nổi tiếng.

Tuy thế, các chủng loại hàng tiêu dùng (cụ thể là quần áo và lương thực, thực phẩm) là tương đối đơn giản, và sự thiếu hụt của hàng tiêu dùng trong gia đình đã bị kêu ca nhiều ở các khu vực thành thị, mặc dù các khu nhà ổ chuột với điều kiện vệ sinh tồi tàn là hiếm.

Sau sự tan rã của Liên Xô, sự phục hồi nhỏ của Nga dưới ảnh hưởng của kinh tế thị trường lần đầu tiên diễn ra vào khoảng năm [[1997]]. Trong năm đó, cuộc [[khủng hoảng tài chính châu Á]] đã lên đến điểm đỉnh trong việc phá giá của đồng [[rúp]] vào tháng 8 năm [[1998]], làm cho chính phủ bị [[vỡ nợ]] và làm suy giảm trầm trọng mức sống tiêu chuẩn của phần lớn dân chúng. Vì thế, năm 1998 cũng đã được ghi nhận như là năm của suy thoái và sự tăng cường rút vốn ra khỏi nền kinh tế.

[[Tập tin:Rosneft-azs.jpg|nhỏ|trái|Một trạm xăng của [[Rosneft]]. Nga là [[Danh sách quốc gia theo xuất khẩu khí tự nhiên|nhà xuất khẩu khí tự nhiên]] lớn nhất và [[Danh sách quốc gia theo xuất khẩu dầu mỏ|nhà xuất khẩu dầu mỏ]] đứng thứ hai thế giới.]]
Tuy nhiên, nền kinh tế Nga đã phục hồi vừa phải trong năm 1999. Kinh tế Nga đã đi vào trong giai đoạn phát triển nhanh, [[Tổng sản phẩm quốc nội|GDP]] tăng trưởng trung bình 6,8% trên năm trong giai đoạn [[1999]]-[[2004]] trên cơ sở của giá [[dầu mỏ]] cao, đồng rúp yếu, và tăng trưởng của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Nhưng sự phát triển kinh tế này là cực kỳ không đều: khu vực thủ đô Moskva cung cấp tới 30% GDP của toàn quốc.

Sự phục hồi kinh tế này cùng với cố gắng cải tổ của chính quyền trong các năm [[2000]]-[[2001]] để thúc đẩy cải cách về cấu trúc đang bị thụt lùi, đã làm tăng sự tin cậy của các nhà kinh doanh và đầu tư về triển vọng của nền kinh tế Nga trong thập niên thứ hai của thời kỳ chuyển đổi. Nga vẫn dựa chủ yếu vào xuất khẩu hàng hóa, cụ thể là dầu mỏ, [[khí đốt]], kim loại và [[gỗ]], các mặt hàng này chiếm trên 80% [[kim ngạch]] xuất khẩu, điều này làm cho Nga dễ bị thương tổn vì các biến động giá cả trên thị trường quốc tế. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Nga đã nhắm nhiều hơn vào nhu cầu về các mặt hàng tiêu dùng trong nước, là lĩnh vực có mức tăng trưởng trên 12% mỗi năm trong giai đoạn 2000-2004, chỉ ra sự lớn mạnh dần lên của thị trường nội địa.

Năm 2004, GDP của Nga đạt 1.200 tỷ € (1.500 tỷ USD), làm cho Nga trở thành nền kinh tế lớn thứ 11 trên thế giới và thứ 5 ở châu Âu. Nếu mức tăng trưởng hiện tại là ổn định, dự kiến Nga sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ hai ở châu Âu sau Đức (1.900 tỷ € hay 2.300 tỷ USD) và là thứ 8 trên thế giới trong vài năm tới.

Thách thức lớn nhất đối với Nga là các biện pháp để thúc đẩy sự phát triển của các [[xí nghiệp nhỏ và vừa]] (SME) trong điều kiện môi trường kinh doanh với hệ thống ngân hàng trẻ và khác thường, được nắm giữ bởi các [[ông trùm Nga]] (''oligarch''). Nhiều ngân hàng Nga là sở hữu của các nhà doanh nghiệp hay các ông trùm, là những người thông thường sử dụng các khoản tiền gửi ở ngân hàng để cho các doanh nghiệp của chính mình vay mượn.

[[Ngân hàng tái thiết và phát triển châu Âu]] (EBRD) và [[Ngân hàng thế giới]] (WB) đã có những cố gắng để kích hoạt khởi động các hoạt động ngân hàng thông thường bằng cách cấp vốn và mua lại các khoản nợ trong một số ngân hàng nhưng thành tựu thu được là rất không đáng kể.

Các vấn đề khác bao gồm sự phát triển mất cân bằng giữa các khu vực của Nga. Trong khi khu vực thủ đô Moskva là hối hả, có cuộc sống thịnh vượng với [[thu nhập trên đầu người]] nhanh chóng đạt tới mức của các nền kinh tế hàng đầu châu Âu thì phần lớn các khu vực còn lại, đặc biệt là ở các vùng nông thôn và khu vực của người thiểu số ở châu Á, đã bị tụt lại đằng sau rất nhiều. Sự phân hóa thời kinh tế thị trường cũng cảm nhận được ở các thành phố lớn khác như [[Sankt-Peterburg]], [[Kaliningrad]] và [[Ekaterinburg]].
[[Image:Moscow, City May 2010 03.JPG|nhỏ|Trung tâm Thương mại quốc tế Mát-xcơ-va, Nga.]]
Thúc đẩy đầu tư nước ngoài cũng là một thách thức lớn. Ngoài ra, Nga cũng được hưởng lợi từ việc tăng giá dầu mỏ và vì thế có khả năng thanh toán các khoản nợ khổng lồ cũ. Sự phân bổ công bằng các thu nhập từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên này từ công nghiệp cho các lĩnh vực khác cũng là một vấn đề. Việc định hướng cho người tiêu dùng và thúc đẩy chi tiêu vào hàng tiêu dùng là một việc khá khó khăn đối với nhiều khu vực ở các [[tỉnh (hành chính)|tỉnh]], khi mà ở các khu vực này nhu cầu tiêu dùng rất đơn giản, mặc dù đã có nhiều tiến bộ đáng khen ngợi đã được thực hiện ở các thành phố lớn, đặc biệt là trong các lĩnh vực như may mặc, lương thực, thực phẩm, công nghiệp giải trí.

Việc bắt giữ nhà kinh doanh giàu có nhất Nga khi đó là [[Mikhail Khodorkovsky]] với các tội quy kết là gian lận và tham nhũng trong quá trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn dưới thời tổng thống [[Boris Yeltsin]] đã làm cho nhiều nhà đầu tư nước ngoài e ngại về tính ổn định của nền kinh tế Nga. Phần lớn những người giàu có nhất ở Nga hiện nay là nhờ việc mua bán các doanh nghiệp nhà nước khi đó với giá rẻ như bèo. Các quốc gia khác cũng bày tỏ sự e ngại và lo lắng với việc áp dụng "có lựa chọn" của luật pháp đối với các doanh nghiệp tư nhân.

Tuy nhiên, một số tập đoàn quốc tế đã đầu tư rất lớn vào Nga. Theo [[Quỹ tiền tệ quốc tế]] (IMF), Nga có khoảng 26 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp tích lũy của người nước ngoài trong giai đoạn 2001-2004 (trong đó 11,7 tỷ USD diễn ra trong năm 2004).

===Công nghiệp===
Theo kết quả khảo sát do Trung tâm nghiên cứu vĩ mô (CMR) của ngân hàng [[Sberbank]] của Nga công bố thì "nền tảng công nghiệp Nga hiện đã lỗi thời". Gần 60% các xí nghiệp Nga cần nâng cấp trang thiết bị trong vòng 3 năm tới để duy trì hoạt động cũng như thị phần nội địa trong lúc hàng công nghiệp Nga đã, đang và sẽ không có [[sức cạnh tranh]] trên [[thị trường thế giới]] trong [[tương lai]] gần. Có tới 36% xí nghiệp được hỏi ý kiến cho biết họ không có kế hoạch mở rộng sản xuất trong vòng 5 năm tới; 38% nói có lẽ họ sẽ mở rộng trên [[thị trường nội địa]]; 19% nhắm vào các thị trường gần là các nước thành viên Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) và chỉ có 9% có kế hoạch mở rộng kinh doanh ra thị trường thế giới trong dài hạn. Gần 83% [[xí nghiệp]] Nga được hỏi ý kiến nói họ chỉ có thể bán sản phẩm trên thị trường trong nước, trong khi 88% nói nguồn cung chủ yếu cho xí nghiệp về [[nguyên liệu]] và thiết bị là nguồn cung nội địa. Bà Nadezhda Ivanova là đồng tác giả của công trình nghiên cứu cho rằng: ''"Có một thực tế là nhiều sản phẩm của các [[doanh nghiệp]] chế tạo Nga không thể bán được ở các nước khác. [[Chất lượng]] kém của các sản phẩm này cho thấy các doanh nghiệp đó không có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới"''.<ref>[http://tamnhin.net/Phantich/12188/Vi-sao-cong-nghiep-Nga-phat-trien-tri-tre.html]</ref>

Theo [[Cơ quan thống kê Liên bang Nga]] (Rosstat), [[sản lượng công nghiệp]] Nga đã tăng trưởng ì ạch trong 4 tháng liên tiếp kể từ đầu năm 2011 đến nay và chỉ tăng có 4,1% trong tháng 5/2011 so với cùng kỳ năm ngoái. Phần lớn lĩnh vực chế tạo Nga hiện đang ở tình trạng kém phát triển và hơn 2/3 xí nghiệp được CMR khảo sát nói trang thiết bị của họ là tồi hoặc trung bình. Chỉ có 26% xí nghiệp nâng cấp trang thiết bị trong vòng 5 năm qua, trong khi 30% cho biết trang thiết bị của họ là không thay đổi kể từ trước năm 1991.<ref>[http://tamnhin.net/Phantich/12188/Vi-sao-cong-nghiep-Nga-phat-trien-tri-tre.html]</ref>
[[Image:Kusnzov2.jpg|nhỏ|Tàu sân bay [[Đô đốc Kuznetsov (tàu sân bay)|Đô đốc Kuznetsov]] của quân đội Nga.]]
Trong thời [[Chiến tranh Lạnh]], tổ hợp công nghiệp quốc phòng của [[Liên Xô]] đảm bảo duy trì nền quân sự Xô viết mạnh mẽ với nguồn ngân sách thường chiếm từ 15-25% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Liên Xô. [[Công nghiệp vũ khí]] của Nga là khu vực hiện đại nhất và nằm trong định hướng xuất khẩu của Nga. Nếu [[Trung Quốc]] và [[Ấn Độ]] thực sự vượt qua ngành công nghiệp vũ khí của Nga thì tình trạng suy giảm của công nghiệp vũ khí sẽ dẫn đến khủng hoảng [[thất nghiệp]] ở Nga và hạn chế phát triển các công nghệ đem lại lợi nhuận cao.<ref>[http://baotintuc.vn/138n20120118005632782t0/thap-ky-kho-khan-cua-nganh-cong-nghiep-vu-khi-nga.htm]</ref>

=== Năng lượng ===
{{main|Năng lượng tại Nga|Năng lượng hạt nhân tại Nga}}
[[Tập tin:BalakovoNPP turb.JPG|nhỏ|trái|300px|Turbin của [[nhà máy điện hạt nhân Balakovo]] của Nga năm 2004.]]
Nga được thừa nhận là một [[siêu cường năng lượng]]. Nước này có [[Danh sách quốc gia theo trữ lượng khí tự nhiên đã được kiểm chứng|dự trữ khí tự nhiên]] lớn nhất thế giới, [[trữ lượng dầu mỏ]] đứng thứ tám, thứ hai về [[Các vùng sản xuất than chính|trữ lượng than]]. Nga là [[Danh sách quốc gia theo xuất khẩu khí tự nhiên|nhà xuất khẩu khí tự nhiên]] và [[Danh sách quốc gia theo sản lượng khí tự nhiên|nhà sản xuất khí tự nhiên]] hàng đầu thế giới, dù thỉnh thoảng Nga và [[Ả Rập Saudi]] thay đổi vị trí về tiêu chí sau.

Nga là [[Danh sách quốc gia theo sản lượng điện|nước sản xuất điện hàng thứ 4 thế giới]] và [[Danh sách quốc gia theo sản lượng điện từ các nguồn tài nguyên có thể tái tạo|nhà sản xuất năng lượng tái tạo hàng thứ 5 thế giới]], tiêu chí sau nhờ nước này đã phát triển mạnh việc sản xuất [[thuỷ điện]]. Những [[nhà máy thuỷ điện]] lớn đã được xây dựng ở [[vùng châu Âu của Nga]] dọc theo các con sông như [[Volga]]. Vùng [[châu Á]] của Nga cũng có một số [[nhà máy thuỷ điện]] lớn, tuy nhiên, tiềm năng [[thuỷ điện]] vĩ đại của [[Siberia]] và [[Viễn Đông Nga]] phần lớn vẫn chưa được khai thác.

Nga là nước đầu tiên phát triển [[lò phản ứng hạt nhân]] dân sự và xây dựng [[Nhà máy Điện Hạt nhân Obninsk|nhà máy điện hạt nhân đầu tiên]]. Hiện tại, Nga là [[Năng lượng hạt nhân theo quốc gia|nhà sản xuất điện hạt nhân đứng thứ 4]]. [[Rosatom]] Nuclear Energy [[State Corporation]] quản lý toàn bộ [[Năng lượng hạt nhân tại Nga|các nhà máy điện hạt nhân tại Nga]]. Năng lượng hạt nhân đang phát triển nhanh chóng tại Nga, với mục tiêu tăng tổng thành phần năng lượng hạt nhân từ mức 16.9% hiện nay lên 23% vào năm 2020. Chính phủ Nga có kế hoạch chi 127 tỷ rubles ($5.42 triệu) cho một chương trình liên bang để phát triển việc sản xuất năng lượng hạt nhân thế hệ tiếp theo. Khoảng 1 nghìn tỷ ruble ($42.7 triệu) đã được chi từ ngân sách liên bang cho việc phát triển năng lượng hạt nhân và phát triển công nghiệp trước năm 2015.<ref>RIA Novosti</ref> Nga vẫn là một trong những nước đứng đầu thế giới về [[công nghệ hạt nhân]] và là một thành viên của dự án [[lò phản ứng hạt nhân]] quốc tế.

=== Khoa học và kỹ thuật ===
{{main|Viện Hàn lâm Khoa học Nga|Cơ quan Vũ trụ Liên bang Nga|Liên đoàn Hàng không Thống nhất|Rosatom|Rosoboronexport|Danh sách nhà phát minh Nga|Danh sách nhà thám hiểm Nga|Danh sách nhà du hành vũ trụ Nga}}
[[Image:Aeroflot Ilyushin Il-96-300 cockpit Petrov.jpg|300px|nhỏ|350px|trái|Buồng lái máy bay IL-96 300 hiện đại của Nga]]
Từ đầu thế kỷ 18 [[Những cuộc cải cách của Pyotr I của Nga|những cuộc cải cách của Pyotr Đại đế]] (người sáng lập [[Viện Hàn lâm Khoa học Nga]] và [[Đại học Nhà nước Saint Petersburg]]) và những đóng góp của những người từng tốt nghiệp tại đó như [[học giả]] [[Mikhail Lomonosov]] (người sáng lập [[Đại học Quốc gia Moscow]]) đã giúp nước Nga có được sự phát triển mạnh trong khoa học và phát minh. Trong thế kỷ 19 và 20 nước này đã sản sinh ra một lượng lớn các [[:Category:Nhà khoa học Nga|nhà khoa học]] [[Danh sách nhà phát minh Nga|và nhà phát minh]]. [[Nikolai Lobachevsky]], một ''[[Copernicus]] trong [[hình học]]'', đã phát triển [[hình học phi Euclid]]. [[Dmitri Mendeleev]] phát minh ra [[Bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học]], khuôn khổ chính của [[hoá học]] hiện đại. [[Gleb Kotelnikov]] phát minh ra [[dù]] [[ba lô]], trong khi [[Evgeniy Chertovsky]] phát minh ra [[quần áo điều áp]]. [[Pavel Yablochkov]] và [[Alexander Lodygin]] là những nhà tiên phong vĩ đại trong [[kỹ thuật điện]] và là những nhà phát minh của những [[đèn điện]] đầu tiên. [[Alexander Stepanovich Popov|Alexander Popov]] là một trong những [[Phát minh radio|người phát minh radio]], trong khi [[Nikolai Basov]] và [[Alexander Prokhorov]] là hai người đồng phát minh ra tia [[laser]] và [[maser]]. [[Igor Tamm]], [[Andrei Sakharov]] và [[Lev Artsimovich]] đã phát triển ý tưởng [[tokamak]] để kiểm soát [[phản ứng tổng hợp hạt nhân]] và tạo ra nguyên mẫu đầu tiên của nó, sau này dẫn tới dự án [[ITER]]. Nhiều nhà khoa học và phát minh nổi tiếng của Nga là [[người di cư]], như [[Igor Sikorsky]] và [[Vladimir Zworykin]], và nhiều nhà khoa học nước ngoài cũng đã làm việc ở Nga một thời gian dài như [[Leonard Euler]] và [[Alfred Nobel]].

Các thành tựu lớn nhất của Nga thuộc lĩnh vực [[công nghệ vũ trụ]] và [[thám hiểm vũ trụ]]. [[Konstantin Tsiolkovsky]] là cha đẻ của lý thuyết hàng không vũ trụ<ref>[http://www.aiaa.org/index.cfm American Institute of Aeronautics and Astronautics - Home Page<!-- Bot generated title -->]</ref>. Các tác phẩm của ông đã tạo cảm hứng cho những kỹ sư tên lửa hàng đầu của [[Liên xô]] như [[Sergey Korolyov]], [[Valentin Glushko]] và nhiều người khác đóng góp vào sự thành công của [[Chương trình Vũ trụ Liên xô]] ở những giai đoạn đầu của cuộc [[Chạy đua vào không gian]]. năm 1957 [[vệ tinh nhân tạo]] đầu tiên bay quanh Trái đất, ''[[Sputnik 1]]'', được phóng lên; năm 1961 ngày [[Ngày Hàng không Vũ trụ|12 tháng 4]] chuyến bay đầu tiên của loài người vào vũ trụ đã được [[Yuri Gagarin]] thực hiện thành công; và nhiều người Liên xô và Nga khác đã thực hiện [[Biểu thời gian thám hiểm vũ trụ|kỷ lục thám hiểm vũ trụ]]. Hiện nay Nga là nước phóng vệ tinh lớn nhất <ref>[<!--http://www.economist.com/daily/chartgallery/displayStory.cfm?story_id=14256807&source=features_box4-->http://www.economist.com/node/14256807?story_id=14256807&source=features_box4 Space industry: Do we have lift-off? | The Economist<!-- Bot generated title -->]</ref> và cũng là nước duy nhất cung cấp các dịch vụ [[du lịch vũ trụ]].

[[Tập tin:Soyuz tm-31 transported to launch pad.jpg|nhỏ|phải|Soyuz TMA-2 launch.jpg|[[Soyuz TMA-2]] đang được chuyển tới bệ phóng, mang theo phi đoàn thường trực đầu tiên lên [[Trạm Vũ trụ Quốc tế]].]]
Các công nghệ khác, nơi người Nga có lịch sử phát triển, gồm [[công nghệ hạt nhân]], sản xuất [[máy bay]] và [[công nghệ quốc phòng]]. Việc xây dựng [[nhà máy điện hạt nhân]] đầu tiên cùng [[Công nghệ lò phản ứng hạt nhân|các lò phản ứng hạt nhân đầu tiên]] cho [[tàu ngầm]] và [[Tàu biển dùng năng lượng hạt nhân|tàu hoạt động trên mặt nước]] nằm dưới sự chỉ đạo của [[Igor Kurchatov]]. Một số nhà kỹ thuật hàng không nổi bật của Liên xô, có cảm hứng từ các tác phẩm lý thuyết của [[Nikolai Zhukovsky]], đã giám sát việc chế tạo hàng chục model máy bay quân sự và dân sự và đã thành lập một số ''KBs'' (''Phòng thiết kế'') hiện là thành phần chủ yếu của [[Liên đoàn Hàng không Hợp nhất]]. Các máy bay nổi tiếng của Nga gồm máy bay chở khách [[siêu âm]] đầu tiên [[Tupolev Tu-144]] của [[Alexei Tupolev]], loạt [[máy bay chiến đấu]] [[MiG]] của [[Artem Mikoyan]] và [[Mikhail Gurevich]], và loạt máy bay [[Sukhoi|Su]] của [[Pavel Sukhoi]] cùng những người kế tục ông. Những xe tăng chiến trường nổi tiếng của Nga gồm [[T-34]], thiết kế tăng tốt nhất của [[Thế chiến II]],<ref>George Parada (n.d.), “[<!--http://www.achtungpanzer.com/t34.htm-->http://www.achtungpanzer.com/panzerkampfwagen-t-34r-soviet-t-34-in-german-service.htm Panzerkampfwagen T-34(r)]” at ''Achtung Panzer!'' website, retrieved on November 17, 2008.</ref> và các xe tăng khác thuộc loạt T-. Súng [[AK-47]] và [[AK-74]] của [[Mikhail Kalashnikov]] là loại [[súng tấn công]] được sử dụng rộng rãi nhất tên thế giới - tới mức các khẩu súng thuộc kiểu AK đã được chế tạo nhiều hơn tất cả các loại súng tấn công khác cộng lại.<ref name="poyer">Poyer, Joe. ''The AK-47 and AK-74 Kalashnikov Rifles and Their Variations''. North Cape Publications. 2004.</ref><ref name="weaponomics">{{cite web | title = Weaponomics: The Economics of Small Arms | url = http://www.csae.ox.ac.uk/workingpapers/pdfs/2006-13text.pdf }}</ref> Với những vũ khí đó cộng với các loại vũ khí khác, từ lâu Nga đã là một trong [[Công nghiệp vũ khí#Nhà xuất khẩu vũ khí hàng đầu thế giới|những nhà cung cấp vũ khí hàng đầu]], chiếm khoảng 30% doanh số vũ khí thế giới<ref name="abc.net.au"/> và xuất khẩu vũ khí tới khoảng 80 quốc gia.<ref name="RIA Novosti"/> Tuy nhiên theo [[Tư lệnh lục quân Nga]] [[Alexander Postnikov]] thì vũ khí và trang thiết bị quân sự do các nhà máy quốc phòng của Nga sản xuất trang bị cho lục quân [[lạc hậu]] hơn nhiều so với hệ thống tương tự của Tổ chức [[Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương]] (NATO) và thậm chí thua cả [[Trung Quốc]].<ref>[http://baodatviet.vn/Home/thegioi/Vu-khi-cua-luc-quan-Nga-lac-hau-hon-NATO-va-Trung-Quoc/20113/135731.datviet]</ref>
[[Tập tin:Sukhoi Superjet 100 prototype.jpg|nhỏ|180px|trái|[[Sukhoi Superjet 100]] là máy bay dân dụng mới nhất do ngành công nghiệp máy bay Nga thiết kế, phát triển và liên kết sản xuất với phương Tây.]]
Tuy nhiên, dù có những thành tựu công nghệ đó, từ thời [[trì trệ Brezhnev]] Nga đã tụt hậu khá nhiều so với [[phương Tây]] trong một số ngành kỹ thuật, đặc biệt là trong [[tiết kiệm năng lượng]] và sản xuất [[hàng tiêu dùng]]. Cuộc khủng hoảng hồi những năm 1990 đã khiến khoản hỗ trợ cho khoa học của nhà nước sụt giảm mạnh. Nhiều nhà khoa học và những người có trình độ của Nga đã đi sang [[châu Âu]] hay [[Hoa Kỳ]]; cuộc di cư này được gọi là một cuộc [[chảy máu chất xám]]. Những năm 2000, với làn sóng bùng nổ kinh tế, tình hình khoa học và công nghệ ở Nga đã được cải thiện, và chính phủ đã tung ra một chiến dịch với mục tiêu [[hiện đại hoá]] và [[cải tiến]]. [[Tổng thống Nga]] [[Dmitry Medvedev]] đã đưa ra 5 ưu tiên hàng đầu cho việc phát triển công nghệ của đất nước: [[hiệu quả năng lượng]], [[công nghệ thông tin|IT]] (gồm cả các sản phẩm thông thường và các sản phẩm kết hợp với [[công nghệ vũ trụ]]), [[năng lượng hạt nhân]] và [[dược]].<ref>http://en.rian.ru/russia/20091011/156428675.html [[RIA Novosti]]: Medvedev outlines priorities for Russian economy's modernization</ref> Một số thành tựu đã xuất hiện, với việc nước Nga đã hầu như hoàn thành [[GLONASS]], [[hệ thống hoa tiêu vệ tinh]] duy nhất ngoài [[GPS]] của [[Mỹ]], và Nga là nước duy nhất xây dựng [[Nhà máy điện hạt nhân nổi của Nga|nhà máy điện hạt nhân di động]].

Mặc dù là nhà xuất khẩu vũ khí hàng đầu thế giới và đang đạt được những tiến bộ về phần mềm, nhưng các sản phẩm khác của nga lại thiếu tính cạnh tranh trên trường quốc tế. Doanh thu từ dầu mỏ và khí đốt đóng góp tới 25% GDP của Nga. Cải thiện về năng suất sẽ chủ yếu xuất phát từ công nghệ mới và đầu tư vốn hiệu quả nhưng cả hai điều này Nga đều đang thiếu.<ref>[http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2012-01-13-su-noi-len-cua-cac-timbis]</ref> Trong báo cáo trên của IBM, Nga chỉ đứng thứ 59 trong số 70 quốc gia về phát triển doanh nghiệp điện tử, thứ 98 trong số 134 quốc gia về sử dụng công nghệ mới nhất trong các doanh nghiệp.<ref>[http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2012-01-13-su-noi-len-cua-cac-timbis]</ref>

== Nhân khẩu ==
{{Bài chính|Nhân khẩu Nga}}
<div style="font-size: 90%">
{| class="wikitable" style="border:1px black; float:left; margin-left:1em;"
! style="background:#F99;" colspan="2"|Thành phần sắc tộc (2002)<ref>{{cite web|url=http://www.perepis2002.ru/index.html?id=87|title=Russian Census of 2002|work=4.1. National composition of population|publisher=Federal State Statistics Service|accessdate=2008-01-16}}</ref>
|-
|[[Người Nga]]||79.8%
|-
|[[Tatar]]||3.8%
|-
|[[Người Ukraina]]||2.0%
|-
|[[Bashkir]]||1.2%
|-
|[[Người Chuvash|Chuvash]]||1.1%
|-
|[[Người Chechen|Chechen]]||0.9%
|-
|[[Người Armenia]]||0.8%
|-
|Khác/không xác định||10.4%
|}
</div>

[[Tập tin:Population of Russia.PNG|nhỏ|phải|Dân số (đơn vị triệu người) 1950 – 1991 của [[Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga]] trong [[Liên xô]], 1991 – tháng 1 năm 2009 của Liên bang Nga.<ref name="gks">{{cite web|title=Demographics|publisher=Federal State Statistics Service|url=http://www.gks.ru/bgd/free/b09_00/IssWWW.exe/Stg/d01/7-0.htm|accessdate=2009-02-21}}</ref>]]
Liên bang Nga là một [[xã hội đa sắc tộc]] đa dạng, là nơi sinh sống của 160 nhóm sắc tộc và người bản xứ khác nhau.<ref>{{cite web|title=1 June 2007: A great number of children in Russia remain highly vulnerable|publisher=United Nations Children's Fund|url=<!--http://www.unicef.org/russia/media_6762.html-->http://www.unicef.org/ceecis/media_6785.html|accessdate=2007-12-27}}</ref> Dù dân số Nga khá lớn, mật độ dân số thấp bởi diện tích vĩ đại của nước này.<ref>Xem ''[[Danh sách quốc gia theo mật độ dân số]]''</ref> Dân số tập trung đông nhất tại [[vùng châu Âu của Nga]], gần [[dãy Ural]], và ở phía tây nam [[Siberia]]. 73% dân số sống tại các khu vực đô thị.<ref>{{cite web|title=Resident population|publisher=Federal State Statistics Service|url=http://www.gks.ru/free_doc/2007/b07_12/05-01.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref> Theo những ước tính sơ bộ, dân số sống thường xuyên tại Liên bang Nga ở thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 2009 là 141,903,979 người. Năm 2008, dân số giảm 121,400 người, hay -0.085% (năm 2007 – 212,000 người, hay 0.15% và năm 2006 – 532,600 người, hay 0.37%). Trong năm 2008 nhập cư tiếp tục gia tăng ở mức độ 2.7% với 281,615 người tới Nga, trong số đó 95% tới từ các quốc gia thuộc [[Cộng đồng các quốc gia độc lập|CIS]], đại đa số là người Nga hay [[tiếng Nga|người nói tiếng Nga]].<ref name=demo>{{cite web|accessdate=2008-03-05|title=Demography|publisher=Federal State Statistics Service|url=http://www.gks.ru/bgd/free/b08_00/IssWWW.exe/Stg/d01/7-0.htm}}</ref><ref name="gks"/> Số lượng người Nga di cư đã giảm 16% xuống còn 39,508 người, trong số đó 66% tới các quốc gia thuộc CIS. Ước tính có 10 triệu người nhập cư bất hợp pháp từ các quốc gia [[Các nước Cộng hoà thuộc Liên xô|Xô viết cũ]] ở Nga.<ref>{{cite web|title=Russia cracking down on illegal migrants|publisher=International Herald Tribune|date=15 January 2007|url=<!--http://www.iht.com/articles/2007/01/15/news/migrate.php-->http://www.nytimes.com/2007/01/15/world/europe/15iht-migrate.4211072.html|accessdate =}}</ref> Khoảng 116 triệu người sắc tộc Nga sống ở Nga<ref>[http://demoscope.ru/weekly/ssp/rus_nac_02.php Ethnic groups in Russia], 2002 census, ''Demoscope Weekly''. Retrieved 5 February 2009</ref> và khoảng 20 triệu người nữa sống tại các nước cộng hoà cũ của Liên xô, chủ yếu tại [[Ukraina]] và [[Kazakhstan]].<ref>[http://news.bbc.co.uk/2/hi/asia-pacific/4420922.stm Russians left behind in Central Asia], BBC News, November 23, 2005.</ref>

Số người nói tiếng Nga đông nhất năm 1991 ở mức 148,689,000 triệu người, nhưng bắt đầu sụt giảm mạnh từ đầu những năm 90.<ref>{{cite web|url=http://countrystudies.us/russia/29.htm|publisher=Library of Congress|title=Demographics|accessdate=2008-01-16}}</ref> Sự sụt giảm đã chậm lại tới mức gần ồn định trong những năm gần đây vì [[tỷ lệ tử]] giảm, [[tỷ lệ sinh]] tăng và tăng [[nhập cư]]. Số người chết trong năm 2008 là 363,500 lớn hơn số sinh. Nó đã giảm từ 477,700 năm 2007, và 687,100 năm 2006.<ref name=demo/><ref name="gks"/> Theo dữ liệu được Sở Thống kê Nhà nước Liên bang Nga xuất bản, tỷ lệ tử của Nga đã giảm 4% trong năm 2007, so với năm 2006, ở mức khoảng 2 triệu người chết, trong khi tỷ lệ sinh tăng 8.3% hàng năm lên ước tính 1.6 triệu ca sinh.<ref name=ri>{{cite web|url=http://en.rian.ru/russia/20080221/99803097.html|title=Russia's population down 0.17% in 2007 to 142 mln|publisher=RIA Novosti|accessdate=2008-03-11}}</ref> Các nguyên nhân chủ yếu khiến dân số Nga giảm sút là tỷ lệ tử cao và tỷ lệ sinh thấp. Tuy tỷ lệ sinh của Nga ngang bằng với các quốc gia châu Âu (12.1 sinh trên 1000 người năm 2008<ref name="gks"/> so với mức trung bình của [[Liên minh châu Âu]] 9.90 trên 1000)<ref>{{cite web|last=The World Factbook|title=Rank Order&nbsp;— Birth rate|publisher=Central Intelligence Agency|url=https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/rankorder/2054rank.html|accessdate=2009-04-25}}</ref> dân số của họ giảm với tỷ lệ lớn hơn bất kỳ một quốc gia châu Âu nào khác bởi tỷ lệ tử cao hơn nhiều (năm 2008, tỷ lệ tử của Nga là 14.7 trên 1000 người<ref name="gks"/> so sánh với mức trung bình của Liên minh châu Âu 10.28 trên 1000).<ref>{{cite web|last=The World Factbook|title=Rank Order&nbsp;— Death rate|publisher=Central Intelligence Agency|url=https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/rankorder/2066rank.html|accessdate=2009-04-25}}</ref> Tuy nhiên, Bộ Y tế và Vấn đề Xã hội Nga đã dự đoán tới năm 2011, tỷ lệ tử của nước này sẽ cân bằng với tỷ lệ sinh vì số sinh gia tăng và số tử giảm.<ref>{{cite web|url=http://en.rian.ru/russia/20080123/97616414.html|title=Russia's birth, mortality rates to equal by 2011 - ministry|publisher=RIA Novosti|accessdate=2008-02-10}}</ref>

=== Ngôn ngữ ===
{{main|Tiếng Nga|Các ngôn ngữ của Nga}}
[[Tập tin:RussianLanguageMap.png|nhỏ|Các quốc gia có sử dụng [[tiếng Nga]].]]
160 nhóm sắc tộc của Nga sử dụng khoảng 100 ngôn ngữ.<ref name=britannica/> Theo cuộc điều tra dân số năm 2002, 142.6 triệu người nói tiếng Nga, tiếp sau là [[tiếng Tatar]] với 5.3 triệu và [[tiếng Ukraina]] với 1.8 triệu.<ref>{{cite web|url=http://www.perepis2002.ru/index.html?id=87|title=Russian Census of 2002|work=4.3. Population by nationalities and knowledge of Russian; 4.4. Spreading of knowledge of languages (except Russian)|publisher=Federal State Statistics Service|accessdate=2008-01-16}}</ref> Tiếng Nga là ngôn ngữ chính thức duy nhất của nhà nước, nhưng Hiến pháp trao cho [[Các nước cộng hoà thuộc Nga|các nước cộng hoà]] riêng biệt quyền đưa ngôn ngữ bản địa của mình trở thành ngôn ngữ đồng chính thức bên cạnh tiếng Nga.<ref>{{cite web|title=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 68, §2)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-04.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref> Dù có sự phân tán mạnh, tiếng Nga là thuần nhất trên toàn bộ nước Nga. Tiếng Nga là ngôn ngữ được sử dụng nhiều nhất nếu tính theo diện tích địa lý trên lục địa Âu Á và cũng là [[Các ngôn ngữ Slavơ|ngôn ngữ Slavơ]] được sử dụng nhiều nhất.<ref name=toronto>{{cite web|title=Russian|publisher=University of Toronto|url=http://learn.utoronto.ca/Page625.aspx|accessdate=2007-12-27}}</ref> Tiếng Nga thuộc [[Các ngôn ngữ Ấn-Âu|ngữ hệ Ấn Âu]] và là một trong những thành viên còn tồn tại của [[các ngôn ngữ Đông Slavơ]]; các ngôn ngữ khác gồm [[tiếng Belarus]] và [[tiếng Ukraina]] (và có lẽ cả [[tiếng Rusyn]]). Những ví dụ văn bản sử dụng [[chữ Đông Slavơ Cổ]] (''Nga Cổ'') được chứng minh có từ thế kỷ thứ 10 trở về sau.<ref>{{cite web|last=Microsoft Encarta Online Encyclopedia 2007|title=Russian language|url=http://encarta.msn.com/encyclopedia_761572449/Russian_Language.html|accessdate=2007-12-27}}{{dead link|date=tháng 8, 2011}}</ref>

Theo người Nga thì hơn một phần tư tác phẩm khoa học của thế giới được xuất bản bằng tiếng Nga. Tiếng Nga cũng được sử dụng làm công cụ mã hoá và lưu trữ văn minh thế giới—60–70% của mọi thông tin trên thế giới được xuất bản bằng tiếng Anh và tiếng Nga.<ref name=lomonosov>{{cite web|title=Russian language course|publisher=Russian Language Centre, Moscow State University|url=<!--http://www.rlcentre.com/russian-language-course.shtml-->http://www.mgu-russian.com/programms/russian-language-course/en|accessdate=2007-12-27}}</ref> Tiếng Nga cũng là một trong sáu [[Liên hiệp quốc#Các ngôn ngữ|ngôn ngữ chính thức]] của [[Liên hiệp quốc]].

=== Giáo dục ===
{{main|Giáo dục tại Nga}}


Nga có một hệ thống [[giáo dục miễn phí]] đảm bảo cho mọi công dân theo [[Hiến pháp Nga|hiến pháp]],<ref>{{cite web|title=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 43 §1)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-03.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref> và có tỷ lệ [[biết chữ]] 99.4%. Đầu vào [[cao học]] có tính cạnh tranh rất cao.<ref>{{cite web|author=Smolentseva, A|title=Bridging the Gap Between Higher and Secondary Education in Russia|url=http://www.bc.edu/bc_org/avp/soe/cihe/newsletter/News19/text13.html|accessdate=2007-12-27}}</ref> Như một kết quả của sự ưu tiên hàng đầu cho khoa học và kỹ thuật trong giáo dục, y tế, toán học, khoa học và khoa học vũ trụ Nga nói chung có mức độ phát triển cao.<ref>{{cite web|title=Russia Country Guide|publisher=EUbusiness.com|url=http://www.eubusiness.com/Russia/russia-country-guide/|accessdate=2007-12-27}}</ref><ref>{{cite web|publisher=U.S. Department of State|title= Background Note: Russia|url=http://www.state.gov/r/pa/ei/bgn/3183.htm|accessdate=2008-01-02}}</ref>
Nga có một hệ thống [[giáo dục miễn phí]] đảm bảo cho mọi công dân theo [[Hiến pháp Nga|hiến pháp]],<ref>{{cite web|title=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 43 §1)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-03.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref> và có tỷ lệ [[biết chữ]] 99.4%. Đầu vào [[cao học]] có tính cạnh tranh rất cao.<ref>{{cite web|author=Smolentseva, A|title=Bridging the Gap Between Higher and Secondary Education in Russia|url=http://www.bc.edu/bc_org/avp/soe/cihe/newsletter/News19/text13.html|accessdate=2007-12-27}}</ref> Như một kết quả của sự ưu tiên hàng đầu cho khoa học và kỹ thuật trong giáo dục, y tế, toán học, khoa học và khoa học vũ trụ Nga nói chung có mức độ phát triển cao.<ref>{{cite web|title=Russia Country Guide|publisher=EUbusiness.com|url=http://www.eubusiness.com/Russia/russia-country-guide/|accessdate=2007-12-27}}</ref><ref>{{cite web|publisher=U.S. Department of State|title= Background Note: Russia|url=http://www.state.gov/r/pa/ei/bgn/3183.htm|accessdate=2008-01-02}}</ref>
Dòng 81: Dòng 366:


=== Y tế ===
=== Y tế ===
{{main article|Y tế tại Nga}}
[[Image:Imma9.png|nhỏ|Một phòng khám tại Nga năm 2008]]
Hiến pháp Nga đảm bảo [[chăm sóc y tế phổ thông]], miễn phí cho mọi công dân.<ref>{{cite web|title=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 41)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-03.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref> Tuy nhiên, trên thực tế chăm sóc sức khoẻ miễn phí bị giới hạn một phần bởi chế độ [[propiska]].<ref>{{cite web|title=Russian ombudsman about propiska restrictions in modern Russia|url=http://www.newsru.com/russia/06jun2007/lukin.html|accessdate=2008-07-23}}</ref><ref>{{cite web|title=Residency Restrictions in Moscow by Brad K. Blitz|url=http://zakirov.ru/Citizenship_Studies.pdf|accessdate=2008-07-23}}</ref>
Tuy Nga có số cơ sở y tế, bệnh viện và nhân viên y tế lớn hơn hầu hết các quốc gia khác khi tính [[theo đầu người]],<ref>{{cite book|author=Field, M G|title=The health and demographic crisis in post-Soviet Russia: a two-phase development in "Russia’s Torn Safety Nets", edited by Field M. G., Twigg J. L. (eds)|publisher=St. Martin’s Press|location=2000:11–42}}</ref><ref>{{cite web|title=Highlights on Health in the Russian Federation|publisher =World Health Organization|year=1999|url=http://www.euro.who.int/document/e72504.pdf|accessdate=2007-12-27|format=PDF}}</ref> từ khi [[Liên xô]] sụp đổ sức khoẻ dân chúng Nga đã suy giảm nghiêm trọng vì những thay đổi kinh tế, xã hội và phong cách sống.<ref>{{cite web|author=Leonard, W R|title=Declining growth status of indigenous Siberian children in post-Soviet Russia|month=April|year=2002|url=http://findarticles.com/p/articles/mi_qa3659/is_200204/ai_n9037764|accessdate=2007-12-27}}</ref> Ở thời điểm năm 2007, [[Tuổi thọ người|tuổi thọ]] trung bình tại Nga là 61.5 năm cho nam và 73.9 năm cho nữ.<ref>{{cite web|url=http://www.duma-er.ru/news/29056|publisher=United Russia|title=Продолжительность жизни россиян возросла с 2005 по 2007 г на 2,4 года, до 67,7 года|accessdate=2008-05-01}}</ref> Tổng mức tuổi thọ trung bình của người Nga là 67.7 khi sinh, kém 10.8 năm so với con số tổng thể của cả Liên minh châu Âu.<ref>{{cite web|url=https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/ee.html|publisher=Central Intelligence Agency|title=European Union|accessdate=2008-01-20}}</ref> Yếu tố lớn nhất dẫn tới mức tuổi thọ khá thấp của nam là tỷ lệ tử cao trong nam giới thuộc tầng lớp lao động vì những nguyên nhân có thể ngăn chặn (như, nhiễm độc rượu, stress, tai nạn giao thông, tội ác bạo lực). Tỷ lệ tử trong nam giới Nga đã tăng 60% từ năm 1991, cao hơn bốn lần của châu Âu.<ref name=heart>{{cite web|title=Heart disease kills 1.3 million annually in Russia&nbsp;— chief cardiologist|publisher=RIA Novosti|url=http://en.rian.ru/russia/20070214/60721668.html|accessdate=2007-12-27 }}</ref> Vì có sự khác biệt lớn giữa tuổi thọ của nam và nữ và bởi hiệu ứng còn lại từ [[Thế chiến II]], theo đó Nga [[Thương vong trong Thế chiến II|có số thiệt hại nhân mạng]] cao hơn bất kỳ nước nào trên thế giới, sự [[mất cân bằng giới tính]] vẫn còn lại tới ngày này và có 0.859 trên một nữ.

[[File:Газель МЧС.jpg|nhỏ|280px|trái|Xe cấp cứu do hãng xe Nga GAZelle chế tạo]]
Bệnh tim chiếm 56.7% tổng số tử vong, với khoảng 30% liên quan tới những người đang ở độ tuổi lao động. Một cuộc nghiên cứu cho thấy rượu chịu trách nhiệm cho hơn một nửa số tử vong (52%) của người dân Nga trong độ tuổi từ 15 tới 54 từ năm 1990 tới năm 2001. Với cùng mô hình nhân khẩu này, mức tử của toàn bộ thế giới vì rượu là 4%.<ref>Burlington Free Press, June 26, 2009, page 2A, "Study blames alcohol for half Russian deaths"</ref> Khoảng 16 triệu người Nga mắc các bệnh tim mạch, khiến Nga đứng hàng thứ hai thế giới, sau [[Ukraina]], trong lĩnh vực này.<ref name=heart/> Các tỷ lệ tử bởi giết người, tự tử và ung thư cũng đặc biệt cao.<ref name=cbs>{{cite web|title=Corruption Pervades Russia's Health System|publisher=CBS News|url=http://www.cbsnews.com/stories/2007/06/28/world/main2992334.shtml|accessdate=2007-12-27}}</ref> 52% nam và 15% nữ hút thuốc, hơn 260,000 nhân mạng mất đi hàng năm vì sử dụng thuốc lá.<ref name=smokingria>{{cite web|title=Third of Russians smoke, but half welcome public smoking ban|publisher=RIA Novosti|url=http://en.rian.ru/russia/20070221/61054065.html|accessdate=2007-12-27}}</ref> HIV/AIDS, rõ ràng không tồn tại trong thời kỳ Xô viết, đã nhanh chóng lan tràn sau khi Liên xô sụp đổ, chủ yếu bởi sự gia tăng chóng mặt nạn tiêm chích ma tuý.<ref>{{cite web|title=HIV/AIDS in the Russian Federation|publisher=The World Bank|url=http://web.worldbank.org/WBSITE/EXTERNAL/COUNTRIES/ECAEXT/EXTECAREGTOPHEANUT/EXTECAREGTOPHIVAIDS/0,,contentMDK:20320143~menuPK:616427~pagePK:34004173~piPK:34003707~theSitePK:571172,00.html|accessdate=2007-12-27}}</ref> Theo các thống kê chính thức, hiện có hơn 364,000 người Nga có HIV, nhưng những chuyên gia độc lập coi con số thực lớn hơn rất nhiều.<ref>{{cite web|title=Russian regional HIV vaccine center seeks $40–50 mln from budget|publisher=RIA Novosti|url=http://en.rian.ru/russia/20070206/60289838.html|accessdate=2007-12-27}}</ref> Trong những nỗ lực ngày càng gia tăng để chiến đấu với căn bệnh này, chính phủ đã tăng chi tiêu vào các biện pháp kiểm soát HIV gấp 20 lần năm 2006, và ngân sách năm 2007 đã tăng gấp đôi ngân sách năm 2006.<ref>{{cite web|url=http://www.unaids.org/en/CountryResponses/Countries/russian_federation.asp Russian Federation AIDS information|title=Russian Federation|accessdate=2008-03-11|publisher=UNAIDS: The Joint United Nations Programme on HIV/AIDS}}</ref> Từ khi Liên xô tan rã, cũng có sự gia tăng nhanh chóng về số ca và số tử vong vì bệnh lao, và bệnh này lan đặc biệt nhanh trong cộng đồng tù nhân.<ref>{{cite web|title=119,000 TB cases in Russia&nbsp;— health official|publisher=RIA Novosti|url=http://en.rian.ru/russia/20060127/43221133.html|accessdate=2007-12-27}}</ref>

Trong một nỗ lực nhằm cứu vãn cuộc khủng hoảng nhân khẩu tại Nga, chính phủ hiện đang áp dụng một số chương trình được thiết kế để gia tăng [[tỷ lệ sinh]] thu hút thêm nhiều người nhập cư. Chính phủ đã tăng gấp đôi khoản trợ cấp hàng tháng cho trẻ em và cấp khoản chi một lần 250,000 Rubles (khoảng US$10,000) cho phụ nữ sinh đứa con thứ hai từ năm 2007.<ref>{{cite web|title=Country Profile: Russia|publisher=[[Library of Congress]]—Federal Research Division|month=October|year=2006|url=http://lcweb2.loc.gov/frd/cs/profiles/Russia.pdf|accessdate=2007-12-27|format=PDF}}</ref> Năm 2007, Nga có tỷ lệ sinh lớn nhất từ khi Liên xô tan rã.<ref>{{cite web|url=http://economictimes.indiatimes.com/News/International_Business/Russian_policies_ignite_unprecedented_birth_rate_in_2007/articleshow/2750305.cms|publisher=The Economic Times|title=Russian policies ignite unprecedented birth rate in 2007|accessdate=2008-03-11}}</ref> Phó thủ tướng thứ nhất cũng đã nói khoảng 20 tỷ Ruble (khoảng US$1 triệu) sẽ được đầu tư vào các trung tâm chăm sóc tiền sinh sản tại Nga trong năm 2008–2009. Nhập cư ngày càng được coi là cần thiết để duy trì mức độ dân số quốc gia.<ref>{{cite web|title=United Nations Expert Group Meeting On International Migration and Development|publisher=Population Division; Department of Economic and Social Affairs; United Nations Secretariat|date=6–8 July 2005|url=http://www.un.org/esa/population/meetings/ittmigdev2005/P11_Rybakovsky&Ryazantsev.pdf|accessdate=2007-12-27|format=PDF}}</ref>

== Văn hóa ==
{{chính|Văn hóa Nga}}

=== Ẩm thực ===
Ẩm thực đóng vai trò rất quan trọng trong [[xã hội Nga]].
Những ảnh hưởng của phương Tây đang có tác động đáng kể đến
thói quen ăn uống và khẩu vị của người dân, khi các hãng McDonalds
phát triển tràn lan, và các quán cà phê theo phong cách [[Paris]]
xuất hiện trên các lề phố [[Moscow]] hay [[St.Petersburg]]. Tuy nhiên,
những món ăn truyền thống và các đặc sản của Nga như rượu [[vodka]]
hay bánh mì "karavai" vẫn giữ nguyên tầm quan trọng của chúng trong
các bữa tiệc hay lễ lớn của Nga.<ref>Russian Cuisine by Ruth Jenkins,
page 48</ref>

Vào mùa đông, [[nhiệt độ]] có thể xuống tới -20&nbsp;°C tại thủ đô [[Moscow]],
vì thế, các thức ăn béo, giàu năng lượng như [[bánh mì]], trứng, [[bơ]] hay
[[sữa]] là rất cần thiết. Ngoài ra còn có những món đặc sản đặc biệt như
[[schi]] (súp thịt bò và rau cải) hay [[borssh]] (súp củ cải đỏ với thịt lợn). Đôi
khi người ta cũng ăn [[khoai tây]] nghiền, rán vào cuối bữa hoặc [[bliny]], một loại
[[bánh kếp]] ăn kèm với [[mật ong]] hoặc [[Trứng (sinh học)|trứng cá]].

Ngoài thức ăn, người Nga còn có nhiều đồ uống nổi tiếng trên thế giới như rượu [[vodka]]
thường được làm từ [[lúa mạch đen]] hay [[lúa mỳ]]. Đôi khi nó còn được pha thêm
[[Hạt tiêu|tiêu]], [[dâu tây|dâu]] hay [[chanh]]. Một đồ uống nổi tiếng khác là [[sbiten]],
được làm từ mật ong và thêm một chút hương liệu khác như [[dâu tây|dâu]]. [[Trà|Chè]] cũng là
một thứ đồ uống nổi tiếng khác. Nó là một loại đồ uống truyền thống và đôi khi cũng
được uống kèm [[sữa]].

=== Tôn giáo ===
{{main|Tôn giáo tại Nga}}
[[Tập tin:Moscow - Cathedral of Christ the Saviour.jpg|nhỏ|đứng|trái|180px|Một biểu tượng của sự phục hưng tôn giáo Nga, [[Thánh đường Đấng Ki-tô Cứu thế (Moscow)]], đã bị phá bỏ thời Xô viết được xây dựng lại năm 1990–2000 ([http://www.youtube.com/watch?v=2scpPh7yJGM Watch]).]]
[[Cơ Đốc giáo]], [[Hồi giáo]], [[Do Thái giáo]] và [[Phật giáo]] là các tôn giáo truyền thống của Nga, được cho là một phần của "di sản lịch sử" Nga trong một điều luật được thông qua năm 1997.<ref>{{cite web|author=Bell, I|title=Eastern Europe, Russia and Central Asia|url=http://books.google.com/books?id=EPP3ti4hysUC&pg=PA47|accessdate=2007-12-27}}</ref>
Những con số ước tính về các tín đồ rất khác biệt tuỳ theo các nguồn, và một số báo cáo đưa ra con số người vô thần ở Nga là 16–48% dân số.<ref>{{cite book|author=Zuckerman, P|title=Atheism: Contemporary Rates and Patterns, chapter in The Cambridge Companion to Atheism, ed. by Michael Martin|publisher=Cambridge University Press|year=2005|isbn=}}</ref> [[Chính thống giáo Nga]] là tôn giáo thống trị ở Nga.<ref name=relig>{{cite web|title=Religion In Russia|publisher=Embassy of the Russian Federation|url=http://www.russianembassy.org/RUSSIA/religion.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref> 95% xứ đạo có đăng ký thuộc Giáo hội Chính thống Nga trong khi có một số Giáo hội Chính thống nhỏ hơn. Tuy nhiên, đa số tín đồ Chính thống không thường xuyên tới nhà thờ. Tuy thế, Nhà thờ được cả các tín đồ và người vô thần kính trọng và coi nó là một biểu tượng của di sản và văn hoá Nga.<ref name=encarta>{{cite web|last=Microsoft Encarta Online Encyclopedia 2007|title=Russia|url=http://encarta.msn.com/encyclopedia_761569000_6/Russia.html|accessdate =2007-12-27}}</ref> Các phái Cơ đốc giáo nhỏ hơn như [[Công giáo La mã]], và nhiều phái [[Tin Lành]] có tồn tại.

Tổ tiên của nhiều người Nga hiện nay [[Cơ Đốc giáo hoá Kievan Rus'|đã chấp nhận Cơ Đốc giáo Chính thống]] ở thế kỷ thứ 10.<ref name=encarta/> Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2007 do Bộ ngoại giao Mỹ xuất bản đã nói rằng có xấp xỉ 100 triệu công dân coi họ là tín đồ Giáo hội Chính thống Nga.<ref>{{cite web|url=http://www.state.gov/g/drl/rls/irf/2007/90196.htm|accessdate=2008-04-08|title=Russia}}</ref> Theo một cuộc điều tra của [[VCIOM|Trung tâm Nghiên cứu Ý kiến Công chúng Nga]], 63% người tham gia coi họ là tín đồ Chính thống Nga, 6% tự coi mình là tín đồ [[Hồi giáo]] và chưa tới 1% coi mình là tín đồ hoặc của Phật giáo, Công giáo La Mã, Tin lành hay Do Thái giáo. 12% khác nói họ tin vào Chúa, nhưng không thực hiện bất kỳ tôn giáo nào và 16% nói họ là người vô thần.<ref name=religionsurvey>{{cite web|title={{ru_icon}} Опубликована подробная сравнительная статистика религиозности в России и Польше|publisher=religare.ru|date=6 June 2007|url=http://www.religare.ru/article42432.htm|accessdate=2007-12-27}}</ref>

[[Tập tin:Kazan church.jpg|nhỏ|đứng|phải|180px|''Đền Mọi Tôn giáo'' trong thành phố [[Kazan]] đa văn hoá.]]
Ước tính Nga là nơi sinh sống của khoảng 15–20 triệu [[Hồi giáo ở Nga|tín đồ Hồi giáo]].<ref>{{cite web|title=Fact Box: Muslims In Russia|publisher=Radio Free Europe|url=http://www.rferl.org/content/article/1060152.html|accessdate=2007-12-27}}</ref><ref name=timesmuslim>{{cite web|author=Page, J|title=The rise of Russian Muslims worries Orthodox Church|published=The Times|url=http://www.timesonline.co.uk/tol/news/world/article551693.ece|accessdate=2007-12-27}}</ref> Tuy nhiên học giả Hồi giáo và nhà hoạt động nhân quyền [[Roman Silantyev]] đã tuyên bố rằng chỉ có 7 tới 9 triệu người theo Hồi giáo ở Nga.<ref>{{cite web|url=http://www.interfax-religion.com/?act=news&div=2869|publisher=Interfax|title=20Mln Muslims in Russia and mass conversion of ethnic Russians are myths&nbsp;— expert|accessdate=2008-04-01}}</ref> Nga cũng có ước tính 3 tới 4 triệu người nhập cư Hồi giáo từ [[các nước cộng hoà hậu Liên xô]].<ref name=financialtimes>{{cite web|title=Russia's Islamic rebirth adds tension|publisher=Financial Times|url=http://www.ft.com/cms/s/0/3f3fba2c-474f-11da-b8e5-00000e2511c8.html|accessdate=2007-12-27}}</ref> Đa số tín đồ Hồi giáo sống ở [[vùng Volga-Ural]], cũng như [[Bắc Caucasus]], [[Moscow]],<ref>[http://www.voanews.com/english/archive/2007-06/2007-06-27-voa4.cfm Russia Faces Population Dilemma], VOA News, June 18, 2007</ref> [[Saint Petersburg]] và [[Tây Siberia]].<ref>{{cite web|author=Mainville, M|title=Russia has a Muslim dilemma|work=Page A - 17|publisher=San Francisco Chronicle|date=19 November 2006|url=http://sfgate.com/cgi-bin/article.cgi?f=/c/a/2006/11/19/MNGJGMFUVG1.DTL|accessdate=2007-12-27}}</ref> [[Phật giáo]] là truyền thống của ba vùng thuộc Liên bang Nga: [[Buryatia]], [[Tuva]], và [[Kalmykia]].<ref>{{cite web|author=Nettleton, S|title=Prayers for Ivolginsky|publisher=CNN|url=http://www.cnn.com/SPECIALS/2000/russia/story/train/ivolginsky.monastery/|accessdate=2007-12-27}}</ref> Một số người sống ở Siberi và vùng Viễn Đông, [[Cộng hoà Sakha|Yakutia]], [[Chukotka Autonomous Okrug|Chukotka]].. thực hiện các nghi thức Shaman, [[Thuyết phiếm thần]] cùng với các tôn giáo chính. Việc tham gia tôn giáo chủ yếu theo sắc tộc. Đại đa số [[người Slav]] theo Cơ Đốc giáo Chính thống. Những người nói [[tiếng Turkic]] chủ yếu là tín đồ Hồi giáo, dù một số nhóm Turkic tại Nga không theo.<ref name=religion2>{{cite web|title=Russia::Religion|publisher=Encyclopædia Britannica Online|year=2007|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/513251/Russia|accessdate=2007-12-27}}</ref>

== Các vấn nạn xã hội ==

Nước Nga là một trong những nước có làm sóng [[tội phạm]] cao nhất thế giới. Tỷ
lệ giết người ở Nga cao gấp bốn lần so với ở [[Mỹ]].<ref>Information of Russia
by Ruth Jenkkins, page 52 and 53</ref> Vào năm 2001, 33.500 người đã bị giết
hại. Tổng cộng, vào năm 2011, có hơn 3 triệu tội phạm được báo cáo. Từ [[trộm cắp]]
thông thường đến [[tham nhũng]], [[cướp]] và [[buôn lậu]] đã khiến làn sóng tội phạm
ngày càng tăng. Mặc dù [[chính phủ Nga]] đã cam kết mạnh tay với [[tội phạm]], tuy nhiên
hành động này vẫn chẳng đem lại hiệu quả gì lớn.

'''Hàng giả''' cũng là một vấn đề khác gây đau đầu cho các nhà chức trách. Chính phủ Nga
ước tính đến 90% hàng hóa bán lưu thông đều không rõ nguồn gốc rõ ràng. Các thiết
bị điện tử chủ yếu được nhập khẩu bất hợp pháp từ [[Đông Nam Á]] còn đồ chơi nhập
từ [[Trung Quốc]]. Còn thực phẩm, thuốc, quần áo và băng đĩa thường có nguồn gốc nội
địa.

[[Thuốc giả]] và [[rượu giả]] khiến người tiêu dùng bị đe dọa nghiêm trọng nhất. Hàng năm,
hàng ngàn người Nga bị thiệt mạng do uống phải các chất [[hóa học]] chết người làm
giả thành rượu [[vodka]]. <ref>Problems of USSR, page 101</ref>

== Tương lai ==
Nga và [[Belarus]] đang đàm phán để thống nhất thành một nhà nước liên bang Nga-Belarus, việc đàm phán đã được bắt đầu vào năm [[1997]] và vẫn tiếp tục cho đến bây giờ.<ref>[http://www.vnexpress.net/Vietnam/The-gioi/2007/12/3B9FD414/ vnexpress]</ref>

== Xem thêm ==
* [[Liên lạc viễn thông ở Nga]]
* [[Giáo dục ở Nga]]
* [[Quan hệ đối ngoại của Nga]]
* [[Lịch sử người Do Thái ở Nga và Liên Xô]]
* [[Hồi giáo ở Nga]]
* [[Luật pháp của Liên bang Nga]]
* [[Danh sách một số công ty Nga]]
* [[Quân đội Nga]]
* [[Tem bưu chính và lịch sử bưu chính Nga]]
* [[Các ngày lễ ở Nga]]
* [[Báo chí không biên giới]] Chỉ số toàn thế giới về tự do báo chí năm 2002: Nga được đánh giá xếp hạng 121 trong tổng số 139 quốc gia được đánh chỉ số.
* [[Tiếng Anh bồi]] đối với [[người Nga]]
* [[Du lịch ở Nga]]
* [[Vận tải ở Nga]]

== Tham chiếu ==
* ''The New Columbia Encyclopedia'', Col.Univ.Press, 1975

== Ghi chú ==
{{Tham_khảo|cột=2}}

== Liên kết ngoài ==

=== Các nguồn của chính quyền ===
{{Wikinews|Russia}}
{{Commonscat|Russia}}
* [http://www.duma.ru/ Duma] - Trang Web chính thức của hạ nghị viện (bằng tiếng Nga)
* [http://www.russianembassy.org/ Đại sứ quán Nga tại Hoa Kỳ]
* [http://www.council.gov.ru/eng/index.html Hội đồng liên bang] - Trang Web chính thức của thượng nghị viện
* [http://www.gov.ru/ Gov.ru] - Cổng chính thức của chính phủ (bằng tiếng Nga)
* [http://www.kremlin.ru/eng/ Kremli] - Trang Web chính thức của tổng thống (bằng tiếng Anh)
* [http://www.fccland.ru/kart.htm Trang Web chính thức của trung tâm địa chính Liên bang Nga - Bản đồ hành chính của Nga (Chú giải bằng tiếng Nga)]
* [http://www.eia.doe.gov/emeu/cabs/russia.html Công nghiệp và các nguồn năng lượng của Nga, theo Cục năng lượng Hoa Kỳ]
* [http://www.bof.fi/bofit/fin/4ruec/index.stm Kinh tế Nga: Ngân hàng Phần Lan]
* [http://travel.state.gov/russia.html U.S. Thông tin từ Cục lãnh sự Hoa Kỳ: Nga]
* [http://webcam.deili.info/en,1,3 Webcam về nước Nga]
* [http://www.flickr.com/photos/tessekkur/sets/72157622223977430/ Photos of Russia]

=== Thông tin chung ===

* [http://news.bbc.co.uk/2/hi/europe/country_profiles/1102275.stm Sơ lược về quốc gia theo BBC]
* [http://www.cia.gov/cia/publications/factbook/geos/rs.html Dữ liệu về Nga theo CIA]
* [http://www.austausch.org/en/ Trao đổi Nga-Đức] Tổ chức phi chính phủ (NGO) kết nối những người tình nguyện tới NGO ở Nga (không chỉ là người Đức)
* [http://www.gksoft.com/govt/en/ru.html Các liên kết tới chính quyền]
* [http://geocities.com/deweytextsonline/isr.htm Ấn tượng về nước Nga Xô viết, theo John Dewey]
* [http://www.slavweb.com/eng/server-e-fr1.html Các nguồn trên Internet để nghiên cứu về Nga]
* [http://www.cdi.org/russia/johnson/default.cfm Danh mục các lưu trữ về Nga của Johnson]
* [http://numismondo.com/pm/rus/ Tiền giấy của Nga]
* [http://HavenWorks.com/world/russia/ Tin tức nước Nga]
* [http://baikaland.tripod.com/russia/right.html Các vùng liên bang của Nga (chú giải bằng tiếng Anh)]
* [http://www.russiajournal.com/ Tạp chí Nga] - Nguồn tin và phân tích độc lập từ Nga.
* [http://english.pravda.ru/ Phiên bản tiếng Anh của báo Pravda (Sự thật)]
* [http://www.nuocnga.net/ NướcNga.net] - Website của những người Việt yêu nước Nga.
* [http://rian.ru/ Trang thông tấn Nga RIA Novosti] - Tiếng Nga
* [http://en.rian.ru/ Trang thông tấn Nga RIA Novosti] - Tiếng Anh

{{Châu Âu}}
{{Châu Á}}
{{Cộng đồng các quốc gia độc lập}}
{{BRIC}}
{{Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc}}
{{Tổ chức Hợp tác Thượng Hải}}
{{WTO}}

[[Thể loại:Đảo Nga|Danh sách các đảo của Nga]]
[[Thể loại:Sông Nga|sông thuộc Nga]]
[[Thể loại:Nga| ]]

== References ==
{{reflist|colwidth=30em}}
{{Liên kết chọn lọc|af}}
{{Liên kết chọn lọc|hr}}
{{Liên kết chọn lọc|no}}
{{liên kết chọn lọc|id}}
{{liên kết chọn lọc|ja}}
{{liên kết chọn lọc|pt}}
{{Liên kết bài chất lượng tốt|lv}}

[[ace:Rusia]]
[[kbd:Урысей]]
[[af:Rusland]]
[[ak:Russia]]
[[als:Russland]]
[[am:ሩሲያ]]
[[ang:Russland]]
[[ab:Урыстәыла]]
[[ar:روسيا]]
[[an:Rusia]]
[[arc:ܪܘܣܝܐ]]
[[roa-rup:Arusia]]
[[frp:Russie]]
[[ast:Rusia]]
[[gn:Rrusia]]
[[av:Россиялъул Федерация]]
[[ay:Rusiya]]
[[az:Rusiya]]
[[id:Rusia]]
[[ms:Rusia]]
[[bm:Risila]]
[[bn:রাশিয়া]]
[[zh-min-nan:Lō͘-se-a]]
[[map-bms:Russia]]
[[jv:Rusia]]
[[su:Rusia]]
[[ba:Рәсәй]]
[[be:Расія]]
[[be-x-old:Расея]]
[[bcl:Rusya]]
[[bi:Rusia]]
[[bar:Russland]]
[[bo:ཨུ་རུ་སུ།]]
[[bs:Rusija]]
[[br:Rusia]]
[[bg:Русия]]
[[bxr:Ородой Холбооной Улас]]
[[ca:Rússia]]
[[ceb:Rusya]]
[[cv:Раççей Патшалăхĕ]]
[[cs:Rusko]]
[[ch:Russia]]
[[tum:Russia]]
[[co:Russia]]
[[cy:Ffederasiwn Rwsia]]
[[da:Rusland]]
[[pdc:Russland]]
[[de:Russland]]
[[dv:ރޫސީވިލާތް]]
[[nv:Biʼééʼ Łichííʼí Bikéyah]]
[[dsb:Rusojska]]
[[na:Ratsiya]]
[[dz:ར་ཤི་ཡཱན་ཕེ་ཌི་རེ་ཤཱན]]
[[et:Venemaa]]
[[el:Ρωσία]]
[[eml:Rossia]]
[[en:Russia]]
[[myv:Россия Мастор]]
[[es:Rusia]]
[[eo:Rusio]]
[[ext:Russia]]
[[eu:Errusia]]
[[ee:Russia]]
[[fa:روسیه]]
[[hif:Russia]]
[[fo:Russland]]
[[fr:Russie]]
[[fy:Ruslân]]
[[ff:Roosiya]]
[[fur:Russie]]
[[ga:An Rúis]]
[[gv:Yn Roosh]]
[[sm:Lusia]]
[[gag:Rusiya]]
[[gd:An Ruis]]
[[gl:Rusia - Россия]]
[[gan:俄羅斯]]
[[gu:રશિયા]]
[[got:𐍂𐌿𐍃𐌰𐌻𐌰𐌽𐌳]]
[[hak:Ngò-lò-sṳ̂]]
[[xal:Орсин Ниицән]]
[[ko:러시아]]
[[ha:Rasha]]
[[haw:Rūsia]]
[[hy:Ռուսաստան]]
[[hi:रूस]]
[[hsb:Ruska]]
[[hr:Rusija]]
[[io:Rusia]]
[[ig:Mpaghara Russia]]
[[ilo:Rusia]]
[[bpy:রাশিয়া]]
[[ia:Russia]]
[[ie:Russia]]
[[iu:ᐅᓛᓴ]]
[[os:Уæрæсе]]
[[zu:IRashiya]]
[[is:Rússland]]
[[it:Russia]]
[[he:רוסיה]]
[[kl:Ruslandi]]
[[kn:ರಷ್ಯಾ]]
[[pam:Russia]]
[[ka:რუსეთი]]
[[ks:روٗس]]
[[csb:Ruskô]]
[[kk:Ресей]]
[[kw:Russi]]
[[rw:Uburusiya]]
[[ky:Орусия]]
[[sw:Urusi]]
[[kv:Рочму]]
[[kg:Rusia]]
[[ht:Risi]]
[[ku:Rûsya]]
[[lad:Rusia]]
[[lbe:Аьрасат]]
[[la:Russia]]
[[ltg:Krīveja]]
[[lv:Krievija]]
[[to:Lūsia]]
[[lb:Russland]]
[[lt:Rusija]]
[[lij:Ruscia]]
[[li:Rusland]]
[[ln:Rusí]]
[[jbo:rukygu'e]]
[[lg:Rwasha]]
[[lmo:Rüssia]]
[[hu:Oroszország]]
[[mk:Русија]]
[[mg:Rosia]]
[[ml:റഷ്യ]]
[[krc:Россия Федерация]]
[[mt:Russja]]
[[mi:Rūhia]]
[[mr:रशिया]]
[[xmf:რუსეთი]]
[[arz:روسيا]]
[[cdo:Ngò̤-lò̤-sṳ̆]]
[[mwl:Rússia]]
[[koi:Рочму]]
[[mdf:Рузмастор]]
[[mn:Оросын Холбооны Улс]]
[[my:ရုရှားနိုင်ငံ]]
[[nah:Rusia]]
[[nl:Rusland]]
[[nds-nl:Ruslaand]]
[[ne:रुस]]
[[new:रुस]]
[[ja:ロシア]]
[[ce:Оьрсийн Федераций]]
[[frr:Ruslönj]]
[[pih:Rusha]]
[[no:Russland]]
[[nn:Russland]]
[[nrm:Russie]]
[[nov:Rusia]]
[[oc:Russia]]
[[mhr:Россий]]
[[or:ଋଷିଆ]]
[[uz:Rossiya Federatsiyasi]]
[[pa:ਰੂਸ]]
[[pnb:روس]]
[[pap:Rusia]]
[[ps:روسیه]]
[[km:រុស្ស៊ី]]
[[pcd:Russie]]
[[pms:Federassion Russa]]
[[nds:Russland]]
[[pl:Rosja]]
[[pnt:Ρουσία]]
[[pt:Rússia]]
[[kaa:Rossiya]]
[[crh:Rusiye]]
[[ty:Rūtia]]
[[ro:Rusia]]
[[rmy:Rusiya]]
[[rm:Russia]]
[[qu:Rusiya]]
[[ru:Россия]]
[[rue:Росія]]
[[sah:Арассыыйа]]
[[se:Ruošša]]
[[sg:Rusïi]]
[[sc:Russia]]
[[sco:Roushie]]
[[stq:Ruslound]]
[[nso:Russia]]
[[sq:Rusia]]
[[scn:Russia]]
[[si:රුසියාව]]
[[simple:Russia]]
[[ss:IRashiya]]
[[sk:Rusko]]
[[sl:Rusija]]
[[cu:Рѡсїꙗ]]
[[szl:Rusyjo]]
[[so:Ruushka]]
[[ckb:ڕووسیا]]
[[srn:Rusland]]
[[sr:Русија]]
[[sh:Rusija]]
[[fi:Venäjä]]
[[sv:Ryssland]]
[[tl:Rusya]]
[[ta:உருசியா]]
[[kab:Rrus]]
[[roa-tara:Russie]]
[[tt:Русия]]
[[te:రష్యా]]
[[tet:Rúsia]]
[[th:ประเทศรัสเซีย]]
[[tg:Русия]]
[[tpi:Rasia]]
[[chr:ᏲᏂᎢ]]
[[tr:Rusya]]
[[tk:Russiýa]]
[[tw:Russia]]
[[udm:Россия]]
[[uk:Росія]]
[[ur:روس]]
[[ug:روسىيە]]
[[za:Ezlozswh]]
[[vec:Rusia]]
[[vep:Venäma]]
[[vo:Rusän]]
[[fiu-vro:Vinnemaa]]
[[wa:Rûsseye]]
[[zh-classical:俄羅斯]]
[[vls:Rusland]]
[[war:Rusya]]
[[wo:Riisi]]
[[wuu:俄罗斯]]
[[ts:Russia]]
[[yi:רוסלאנד]]
[[yo:Rọ́síà]]
[[zh-yue:俄羅斯]]
[[diq:Rusya]]
[[zea:Rusland]]
[[bat-smg:Rosėjė]]
[[zh:俄罗斯]]

Phiên bản lúc 05:16, ngày 10 tháng 3 năm 2012

Thông tin khác
HDI?0,795
cao
Mã điện thoại7

Nga (Nga: Россия, chuyển tự. Rossiya, IPA: [rɐˈsʲijə]), quốc danh hiện tại là Liên bang Nga[2][3] (Nga: Российская Федерация, chuyển tự. Rossiyskaya Federatsiya, IPA: [rɐˈsʲijskəjə fʲɪdʲɪˈraʦəjə]), là một quốc gia ở phía bắc lục địa Á-Âu (châu Âuchâu Á).[4] Danh xưng "Nga" trong tiếng Việt là giản xưng của Nga La Tư (Trung văn phồn thể: 俄罗斯; giản thể: 俄罗斯), dịch danh Trung văn của quốc hiệu nước Nga.

Nga là một nhà nước cộng hoà bán tổng thống, gồm 83 thực thể liên bang. Nước Nga giáp biên giới với những quốc gia sau (từ tây bắc đến đông nam): Na Uy, Phần Lan, Estonia, Latvia, LitvaBa Lan (cả hai đều qua Kaliningrad Oblast), Belarus, Ukraina, Gruzia, Azerbaijan, Kazakhstan, Trung Quốc, Mông Cổ, và Bắc Triều Tiên. Nước này cũng có biên giới biển với Nhật Bản (qua Biển Okhotsk) và Hoa Kỳ (qua Eo biển Bering). Với diện tích 17,075,400 km2, Nga là nước lớn nhất thế giới, bao phủ hơn một phần chín diện tích lục địa Trái Đất. Nga cũng là nước đông dân thứ chín thế giới với 142 triệu người.[5] Nước này kéo dài toàn bộ phần phía bắc châu Á và 40% châu Âu, bao gồm 11 múi giờ và sở hữu nhiều loại môi trường và địa hình. Nga có trữ lượng khoáng sản và năng lượng lớn nhất thế giới,[6] và được coi là một siêu cường năng lượng.[7] [8] [9] Nước này có trữ lượng rừng lớn nhất thế giới và các hồ của Nga chứa xấp xỉ một phần tư lượng nước ngọt không đóng băng của thế giới.[10]

Nga đã thiết lập quyền lực và ảnh hưởng khắp thế giới từ thời Đế chế Nga và trở thành nhà nước hợp thành lớn nhất và lãnh đạo bên trong Liên bang Xô viết, nhà nước xã hội chủ nghĩa hợp hiến đầu tiên và được công nhận là một siêu cường,[11] đóng vai trò quan trọng[12][13][14] trong thắng lợi của Đồng Minh trong Thế chiến II. Liên bang Nga được thành lập sau sự giải tán Liên xô năm 1991, nhưng nó được công nhận là sự kế tiếp pháp lý của nhà nước Xô viết.[15] Nga có nền kinh tế đứng thứ tám hoặc thứ chín theo GDP danh nghĩa hay đứng thứ sáu theo sức mua tương đương, với ngân sách quân sự danh nghĩa lớn thứ tám hay thứ ba theo PPP[16]. Đây là một trong năm nhà nước sở hữu vũ khí hạt nhân được công nhận và sở hữu kho vũ khí huỷ diệt hàng loạt lớn nhất thế giới.[17] Nga là một thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, một thành viên của G8, G20, APEC, SCOEurAsEC, và là một thành viên lãnh đạo của Cộng đồng các quốc gia độc lập. Nhà nước Nga có một truyền thống lâu dài và giàu có về nhiều lĩnh vực nghệ thuật và khoa học,[4] cũng như một truyền thống mạnh về công nghệ, gồm cả những thành tựu quan trọng như tàu vũ trụ đầu tiên của loài người.

Lịch sử

Lịch sử của nước Nga bắt đầu từ lịch sử Đông Slav. Nhà nước Đông Slav đầu tiên, nước Nga Kiev, đã chấp nhận việc du nhập Ki-tô giáo từ Đế quốc Đông La Mã vào năm 988 [18] khởi đầu sự tổng hòa các nền văn hoá Đông La Mã và Slav lập ra văn hoá Nga trong một nghìn năm tiếp theo.[19] Nước Nga Kiev nhanh chóng tan rã không còn là một Nhà nước nữa, cuối cùng chịu đầu hàng quân xâm lược Mông Cổ trong những năm 1230. Trong thời gian này, một số lãnh đạo địa phương, đặc biệt là xứ Novgorod và xứ Pskov, đã chiến đấu để thừa kế di sản văn hoá và chính trị của nước Nga Kiev.

Sau thế kỷ 13, Moskva dần trở thành trung tâm văn hoá.[19] Tới thế kỷ 18, Đại Công quốc Moskva đã trở thành Đế quốc Nga rộng lớn, trải dài từ Ba Lan về phía đông tới Thái Bình Dương. Sự mở rộng về phía tây càng khiến nước Nga nhận thức được sự khác biệt của họ với đa phần còn lại của châu Âu và phá vỡ sự cô lập từng xảy ra ở những giai đoạn đầu mở rộng. Thời này có Nga hoàng Pyotr Đại Đế xóa bỏ một nước Nga lạc hậu, nửa Á Đông, tiến hành sự nghiệt lớn lao đổi mới đất nước.[20][21] Các vị Nữ hoàng Anna, Elizaveta PetrovnaEkaterina II đều lên ngôi với những cuộc đảo chính do Ngự Lâm quân hỗ trợ.[22] Với chính sách bành trướng, phát triển thực lực của đất nước, triều đình Nga hoàng đã phá bỏ mối đe dọa từng có từ Vương quốc Thụy ĐiểnĐế quốc Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman. Các triều đại nối tiếp nhau trong thế kỷ 19 đã đối phó với những áp lực đó bằng sự kết hợp giữa các cuộc cải cách miễn cưỡng và trấn áp. Chế độ nông nô Nga đã bị bãi bỏ năm 1861, nhưng sự huỷ bỏ này thực sự chỉ gây thêm phiền toái cho người nông dân và càng khiến áp lực cách mạng tăng cao. Trong khoảng thời gian từ khi chế độ nông nô bị huỷ bỏ tới khi bắt đầu Chiến tranh thế giới lần thứ nhất năm 1914, các cuộc cải cách Stolypin, hiến pháp 1906Duma quốc gia đã mang lại những thay đổi đáng kể cho nền kinh tế và chính trị Nga,[23] nhưng các hoàng đế Nga vẫn không muốn rời bỏ quyền lực tuyệt đối, hay chia sẻ quyền lực.[24]

Cách mạng Nga năm 1917 được khởi phát từ một sự tổng hợp các yếu tố tan rã kinh tế, tình trạng kiệt quệ do chiến tranh, và sự bất bình với hệ thống chính phủ chuyên quyền, và lần đầu tiên một liên minh giữa những người tự do và xã hội chủ nghĩa ôn hoà lên nắm quyền lực, nhưng các chính sách sai lầm của họ đã khiến những người Cộng sản Bolshevik chiếm quyền lực vào ngày 25 tháng 10 (lịch Julius, tức ngày 7 tháng 11 theo lịch Gregory). Từ năm 1922 tới năm 1991, lịch sử Nga chủ yếu là Lịch sử Liên Xô, một nhà nước hoàn toàn dựa trên ý thức hệ gồm các quốc gia láng giềng của Đế quốc Nga trước Hòa ước Brest-Litovsk. Tuy nhiên, việc tiếp cận cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội khác nhau trong từng thời điểm trong lịch sử Liên Xô, từ nền kinh tế pha trộn và xã hội và văn hoá đa dạng hồi thập niên 1920 tới nền kinh tế chỉ huy và trấn áp thời Stalin tới "thời kỳ trì trệ" thập niên 1980. Từ những năm đầu tiên, chính phủ Liên Xô đã dựa trên nền tảng độc đảng của những người Cộng sản, như những người Bolshevik tự gọi mình, từ tháng 3 năm 1918.[25] Tuy nhiên, tới cuối thập niên 1980, khi sự yếu kém của các cơ cấu kinh tế và chính trị đã trở nên gay gắt, các lãnh đạo cộng sản đã tiến hành các cải cách lớn, dẫn tới sự sụp đổ của Liên bang Xô viết.[26]

Lịch sử Liên bang Nga khá ngắn, chỉ bắt đầu từ sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991. Từ khi giành lại độc lập, nước Nga đã được công nhận là nhà nước thừa kế chính thức của Liên Xô trên bình diện quốc tế.[27] Tuy nhiên, nước Nga đã mất vị trí siêu cường của mình và đang phải đối mặt với những thách thức trong các nỗ lực thiết lập một hệ thống kinh tế và chính trị hậu Xô viết. Loại bỏ nền kinh tế kế hoạch tập trung và quyền sở hữu nhà nước thời kỳ Xô viết, nước Nga đang nỗ lực xây dựng một nền kinh tế mang các yếu tốc của thị trường tư bản, với những hậu quả nhiều khi khá nặng nề.[26] Thậm chí ngày nay nước Nga vẫn mang nhiều nét đặc trưng văn hoá và xã hội thời kỳ Sa Hoàng và Liên Xô.

Nga thời kỳ cổ đại

Bản đồ gần đúng về các nền văn hóa của Nga phần châu Âu khi người Varangia đến

Phần lớn diện tích đất đai của nước Nga ngày nay là lãnh thổ của các bộ lạc khác nhau như người Goth, HunAvar gốc Thổ trong khoảng thời gian từ thế kỷ 3 tới thế kỷ 6. Bộ lạc người Scythia gốc Iran sinh sống ở các thảo nguyên miền nam, và bộ lạc người Ca dắc (Khazar) gốc Tuốc (Turk) đã cai trị phần phía tây của vùng đất này cho đến thế kỷ 8. Sau đó họ đã bị bộ lạc gốc Scandinavi là người Varangia thay thế, bộ lạc này đã thiết lập thủ đô tại thành phố của người Slav Novgorod và dần dần hòa trộn với người Slav. Người Slav tạo thành nhóm dân cư chính từ thế kỷ 8 trở đi và đồng hóa một cách chậm chạp cả những người gốc Scandinavi cũng như các bộ lạc bản địa gốc Phần Lan-Ugric, chẳng hạn như người Merya, MuromiaMeshchera.

Chính quyền của người Varangia tồn tại trong vài thế kỷ, trong thời gian đó họ liên kết với Chính thống giáo và chuyển thủ đô về Kiev năm 1169. Trong kỷ nguyên này thuật ngữ "Rhos", hoặc "Russ" lần đầu tiên được sử dụng để chỉ người Varangia và người Slav sinh sống trong khu vực. Từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 11 quốc gia Nga Kiev (Киевская Русь) đã trở thành lớn nhất ở châu Âu và rất thịnh vượng nhờ các hoạt động thương mại tích cực với cả châu Âu và châu Á.

Trong thế kỷ 13 khu vực này trở nên suy yếu vì những tranh chấp nội bộ và bị tàn phá bởi những kẻ xâm lược phương đông là Kim trướng của người Mông Cổ và các bộ lạc Hồi giáo gốc Turk, là những kẻ đã cướp bóc các công quốc Nga trên ba thế kỷ. Còn được biết đến như là người Tatar, họ đã cai trị vùng miền nam và miền trung Nga ngày nay, trong khi các vùng miền tây bị sát nhập vào Đại công quốc LitvaBa Lan. Sự chia rẽ về chính trị của Rus Kiev đã tách người Nga ở phía bắc ra khỏi người Belarusngười Ukraine ở phía tây.

Quân tuần tra Muscovie Nga ở biên giới phía Nam

Phần phía bắc của Nga cùng với Novgorod vẫn giữ được sự tự trị ở một mức độ nhất định trong thời gian cai trị của người Mông Cổ. Tuy thế Nga cũng đã phải chiến đấu chống lại đội quân thập tự chinh của người Đức khi người Đức có ý đồ chiếm khu vực này làm thuộc địa.

Giống như khu vực BalkanTiểu Á sự cai trị kéo dài của những người du mục đã làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước này. Sự chuyên quyền kiểu châu Á đã ảnh hưởng tiêu cực tới thể chế dân chủ của đất nước cũng như tới văn hóa và kinh tế.

Bất chấp điều đó, không giống như lãnh đạo tinh thần của mình là Đế chế Byzantine, Nga đã không suy tàn và tổ chức những cuộc nổi dậy để giành độc lập, cuối cùng đã khuất phục được các kẻ thù của mình và khôi phục, mở mang lãnh thổ. Sau thất thủ của Constantinople năm 1453, Nga là quốc gia Chính thống giáo duy nhất còn thực sự hoạt động nhiều hay ít ở phần biên giới phía đông châu Âu, điều này cho phép Nga có quyền nhận mình là quốc gia kế tục hợp pháp của Đế chế Byzantine.

Đế chế Nga

Quân Nga xâm lược vùng Siberia cuối thế kỷ 16 dưới sự chỉ huy của Yermak
Chiến hạm Nhật đánh chìm Hạm đội Nga ở Port Athur 1904

Trong khi về danh nghĩa vẫn nằm dưới sự cai trị của người Mông Cổ thì công quốc Moskva đã bắt đầu xác nhận ảnh hưởng của mình và cuối cùng đã thoát khỏi sự kiểm soát của những kẻ xâm lăng vào cuối thế kỷ 14. Ivan Hung đế, vị vua đầu tiên xưng tước vị Sa hoàng, đã kết thúc quá trình này và liên kết các khu vực xung quanh dưới ảnh hưởng của Moskva và xâm lược những vùng đất rộng lớn ở Siberi. Đế chế Nga ra đời.

Sự kiểm soát của Moskva đối với quốc gia mới ra đời còn tiếp tục dưới triều đại Romanov kế tiếp, bắt đầu với Sa hoàng Mikhail Romanov năm 1613. Pyotr Đại đế, Sa hoàng từ 1689 tới 1725, đã thành công trong việc đem các tư tưởng và văn hóa từ Tây Âu vào Nga, khi đó còn chịu ảnh hưởng lớn của nền văn hóa du mục nguyên thủy. Với chiến thắng của quân Nga trong cuộc Đại chiến Bắc Âu chống quân Thụy Điển, nước Nga vươn lên thành một trong những liệt cường của châu Âu khi đó. Ekaterina Đại đế (Екатерина II Алексеевна), cai trị từ năm 1762 đến năm 1796, đã tiếp bước gầy dựng Đế quốc Nga, đánh tan tác quân Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, sự náo loạn của nông nô bị áp bức và sự cấm đoán tầng lớp trí thức đang phát triển và các giai cấp gần gũi với giai cấp này, cộng thêm gánh nặng thất bại (trận Hải chiến Đối Mã) trước người Nhật trong chiến tranh Nga-Nhật năm 1905 đã dẫn đến cuộc Cách mạng 1905. Trước Thế chiến thứ nhất, vai trò của Sa hoàng Nikolai II (Николай Александрович Романов) và triều đại của ông là không vững chắc. Những thất bại nặng nề của quân đội Nga trong Thế chiến thứ nhất đã dẫn đến sự nổi dậy rộng khắp trong các thành phố chính của Đế chế Nga và dẫn tới sự sụp đổ của nhà Romanov năm 1917, đó là Cách mạng tháng Hai.

Vào giai đoạn cuối của Cách mạng tháng Mười (1917), những người theo đường lối Bolshevik của Đảng Cộng sản dưới sự lãnh đạo của Vladimir Ilyich Lenin đã giành được chính quyề thành lập Liên Xô. Sự lãnh đạo của Iosif Vissarionovich Stalin đã thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa một đất nước chủ yếu là nông nghiệp và tập thể hóa nền nông nghiệp đưa đất nước phát triển vượt bậc. Điều này cũng làm tăng cường vị thế của Liên Xô.

Nga Xô viết

Vladimir Lenin, lãnh đạo những người Bolshevik và là người sáng lập Liên xô.

Sau Cách mạng tháng 10, một cuộc nội chiến bùng phát giữa chế độ mới và phong trào Bạch vệ phản cách mạng, tuy Hiệp ước Brest-Litovsk đã chấm dứt những thù địch với Liên minh Trung tâm trong Thế chiến I. Nga đã mất các lãnh thổ Ukraina, Ba Lan, và Baltic, và Phần Lan khi ký kết hiệp ước. Các cường quốc Đồng Minh tung ra một can thiệp quân sự hỗ trợ cho các lực lượng chống Cộng sản và cả những người Bolsheviks cùng Bạch vệ đều tiến hành các chiến dịch trục xuất và hành quyết chống lại nhau, được gọi là Khủng bố ĐỏKhủng bố Trắng. Tới cuối cuộc Nội chiến Nga nền kinh tế và cơ sở hạ tầng của Nga đã bị phá huỷ nghiêm trọng, nạn đói năm 1921 đã làm thiệt mạng 5 triệu người.[28] Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga cùng với các nước cộng hoà thuộc Liên xô khác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã thành lập Liên bang Xô viết ngày 30 tháng 12 năm 1922. Trong số 15 nước cộng hoà thành lập Liên xô, Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga, nước cộng hoà lớn nhất về diện tích và chiếm tới hơn một nửa dân số Nga, thống trị Liên bang Xô viết trong toàn bộ lịch sử 89 năm của nó, Liên bang Xô viết thường được gọi, dù một cách không chính thức, là "Nga" và người dân của nó là "người Nga".

Sau cái chết của Lenin năm 1924, một lãnh đạo Bolshevik khác Joseph Stalin đã củng cố quyền lực và trở thành một nhà độc tài. Ông đưa ra một nền kinh tế chỉ huy, nhanh chóng công nghiệp hoá đất nước vẫn còn hầu hết là nông nghiệp, và tập thể hoá nền nông nghiệp. Những động thái này đã biến Liên xô từ một nền kinh tế nông nghiệp trở thành một cường quốc công nghiệp trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, sự chuyển tiếp này có được với một giá đắt. Hàng triệu người đã chết vì hậu quả của những chính sách gay gắt của chính phủ (xem Gulag, Phi kulak hoá, Di chuyển dân cư tại Liên xô, Nạn đói Liên xô 1932–1933, và Đại thanh trừng).


Ngày 22 tháng 6 năm 1941, Phát xít Đức xâm lược Liên xô với lực lượng lớn nhất và mạnh nhất trong lịch sử nhân loại,[29] mở ra mặt trận lớn nhất của Thế chiến II. Dù quân đội Đức có những thắng lợi to lớn ở thời điểm ban đầu, cuộc tấn công của họ đã bị chặn lại trong Trận Moscow; sau đó người Đức đã phải chịu nhiều thất bại quan trọng khác, đầu tiên tại Trận Stalingrad mùa đông năm 1942–1943,[30] và sau đó tại Trận Kursk vào mùa hè năm 1943. Một nơi khác với thất bại của Phát xít và chủ nghĩa anh hùng Liên xô là Leningrad, bị các lực lượng Đức phong toả hoàn toàn trên đất liền giai đoạn 1941–44 và phải chịu nạn đói với hàng triệu người chết, nhưng không bao giờ đầu hàng. Dưới sự lãnh đạo của các vị tướng xuất chúng như Georgy ZhukovKonstantin Rokossovsky, các lực lượng Liên xô đã tiến qua Đông Âu năm 1944–45 và chiếm Berlin tháng 5 năm 1945. Sau khi đạt được thắng lợi vĩ đại, quân đội Liên xô đẩy lùi Nhật Bản khỏi vùng Mãn Châu của Trung QuốcBắc Triều Tiên, một đóng góp quan trọng vào thắng lợi của Đồng Minh trước Nhật Bản.

Lá cờ chiến thắng trên nóc toà nhà Reichstag sau Trận Berlin tháng 5 năm 1945.

Giai đoạn 1941–1945 của Thế chiến II được gọi là Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại tại Nga. Trong cuộc xung đột này, vốn gồm nhiều chiến dịch quân sự có thiệt hại nhân mạng lớn nhất trong lịch sử loài người, con số thương vong của quân đội Liên xô là 10.6 triệu và thường dân là 15.9 triệu người,[31] chiếm khoảng một phần ba tổng số thương vong trong Thế chiến II. Kinh tế và hạ tầng Liên xô bị phá huỷ nặng nề[32] nhưng Liên bang Xô viết đã nổi lên trở thành một siêu cường được công nhận. Hồng quân chiếm Đông Âu sau cuộc chiến, gồm cả nửa phía đông của nước Đức; Stalin đã thiết lập các chính phủ xã hội chủ nghĩa tại các quốc gia vệ tinh này. Trở thành cường quốc hạt nhân số hai thế giới, Liên xô đã thành lập Khối hiệp ước Warsaw đồng minh và bước vào một cuộc đấu tranh giành ảnh hưởng trên thế giới với Hoa Kỳ, được gọi là cuộc Chiến tranh Lạnh. Liên xô đã đưa ý thức hệ Cộng sản của mình tới những đồng minh mơói giành được độc lập, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa cùng với Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, trong khi cũng giúp các nước này thực hiện công nghiệp hoáphát triển. Sau đó các ý tưởng của Chủ nghĩa Cộng sản cũng đã giành được chỗ đứng tại Cuba và nhiều quốc gia khác.

Tập tin:Yuri Gagarin (NASA).jpg
Người đầu tiên bay vào vũ trụ, Yuri Gagarin.

Sau khi Stalin chết và một giai đoạn lãnh đạo tập thể ngắn, một lãnh đạo mới Nikita Khrushchev lên án sự sùng bái cá nhân với Stalin và khởi động quá trình phi Stalin hoá. Các trại lao động Gulag bị bãi bỏ và đại đa số tù nhân được thả ra;[33] việc giảm nhẹ các chính sách đàn áp sau này được gọi là thời kỳ tan băng Khruschev. Liên bang Xô viết phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên của thế giới, Sputnik 1, và nhà du hành vũ trụ Nga Yuri Gagarin trở thành người đầu tiên bay quanh Trái đất trên tàu vũ trụ có người điều khiển đầu tiên, Vostok 1. Những căng thẳng với Hoa Kỳ lên cao khi hai đối thủ xung đột về việc Mỹ triển khai các tên lửa Jupiter tại Thổ Nhĩ Kỳ và Liên xô triển khai tên lửa tại Cuba.

Sau khi Khrushchev bị loại bỏ, một giai đoạn cầm quyền tập thể ngắn khác kế tiếp, cho tới khi Leonid Brezhnev lên nắm quyền lãnh đạo chính trị Liên xô vào đầu thập niên 1970. Thời kỳ cầm quyền của Brezhnev chứng kiến giai đoạn trì trệ kinh tế, bởi những nỗ lực cải cách của Thủ tướng Alexey Kosygin, đã bị dừng lại. Những cuộc cải cách này có mục tiêu chuyển trọng tâm của nền kinh tế Liên xô từ công nghiệp nặngsản xuất quân sự sang công nghiệp nhẹ và sản xuất hàng tiêu dùng, tuy nhiên điều này cũng có nghĩa là việc phi tập trung hoá nền kinh tế và áp dụng các yếu tố kiểu tư bản, và giới lãnh đạo Cộng sản sẽ không bao giờ chấp nhận nó. Từ năm 1979 cuộc chiến tranh Xô viết tại Afghanistan đã làm cạn kệt các nguồn tài nguyên kinh tế mà không mang lại một kết quả có ý nghĩa chính trị nào. Cuối cùng các lực lượng Liên xô đã rút khỏi Afghanistan năm 1989 vì sự phản đối quốc tế và thiếu sự ủng hộ từ trong nước. Căng thẳng giữa Liên xô và Mỹ lại gia tăng vào đầu thập niên 1980, được tăng cường bởi tình cảm chống Liên xô tại Mỹ, đề xuất SDI, và vụ bắn hạ chuyến bay 007 của Korean Air Lines năm 1983 của Liên xô.

Trước năm 1991, kinh tế Liên xô là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới,[34] nhưng trong những năm cuối cùng nó đã bị ảnh hưởng bởi sự thiếu hụt hàng hoá, những khoản thâm hụt tài chính khổng lồ và việc tăng nguồn cung tiền đã dẫn tới lạm phát.[35] Từ năm 1985 trở về sau, lãnh đạo cuối cùng của Liên xô Mikhail Gorbachev đã đưa ra các chính sách glasnost (mở cửa) và perestroika (tái cơ cấu) trong một nỗ lực nhằm hiện đại hoá đất nước và biến nó thành dân chủ hơn. Tuy nhiên, việc này đã dẫn tới sự trỗi dậy của các phong trào quốc giasự giải tán Liên xô. Tháng 8 năm 1991, một cuộc đảo chính quân sự bất thành, chống lại Gorbachev và có mục tiêu duy trì Liên xô, đã dẫn tới sự sụp đổ của nó. Tại Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga, Boris Yeltsin lên nắm quyền lực và tuyên bố chấm dứt chế độ xã hội chủ nghĩa. Liên xô tan rã thành 15 nước cộng hoà độc lậpchính thức giải tán tháng 12 năm 1991. Boris Yeltsin được bầu làm Tổng thống Nga tháng 6 năm 1991, cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp đầu tiên trong lịch sử Nga.

Liên bang Xô viết tan rã và Liên bang Nga

Thiết giáp BTR-80 của Quân đội Nga năm 1996

Vào giai đoạn giữa và cuối thập niên 1980, tổng bí thư Mikhail Sergeyevich Gorbachov đề ra glasnost (гласность tức "công khai hóa, mở cửa") và perestroika (Перестройка tức "cải tổ") trong cố gắng để hiện đại hóa chủ nghĩa cộng sản. Những sáng kiến của ông đã vô tình giải phóng các lực lượng mà vào tháng 12 năm 1991 đã chia tách Liên Xô thành 15 nước cộng hòa độc lập trong đó Nga là lớn nhất. Kể từ đó, Nga đã cố gắng để xây dựng một hệ thống chính trị dân chủ và kinh tế thị trường nhằm thay thế cho các sự kiểm soát chặt chẽ về xã hội, chính trị, kinh tế trong thời kỳ cộng sản. Kể từ khi Chechnya tuyên bố độc lập vào đầu những năm thập niên 1990, những cuộc chiến tranh du kích (Chiến tranh Chechnya lần 1, Chiến tranh Chechnya lần 2) đã diễn ra giữa các nhóm người Chechen khác nhau với quân đội Nga. Một số các nhóm này đã trở thành những kẻ Hồi giáo cực đoan theo tiến trình của cuộc chiến. Ước tính có trên 200.000 người đã chết trong các cuộc xung đột này. Các cuộc xung đột nhỏ hơn diễn ra ở Bắc OssetiaIngushetia.

Sau thời gian làm tổng thống của Boris Nikolayevich Yeltsin trong những năm thập niên 1990, Vladimir Vladimirovich Putin đã được bầu làm tổng thống năm 1999. Dưới thời kỳ Putin, sự kiểm duyệt của nhà nước đối với các phương tiện thông tin đại chúng ở Nga đã làm tăng sự lo ngại của phương Tây về quyền con người ở Nga.

Với sự mất đi ảnh hưởng của Nga tại Grudia (Cách mạng hồng), Ukraina (Cách mạng da cam) Balan Cách mạng Tulip và một số quốc gia cựu Xô viết cũ, cũng như các vấn đề hiện nay về kinh tế và chủ nghĩa ly khai (nổi cộm nhất là ở Chechnya), một số bình luận viên cho rằng có nguy cơ tăng cao của việc tan rã nước Nga.

Sau cuộc chiến chớp nhoáng (07 - 12/08/2008) nhằm trả đũa việc quân đội Greogia tấn công những người Nga và lực lượng gìn giữ hòa bình của Nga ở Nam Ossetia. Việc Nga công nhận độc lập và chủ quyền của 2 vùng tự trị Abkhazia và Nam Ossetia (26/08/2008) cho thấy tham vọng của Nga trong việc lấy lại vị thế và tiếng nói trong khu vực SNG và cao hơn nữa có thể là việc trở lại vị thế của Liên Bang Xô viết trong một hoàn cảnh hoàn toàn mới.

Chính phủ và chính trị

Lối vào Thượng viện Kremlin, một phần của Kremlin Moscow và nơi làm việc của Tổng thống Nga.

Theo hiến pháp, được thông qua trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 12 tháng 12 năm 1993 sau cuộc khủng hoảng hiến pháp Nga năm 1993, Nga là một liên bang và theo chính thức là một nền cộng hoà bán tổng thống, theo đó Tổng thống là nguyên thủ quốc gia[36]Thủ tướnglãnh đạo chính phủ. Nga được cơ cấu theo nền tảng một chế độ dân chủ đại diện. Quyền hành pháp thuộc chính phủ.[37] Quyền lập pháp thuộc hai viện của Quốc hội Liên bang.[38] Chính phủ được điều chỉnh bằng một hệ thống kiểm tra và cân bằng được định nghĩa trong Hiến pháp Liên bang Nga, là tài liệu pháp lý tối cao của đất nước và khế ước xã hội cho người dân Liên bang Nga. Chính phủ Liên bang gồm ba nhánh:


Đài kỷ niệm Người cưỡi ngựa đồng phía trước Toà án Hiến pháp Nga tại Saint Petersburg.

Theo hiến pháp, phán quyết tại toà dựa trên tính bình đẳng của mọi công dân,[39] các thẩm phán là độc lập và chỉ làm theo pháp luật,[40] các phiên toà được mở và người bên bị được quyền có luật sư bào chữa.[41] Từ năm 1996, Nga đã quy định đình hoãn hình phạt tử hình, dù hình phạt tử hình chưa bị pháp luật bãi bỏ.

Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ sáu năm (được tham gia tranh cử nhiệm kỳ hai nhưng bị hiến pháp cấm cầm quyền ba nhiệm kỳ liên tiếp);[42] cuộc bầu cử gần nhất được tổ chức năm 2008. Các bộ của chính phủ gồm thủ tướng và các phó thủ tướng, bộ trưởng và các cá nhân được lựa chọn khác; tất cả đều do tổng thống chỉ định theo sự giới thiệu của Thủ tướng (tuy nhiên việc chỉ định thủ tướng phải được Duma Quốc gia thông qua).

Nhánh lập pháp quốc gia là Quốc hội Liên bang, gồm hai viện; Duma Quốc gia với 450 thành viên[43]Hội đồng Liên bang 176 thành viên. Các đảng chính trị lớn của Nga gồm Nước Nga Thống nhất, Đảng Cộng sản, Đảng Dân chủ Tự do Nga, và Nước Nga Công bằng.

Quan hệ nước ngoài

Lãnh đạo các quốc gia BRIC năm 2008: (trái sang phải) Manmohan Singh của Ấn Độ, Dmitry Medvedev của Nga, Hồ Cẩm Đào của Trung Quốc và Luiz Inácio Lula da Silva của Brasil.

Liên bang Nga được luật pháp quốc tế công nhận là nhà nước kế tục của Liên xô cũ.[15] Nga tiếp tục thực hiện các cam kết quốc tế của Liên xô, và đã nhận chiếc ghế thường trực của Liên xô tại Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, tư cách thành viên trong các tổ chức quốc tế khác, các quyền và nghị vụ theo các hiệp ước quốc tế, tài sản và các khoản nợ. Nga có chính sách đối ngoại đa dạng. Ở thời điểm năm 2009, nước này có quan hệ ngoại giao với 173 quốc gia và có 142 đại sứ quán.[44] Chính sách đối ngoại được Tổng thống Nga vạch ra và được Bộ ngoại giao thực hiện.[45]

Là một trong thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, Nga đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Nước này tham gia vào Nhóm bộ tứ cho Trung ĐôngNhững cuộc đàm phán sáu bên với Bắc Triều Tiên. Nga là một thành viên của G8, Hội đồng châu Âu, OSCEAPEC. Nga thường có vai trò lãnh đạo trong các tổ chức cấp vùng như CSI, EurAsEC, CSTO, và SCO. Cựu tổng thống Vladimir Putin đã ủng hộ một đối tác chiến lược với sự hội nhập ở nhiều cấp độ gồm cả việc thành lập bốn không gian chung giữa Nga và EU.[46] Từ khi Liên xô sụp đổ, Nga đã phát triển một mối quan hệ thân cận hơn dù không ổn định với NATO. Hội đồng NATO-Nga được thành lập năm 2002 để cho phép 26 nước Đồng minh và Nga cùng làm việc như những đối tác bình đẳng để theo đuổi sự hợp tác chung.[47]

Quân đội

date=tháng 6, 2011}}).
lính dù Nga trong một cuộc tập trận tại Kazakhstan

Nga thừa hưởng quyền kiểm soát các tài sản của Liên xô ở nước ngoài và hầu hết các cơ sở và ngành công nghiệp quốc phòng Liên xô.[48] Quân đội Nga được chia thành Các lực lượng lục quân, Hải quân, và Không quân. Cũng có ba nhánh quân đội độc lập: Các lực lượng tên lửa chiến lược, Các lực lượng quân sự không gian, và Quân nhảy dù. Năm 2006, quân đội có 1,037 triệu người hoạt động thường xuyên.[49]

Nga có kho vũ khí hạt nhân lớn nhất thế giới. Họ có hạm đội tàu ngầm tên lửa đạn đạo đứng thứ hai và là nước duy nhất ngoài Hoa Kỳ có một lực lượng máy bay ném bom chiến lược hiện đại.[17] Lực lượng xe tăng Nga lớn nhất thế giới, hải quân nổi và không quân cũng thuộc hàng mạnh nhất. Nước này có một ngành công nghiệp vũ khí lớn và hoàn toàn bản địa, sản xuất hầu hết các loại trang thiết bị quân sự với chỉ một số ít loại vũ khí phải nhập khẩu. Nga là nước cung cấp vũ khí hàng đầu thế giới, một vị thế họ đã giữ từ năm 2001, chiếm khoảng 30% doanh số vũ khí toàn cầu[50] và xuất khẩu vũ khí tới khoảng 80 nước.[51]

Mọi công dân nam của Nga từ 18–27 tuổi phải đăng ký thực hiện nghĩa vụ một năm trong các lực lượng vũ trang, chính phủ có kế hoạch tăng tỷ lệ binh sĩ chuyên nghiệp lên 70% vào năm 2010. Chi phí quân sự đã tăng gấp bốn lần trong sáu năm qua[52] và chi tiêu quốc phòng chính thức của chính phủ năm 2008 là $40 tỷ, khiến nước này đứng thứ tám về chi phí quân sự trên thế giới,[53] dù nhiều nguồn tin, kể cả tình báo Hoa Kỳ,[54]Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế,[49] đã ước tính chi phí quân sự của Nga lớn hơn rất nhiều.[55] Hiện nay, quân đội Nga đang trải qua một quá trình nâng cấp thiết bị lớn trị giá khoảng $200 tỷ trong giai đoạn 2006 và 2015.[56] Bộ trưởng quốc phòng Anatoliy Serdyukov[57] giám sát các cuộc cải cách lớn với mục đích chuyển đổi từ một quân đội tập trung đông đảo thành một lực lượng chuyên nghiệp nhỏ hơn.[58]

Phân chia hành chính

Các đơn vị hành chính của Liên bang Nga

Xem thêm:

Liên bang Nga là sự hợp thành của một lượng lớn các chủ thể hành chính cấp liên bang, tổng cộng là 83 đơn vị hợp thành (chủ thể) như vậy. Tại Nga có 21 nước cộng hòa trong phạm vi liên bang có mức độ tự trị cao trong phần lớn các vấn đề và chúng gần như tương ứng với khu vực sinh sống của các bộ tộc người thiểu số ở Nga. Phần còn lại của lãnh thổ bao gồm 48 tỉnh (oblast) và 7 vùng (krai), 1 tỉnh tự trị (avtonomnaya oblast) và 9 khu tự trị (avtonomnyi okrug). Ngoài các đơn vị hành chính này còn 2 thành phố trực thuộc trung ương (MoskvaSankt-Peterburg). Gần đây nhất, 7 vùng liên bang lớn về diện tích (4 vùng ở châu Âu và 3 vùng ở châu Á) đã được bổ sung như một thể chế hành chính giữa các thể chế hành chính nói trên và cấp độ quốc gia.

Địa lý

Bản đồ địa lí tự nhiên của Nga

Liên bang Nga trải dài trên phần phía bắc của siêu lục địa Á-Âu. Tuy rằng Nga chiếm phần lớn khu vực Bắc cực và cận Bắc cực nhưng có ít hơn về dân số, hoạt động kinh tế cũng như các sự đa dạng vật lý trên một đơn vị diện tích so với phần lớn các khu vực khác, phần lớn diện tích ở phía nam của khu vực này có phong cảnh và khí hậu đa dạng hơn. Phần lớn đất đai Nga là các đồng bằng rộng lớn, ở cả châu Âu và châu Á, được biết đến như là Siberi. Các đồng bằng này chủ yếu là thảo nguyên về phía nam và rừng rậm về phía bắc, với các tundra (lãnh nguyên) dọc theo bờ biển phía bắc. Các dãy núi chủ yếu nằm ở biên giới phía nam, chẳng hạn như Kavkaz (ở đây có đỉnh Elbrus, là điểm cao nhất thuộc Nga và châu Âu với cao độ 5.633 m) và dãy núi Altai, cũng như ở phần phía đông, chẳng hạn như dãy Verkhoyansk hoặc các núi lửa trên Kamchatka. Dãy Ural, là một dãy núi chạy theo hướg bắc-nam, tạo ra sự phân chia cơ bản giữa châu Âu và châu Á cũng là một dãy núi nổi tiếng.

Nga có đường bờ biển dài trên 37.000 km dọc theo Bắc Băng DươngThái Bình Dương,[59] cũng như dọc theo các biển mang tính trong nội địa ít hay nhiều như biển Baltic, biển Đenbiển Caspi. Một số các biển nhỏ hơn là các phần của các đại dương như biển Barents, Bạch Hải, biển Kara, biển Laptevbiển Đông Siberi là các phần của Bắc Băng Dương, trong khi các biển như biển Bering, biển Okhotskbiển Nhật Bản thuộc về Thái Bình Dương. Các đảo chính bao gồm Novaya Zemlya, mũi Franz-Josef, quần đảo Tân Siberi, đảo Wrangel, quần đảo KurilSakhalin. (Xem ).

Nhiều con sông chảy qua nước Nga. Xem thêm các .

Các hồ chính bao gồm hồ Baikal, hồ Ladoga, biển hồ Caspihồ Onega. Xem Danh sách các hồ ở Nga.

Nội địa Trung Nga gần Zaraysk, Moscow Oblast
Dãy Đại Caucasus gần Dombay, Karachay-Cherkessia
Các đồng bằng phía Tây Siberia, Sông Vasyugan, Tomsk Oblast.
Rừng Taiga mùa đông, Arkhangelsk Oblast.

Biên giới

Cách thức thực tế phổ biến nhất để miêu tả nước Nga là miêu tả phần chính (phần tiếp giáp lớn với các quần đảo hay đảo ngoài biển của nó) và phần tách rời (khu vực Kaliningrad ở phía đông nam của biển Baltic).

Biên giới của phần chính và các bờ biển (bắt đầu từ phần xa nhất về phía tây bắc và tính ngược chiều kim đồng hồ) là:

Phần tách rời là tỉnh Kaliningrad, tỉnh này có

  • chung biên giới với
    • Ba Lan ở phía nam tỉnh này và
    • Litva về phía bắc và đông tỉnh này, và
  • bờ biển phía tây bắc nhìn ra biển Ban tích.

Các bờ biển thuộc các biển Balticbiển Đen của Nga có đường giao lưu ra đại dương ít trực tiếp và rắm rối hơn so với các bờ biển thuộc Thái Bình Dương và Bắc Băng Dương, nhưng cả hai đều có vai trò quan trọng. Biển Ban tích cho phép Nga có giao thương đường biển nhanh chóng với 9 quốc gia có chung bờ biển này cũng như giữa phần lục địa chính của Nga với tỉnh Kaliningrad. Thông qua eo biển nằm trong Đan Mạch, và giữa nó với Thụy Điển thì biển Ban tích thông ra biển BắcĐại Tây Dương về phía tây và bắc của nó. Biển Đen cho phép Nga có giao thương đường biển nhanh chóng với 5 quốc gia khác có chung bờ biển, thông qua các eo biển DardanellesMarmora liền kề với Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ để nối vào Địa Trung Hải với nhiều quốc gia có bờ biển ở đó và thông qua kênh đào Suez để sang Ấn Độ Dươngeo biển Gibraltar để sang Đại Tây Dương. Biển Caspi, hồ nước mặn lớn nhất thế giới, không có đường giao thông với biển cả.

Phạm vi không gian

Hai điểm xa nhau nhất tại Nga cách nhau khoảng 8.000 km trên đường trắc địa (geodesic). Một trong hai điểm này nằm trên biên giới với Ba Lan, trên một khoảng đất dài 60 km chia vịnh Gdansk với phá Vistula. Còn điểm kia nằm tại cực đông-nam của quần đảo Kuril, chỉ vài dặm cạnh đảo Hokkaido của Nhật.

Để diễn tả sự to lớn này, người ta thường nói là Nga bao trùm 11 múi giờ. Tuy nhiên, sự diễn tả này có thể gây nhầm lẫn vì hai điểm xa nhau nhất nếu tính theo kinh tuyến chỉ cách nhau 6.600 km trên đường trắc địa. Một trong hai điểm này nằm trên biên giới với Ba Lan (nói bên trên); còn điểm kia nằm trên quần đảo Diomede (đảo Ratmanova). Và hơn nữa, chính phủ Nga đã quyết định giảm số múi giờ từ 11 xuống 9, thậm chí là 5 để phát triển kinh tế. [60]

Khí hậu

Khí hậu Liên bang Nga được hình thành dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố xác định. Diện tích to lớn của đất nước và sự xa tách khỏi biển của nhiều vùng dẫn tới một kiểu khí hậu lục địa ẩmcận Bắc Cực, là kiểu khí hậu phổ biến ở châu Âu và vùng châu Á của Nga ngoại trừ lãnh nguyên và vùng cực đông nam. Các dãy núi ở phía nam ngăn chặn các khối không khí ấm từ Ấn Độ Dương, trong khi đồng bằng phía tây và phía bắc khiến nước này mở rộng với những ảnh hưởng từ Bắc CựcĐại Tây Dương.[61]

Một khu rừng bulô tại Siberia, Novosibirsk Oblast. Bulô là loại cây quốc gia của Nga.

Trên hầu khắp lãnh thổ chỉ có hai mùa riêng biệt — mùa đông và mùa hè, mùa xuân và mùa thu thường chỉ là những giai đoạn thay đổi ngắn giữa thời tiết cực thấp và cực cao.[61] Tháng lạnh nhất là tháng 1 (tháng 2 trên bờ biển), tháng ấm nhất thường vào tháng 7. Sự chênh lệch nhiệt độ lớn là điều thông thường. Vào mùa đông, nhiệt độ lạnh đi cả từ phía nam tới phía bắc và từ phía tây tới phía đông. Mùa hè có thể khá nóng và ẩm, thậm chí tại Siberia. Một phần nhỏ của bờ Biển Đen quanh Sochikhí hậu cận nhiệt đới.[62] Những vùng nội địa là những nơi khô nhất.

Động thực vật

Từ bắc xuống nam Đồng bằng Đông châu Âu, cũng được gọi là Đồng bằng Nga, bị bao phủ trong lãnh nguyên Bắc Cực, những cánh rừng tùng bách (taiga), những cánh rừng lá rộng và pha trộn, đồng cỏ (thảo nguyên), và bán sa mạc (bao quanh Biển Caspian), bởi những thay đổi trong thực vật phản ánh những thay đổi trong khí hậu. Siberia cũng có một mô hình tương tự nhưng chủ yếu là taiga. Nga có trữ lượng rừng lớn nhất thế giới,[10] được gọi là "lá phổi của châu Âu",[63] đứng thứ hai chỉ sau Rừng mưa Amazon về khối lượng hấp thụ carbon dioxide. Những cánh rừng Nga sản xuất ra một khối lượng lớn ôxy không chỉ cho châu Âu mà cho toàn thế giới.

Gấu xám là một biểu tượng của Nga.
Nơi sinh sống tự nhiên của Hổ Amur là vùng Viễn Đông Nga.

266 loài có vú780 loài chim tại Nga. Tổng cộng 415 loài thú đã được đưa vào Sách Đỏ Nga vào năm 1997,[64] và hiện đang được bảo vệ.

Kinh tế

Sản xuất cấp vùng trên đầu người năm 2007 (sẫm màu là cao hơn).
Một nông trại nhỏ tại Malinovka.

Hơn một thập kỷ sau sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991, Nga vẫn còn đang cố gắng để thiết lập một nền kinh tế thị trường và để thu được sự phát triển kinh tế bền vững. Trong 5 năm đầu nền kinh tế Nga đã phát triển không ổn định do các cơ quan hành pháplập pháp còn nhiều bất đồng trong việc hoàn thiện công cuộc cải cách và các nền tảng công nghiệp của Nga chịu sự suy thoái nặng nề. Ngoài ra, sự thiếu hụt thực phẩm năm 1987, mà hậu quả của nó là đã phải cần đến sự trợ giúp quốc tế trên bình diện rộng, đã làm tổn thương nghiêm trọng lòng tự hào cũng như nền kinh tế nói chung của nước Nga mới ra đời.

Tuy thế, mặc dù không hiệu quả trong điều kiện kinh tế thị trường và khẩu vị của người tiêu dùng nhưng nền kinh tế cựu Xô viết nói chung đã được chấp nhận là đã tạo cho người dân Nga nói chung có mức sống tiêu chuẩn kể từ sau những năm giữa thập niên 1950 cao hơn so với công dân của của nhiều quốc gia đã phát triển theo định hướng tư bản và kinh tế thị trường như Mexico, Brasil, Ấn ĐộArgentina.

Nạn mù chữ trên thực tế là không tồn tại[cần dẫn nguồn], giáo dục cao học là rất tốt và thích hợp[cần dẫn nguồn], nạn thất nghiệp trên thực tế không tồn tại, và trong các quan hệ giới tính thì Nga đã thuộc về trong nhóm các quốc gia có sự công bằng nhất trên thế giới với phụ nữ[cần dẫn nguồn], đôi khi họ còn tiến xa hơn nam giới trong con đường công danh sự nghiệp[cần dẫn nguồn], đặc biệt là trong khoa học. Nhiều gia đình có ô tô, ti vi, máy ghi âm, và có thể đi du lịch bằng máy bay ít nhất một lần trong năm tới những nhà nghỉ ven biển nổi tiếng.

Tuy thế, các chủng loại hàng tiêu dùng (cụ thể là quần áo và lương thực, thực phẩm) là tương đối đơn giản, và sự thiếu hụt của hàng tiêu dùng trong gia đình đã bị kêu ca nhiều ở các khu vực thành thị, mặc dù các khu nhà ổ chuột với điều kiện vệ sinh tồi tàn là hiếm.

Sau sự tan rã của Liên Xô, sự phục hồi nhỏ của Nga dưới ảnh hưởng của kinh tế thị trường lần đầu tiên diễn ra vào khoảng năm 1997. Trong năm đó, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã lên đến điểm đỉnh trong việc phá giá của đồng rúp vào tháng 8 năm 1998, làm cho chính phủ bị vỡ nợ và làm suy giảm trầm trọng mức sống tiêu chuẩn của phần lớn dân chúng. Vì thế, năm 1998 cũng đã được ghi nhận như là năm của suy thoái và sự tăng cường rút vốn ra khỏi nền kinh tế.

Một trạm xăng của Rosneft. Nga là nhà xuất khẩu khí tự nhiên lớn nhất và nhà xuất khẩu dầu mỏ đứng thứ hai thế giới.

Tuy nhiên, nền kinh tế Nga đã phục hồi vừa phải trong năm 1999. Kinh tế Nga đã đi vào trong giai đoạn phát triển nhanh, GDP tăng trưởng trung bình 6,8% trên năm trong giai đoạn 1999-2004 trên cơ sở của giá dầu mỏ cao, đồng rúp yếu, và tăng trưởng của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Nhưng sự phát triển kinh tế này là cực kỳ không đều: khu vực thủ đô Moskva cung cấp tới 30% GDP của toàn quốc.

Sự phục hồi kinh tế này cùng với cố gắng cải tổ của chính quyền trong các năm 2000-2001 để thúc đẩy cải cách về cấu trúc đang bị thụt lùi, đã làm tăng sự tin cậy của các nhà kinh doanh và đầu tư về triển vọng của nền kinh tế Nga trong thập niên thứ hai của thời kỳ chuyển đổi. Nga vẫn dựa chủ yếu vào xuất khẩu hàng hóa, cụ thể là dầu mỏ, khí đốt, kim loại và gỗ, các mặt hàng này chiếm trên 80% kim ngạch xuất khẩu, điều này làm cho Nga dễ bị thương tổn vì các biến động giá cả trên thị trường quốc tế. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Nga đã nhắm nhiều hơn vào nhu cầu về các mặt hàng tiêu dùng trong nước, là lĩnh vực có mức tăng trưởng trên 12% mỗi năm trong giai đoạn 2000-2004, chỉ ra sự lớn mạnh dần lên của thị trường nội địa.

Năm 2004, GDP của Nga đạt 1.200 tỷ € (1.500 tỷ USD), làm cho Nga trở thành nền kinh tế lớn thứ 11 trên thế giới và thứ 5 ở châu Âu. Nếu mức tăng trưởng hiện tại là ổn định, dự kiến Nga sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ hai ở châu Âu sau Đức (1.900 tỷ € hay 2.300 tỷ USD) và là thứ 8 trên thế giới trong vài năm tới.

Thách thức lớn nhất đối với Nga là các biện pháp để thúc đẩy sự phát triển của các xí nghiệp nhỏ và vừa (SME) trong điều kiện môi trường kinh doanh với hệ thống ngân hàng trẻ và khác thường, được nắm giữ bởi các ông trùm Nga (oligarch). Nhiều ngân hàng Nga là sở hữu của các nhà doanh nghiệp hay các ông trùm, là những người thông thường sử dụng các khoản tiền gửi ở ngân hàng để cho các doanh nghiệp của chính mình vay mượn.

Ngân hàng tái thiết và phát triển châu Âu (EBRD) và Ngân hàng thế giới (WB) đã có những cố gắng để kích hoạt khởi động các hoạt động ngân hàng thông thường bằng cách cấp vốn và mua lại các khoản nợ trong một số ngân hàng nhưng thành tựu thu được là rất không đáng kể.

Các vấn đề khác bao gồm sự phát triển mất cân bằng giữa các khu vực của Nga. Trong khi khu vực thủ đô Moskva là hối hả, có cuộc sống thịnh vượng với thu nhập trên đầu người nhanh chóng đạt tới mức của các nền kinh tế hàng đầu châu Âu thì phần lớn các khu vực còn lại, đặc biệt là ở các vùng nông thôn và khu vực của người thiểu số ở châu Á, đã bị tụt lại đằng sau rất nhiều. Sự phân hóa thời kinh tế thị trường cũng cảm nhận được ở các thành phố lớn khác như Sankt-Peterburg, KaliningradEkaterinburg.

Trung tâm Thương mại quốc tế Mát-xcơ-va, Nga.

Thúc đẩy đầu tư nước ngoài cũng là một thách thức lớn. Ngoài ra, Nga cũng được hưởng lợi từ việc tăng giá dầu mỏ và vì thế có khả năng thanh toán các khoản nợ khổng lồ cũ. Sự phân bổ công bằng các thu nhập từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên này từ công nghiệp cho các lĩnh vực khác cũng là một vấn đề. Việc định hướng cho người tiêu dùng và thúc đẩy chi tiêu vào hàng tiêu dùng là một việc khá khó khăn đối với nhiều khu vực ở các tỉnh, khi mà ở các khu vực này nhu cầu tiêu dùng rất đơn giản, mặc dù đã có nhiều tiến bộ đáng khen ngợi đã được thực hiện ở các thành phố lớn, đặc biệt là trong các lĩnh vực như may mặc, lương thực, thực phẩm, công nghiệp giải trí.

Việc bắt giữ nhà kinh doanh giàu có nhất Nga khi đó là Mikhail Khodorkovsky với các tội quy kết là gian lận và tham nhũng trong quá trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn dưới thời tổng thống Boris Yeltsin đã làm cho nhiều nhà đầu tư nước ngoài e ngại về tính ổn định của nền kinh tế Nga. Phần lớn những người giàu có nhất ở Nga hiện nay là nhờ việc mua bán các doanh nghiệp nhà nước khi đó với giá rẻ như bèo. Các quốc gia khác cũng bày tỏ sự e ngại và lo lắng với việc áp dụng "có lựa chọn" của luật pháp đối với các doanh nghiệp tư nhân.

Tuy nhiên, một số tập đoàn quốc tế đã đầu tư rất lớn vào Nga. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Nga có khoảng 26 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp tích lũy của người nước ngoài trong giai đoạn 2001-2004 (trong đó 11,7 tỷ USD diễn ra trong năm 2004).

Công nghiệp

Theo kết quả khảo sát do Trung tâm nghiên cứu vĩ mô (CMR) của ngân hàng Sberbank của Nga công bố thì "nền tảng công nghiệp Nga hiện đã lỗi thời". Gần 60% các xí nghiệp Nga cần nâng cấp trang thiết bị trong vòng 3 năm tới để duy trì hoạt động cũng như thị phần nội địa trong lúc hàng công nghiệp Nga đã, đang và sẽ không có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới trong tương lai gần. Có tới 36% xí nghiệp được hỏi ý kiến cho biết họ không có kế hoạch mở rộng sản xuất trong vòng 5 năm tới; 38% nói có lẽ họ sẽ mở rộng trên thị trường nội địa; 19% nhắm vào các thị trường gần là các nước thành viên Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) và chỉ có 9% có kế hoạch mở rộng kinh doanh ra thị trường thế giới trong dài hạn. Gần 83% xí nghiệp Nga được hỏi ý kiến nói họ chỉ có thể bán sản phẩm trên thị trường trong nước, trong khi 88% nói nguồn cung chủ yếu cho xí nghiệp về nguyên liệu và thiết bị là nguồn cung nội địa. Bà Nadezhda Ivanova là đồng tác giả của công trình nghiên cứu cho rằng: "Có một thực tế là nhiều sản phẩm của các doanh nghiệp chế tạo Nga không thể bán được ở các nước khác. Chất lượng kém của các sản phẩm này cho thấy các doanh nghiệp đó không có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới".[65]

Theo Cơ quan thống kê Liên bang Nga (Rosstat), sản lượng công nghiệp Nga đã tăng trưởng ì ạch trong 4 tháng liên tiếp kể từ đầu năm 2011 đến nay và chỉ tăng có 4,1% trong tháng 5/2011 so với cùng kỳ năm ngoái. Phần lớn lĩnh vực chế tạo Nga hiện đang ở tình trạng kém phát triển và hơn 2/3 xí nghiệp được CMR khảo sát nói trang thiết bị của họ là tồi hoặc trung bình. Chỉ có 26% xí nghiệp nâng cấp trang thiết bị trong vòng 5 năm qua, trong khi 30% cho biết trang thiết bị của họ là không thay đổi kể từ trước năm 1991.[66]

Tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov của quân đội Nga.

Trong thời Chiến tranh Lạnh, tổ hợp công nghiệp quốc phòng của Liên Xô đảm bảo duy trì nền quân sự Xô viết mạnh mẽ với nguồn ngân sách thường chiếm từ 15-25% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Liên Xô. Công nghiệp vũ khí của Nga là khu vực hiện đại nhất và nằm trong định hướng xuất khẩu của Nga. Nếu Trung QuốcẤn Độ thực sự vượt qua ngành công nghiệp vũ khí của Nga thì tình trạng suy giảm của công nghiệp vũ khí sẽ dẫn đến khủng hoảng thất nghiệp ở Nga và hạn chế phát triển các công nghệ đem lại lợi nhuận cao.[67]

Năng lượng

Turbin của nhà máy điện hạt nhân Balakovo của Nga năm 2004.

Nga được thừa nhận là một siêu cường năng lượng. Nước này có dự trữ khí tự nhiên lớn nhất thế giới, trữ lượng dầu mỏ đứng thứ tám, thứ hai về trữ lượng than. Nga là nhà xuất khẩu khí tự nhiênnhà sản xuất khí tự nhiên hàng đầu thế giới, dù thỉnh thoảng Nga và Ả Rập Saudi thay đổi vị trí về tiêu chí sau.

Nga là nước sản xuất điện hàng thứ 4 thế giớinhà sản xuất năng lượng tái tạo hàng thứ 5 thế giới, tiêu chí sau nhờ nước này đã phát triển mạnh việc sản xuất thuỷ điện. Những nhà máy thuỷ điện lớn đã được xây dựng ở vùng châu Âu của Nga dọc theo các con sông như Volga. Vùng châu Á của Nga cũng có một số nhà máy thuỷ điện lớn, tuy nhiên, tiềm năng thuỷ điện vĩ đại của SiberiaViễn Đông Nga phần lớn vẫn chưa được khai thác.

Nga là nước đầu tiên phát triển lò phản ứng hạt nhân dân sự và xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên. Hiện tại, Nga là nhà sản xuất điện hạt nhân đứng thứ 4. Rosatom Nuclear Energy State Corporation quản lý toàn bộ các nhà máy điện hạt nhân tại Nga. Năng lượng hạt nhân đang phát triển nhanh chóng tại Nga, với mục tiêu tăng tổng thành phần năng lượng hạt nhân từ mức 16.9% hiện nay lên 23% vào năm 2020. Chính phủ Nga có kế hoạch chi 127 tỷ rubles ($5.42 triệu) cho một chương trình liên bang để phát triển việc sản xuất năng lượng hạt nhân thế hệ tiếp theo. Khoảng 1 nghìn tỷ ruble ($42.7 triệu) đã được chi từ ngân sách liên bang cho việc phát triển năng lượng hạt nhân và phát triển công nghiệp trước năm 2015.[68] Nga vẫn là một trong những nước đứng đầu thế giới về công nghệ hạt nhân và là một thành viên của dự án lò phản ứng hạt nhân quốc tế.

Khoa học và kỹ thuật

Buồng lái máy bay IL-96 300 hiện đại của Nga

Từ đầu thế kỷ 18 những cuộc cải cách của Pyotr Đại đế (người sáng lập Viện Hàn lâm Khoa học NgaĐại học Nhà nước Saint Petersburg) và những đóng góp của những người từng tốt nghiệp tại đó như học giả Mikhail Lomonosov (người sáng lập Đại học Quốc gia Moscow) đã giúp nước Nga có được sự phát triển mạnh trong khoa học và phát minh. Trong thế kỷ 19 và 20 nước này đã sản sinh ra một lượng lớn các nhà khoa học và nhà phát minh. Nikolai Lobachevsky, một Copernicus trong hình học, đã phát triển hình học phi Euclid. Dmitri Mendeleev phát minh ra Bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học, khuôn khổ chính của hoá học hiện đại. Gleb Kotelnikov phát minh ra ba lô, trong khi Evgeniy Chertovsky phát minh ra quần áo điều áp. Pavel YablochkovAlexander Lodygin là những nhà tiên phong vĩ đại trong kỹ thuật điện và là những nhà phát minh của những đèn điện đầu tiên. Alexander Popov là một trong những người phát minh radio, trong khi Nikolai BasovAlexander Prokhorov là hai người đồng phát minh ra tia lasermaser. Igor Tamm, Andrei SakharovLev Artsimovich đã phát triển ý tưởng tokamak để kiểm soát phản ứng tổng hợp hạt nhân và tạo ra nguyên mẫu đầu tiên của nó, sau này dẫn tới dự án ITER. Nhiều nhà khoa học và phát minh nổi tiếng của Nga là người di cư, như Igor SikorskyVladimir Zworykin, và nhiều nhà khoa học nước ngoài cũng đã làm việc ở Nga một thời gian dài như Leonard EulerAlfred Nobel.

Các thành tựu lớn nhất của Nga thuộc lĩnh vực công nghệ vũ trụthám hiểm vũ trụ. Konstantin Tsiolkovsky là cha đẻ của lý thuyết hàng không vũ trụ[69]. Các tác phẩm của ông đã tạo cảm hứng cho những kỹ sư tên lửa hàng đầu của Liên xô như Sergey Korolyov, Valentin Glushko và nhiều người khác đóng góp vào sự thành công của Chương trình Vũ trụ Liên xô ở những giai đoạn đầu của cuộc Chạy đua vào không gian. năm 1957 vệ tinh nhân tạo đầu tiên bay quanh Trái đất, Sputnik 1, được phóng lên; năm 1961 ngày 12 tháng 4 chuyến bay đầu tiên của loài người vào vũ trụ đã được Yuri Gagarin thực hiện thành công; và nhiều người Liên xô và Nga khác đã thực hiện kỷ lục thám hiểm vũ trụ. Hiện nay Nga là nước phóng vệ tinh lớn nhất [70] và cũng là nước duy nhất cung cấp các dịch vụ du lịch vũ trụ.

Soyuz TMA-2 đang được chuyển tới bệ phóng, mang theo phi đoàn thường trực đầu tiên lên Trạm Vũ trụ Quốc tế.

Các công nghệ khác, nơi người Nga có lịch sử phát triển, gồm công nghệ hạt nhân, sản xuất máy baycông nghệ quốc phòng. Việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên cùng các lò phản ứng hạt nhân đầu tiên cho tàu ngầmtàu hoạt động trên mặt nước nằm dưới sự chỉ đạo của Igor Kurchatov. Một số nhà kỹ thuật hàng không nổi bật của Liên xô, có cảm hứng từ các tác phẩm lý thuyết của Nikolai Zhukovsky, đã giám sát việc chế tạo hàng chục model máy bay quân sự và dân sự và đã thành lập một số KBs (Phòng thiết kế) hiện là thành phần chủ yếu của Liên đoàn Hàng không Hợp nhất. Các máy bay nổi tiếng của Nga gồm máy bay chở khách siêu âm đầu tiên Tupolev Tu-144 của Alexei Tupolev, loạt máy bay chiến đấu MiG của Artem MikoyanMikhail Gurevich, và loạt máy bay Su của Pavel Sukhoi cùng những người kế tục ông. Những xe tăng chiến trường nổi tiếng của Nga gồm T-34, thiết kế tăng tốt nhất của Thế chiến II,[71] và các xe tăng khác thuộc loạt T-. Súng AK-47AK-74 của Mikhail Kalashnikov là loại súng tấn công được sử dụng rộng rãi nhất tên thế giới - tới mức các khẩu súng thuộc kiểu AK đã được chế tạo nhiều hơn tất cả các loại súng tấn công khác cộng lại.[72][73] Với những vũ khí đó cộng với các loại vũ khí khác, từ lâu Nga đã là một trong những nhà cung cấp vũ khí hàng đầu, chiếm khoảng 30% doanh số vũ khí thế giới[50] và xuất khẩu vũ khí tới khoảng 80 quốc gia.[51] Tuy nhiên theo Tư lệnh lục quân Nga Alexander Postnikov thì vũ khí và trang thiết bị quân sự do các nhà máy quốc phòng của Nga sản xuất trang bị cho lục quân lạc hậu hơn nhiều so với hệ thống tương tự của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và thậm chí thua cả Trung Quốc.[74]

Sukhoi Superjet 100 là máy bay dân dụng mới nhất do ngành công nghiệp máy bay Nga thiết kế, phát triển và liên kết sản xuất với phương Tây.

Tuy nhiên, dù có những thành tựu công nghệ đó, từ thời trì trệ Brezhnev Nga đã tụt hậu khá nhiều so với phương Tây trong một số ngành kỹ thuật, đặc biệt là trong tiết kiệm năng lượng và sản xuất hàng tiêu dùng. Cuộc khủng hoảng hồi những năm 1990 đã khiến khoản hỗ trợ cho khoa học của nhà nước sụt giảm mạnh. Nhiều nhà khoa học và những người có trình độ của Nga đã đi sang châu Âu hay Hoa Kỳ; cuộc di cư này được gọi là một cuộc chảy máu chất xám. Những năm 2000, với làn sóng bùng nổ kinh tế, tình hình khoa học và công nghệ ở Nga đã được cải thiện, và chính phủ đã tung ra một chiến dịch với mục tiêu hiện đại hoácải tiến. Tổng thống Nga Dmitry Medvedev đã đưa ra 5 ưu tiên hàng đầu cho việc phát triển công nghệ của đất nước: hiệu quả năng lượng, IT (gồm cả các sản phẩm thông thường và các sản phẩm kết hợp với công nghệ vũ trụ), năng lượng hạt nhândược.[75] Một số thành tựu đã xuất hiện, với việc nước Nga đã hầu như hoàn thành GLONASS, hệ thống hoa tiêu vệ tinh duy nhất ngoài GPS của Mỹ, và Nga là nước duy nhất xây dựng nhà máy điện hạt nhân di động.

Mặc dù là nhà xuất khẩu vũ khí hàng đầu thế giới và đang đạt được những tiến bộ về phần mềm, nhưng các sản phẩm khác của nga lại thiếu tính cạnh tranh trên trường quốc tế. Doanh thu từ dầu mỏ và khí đốt đóng góp tới 25% GDP của Nga. Cải thiện về năng suất sẽ chủ yếu xuất phát từ công nghệ mới và đầu tư vốn hiệu quả nhưng cả hai điều này Nga đều đang thiếu.[76] Trong báo cáo trên của IBM, Nga chỉ đứng thứ 59 trong số 70 quốc gia về phát triển doanh nghiệp điện tử, thứ 98 trong số 134 quốc gia về sử dụng công nghệ mới nhất trong các doanh nghiệp.[77]

Nhân khẩu

Thành phần sắc tộc (2002)[78]
Người Nga 79.8%
Tatar 3.8%
Người Ukraina 2.0%
Bashkir 1.2%
Chuvash 1.1%
Chechen 0.9%
Người Armenia 0.8%
Khác/không xác định 10.4%
Dân số (đơn vị triệu người) 1950 – 1991 của Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga trong Liên xô, 1991 – tháng 1 năm 2009 của Liên bang Nga.[79]

Liên bang Nga là một xã hội đa sắc tộc đa dạng, là nơi sinh sống của 160 nhóm sắc tộc và người bản xứ khác nhau.[80] Dù dân số Nga khá lớn, mật độ dân số thấp bởi diện tích vĩ đại của nước này.[81] Dân số tập trung đông nhất tại vùng châu Âu của Nga, gần dãy Ural, và ở phía tây nam Siberia. 73% dân số sống tại các khu vực đô thị.[82] Theo những ước tính sơ bộ, dân số sống thường xuyên tại Liên bang Nga ở thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 2009 là 141,903,979 người. Năm 2008, dân số giảm 121,400 người, hay -0.085% (năm 2007 – 212,000 người, hay 0.15% và năm 2006 – 532,600 người, hay 0.37%). Trong năm 2008 nhập cư tiếp tục gia tăng ở mức độ 2.7% với 281,615 người tới Nga, trong số đó 95% tới từ các quốc gia thuộc CIS, đại đa số là người Nga hay người nói tiếng Nga.[83][79] Số lượng người Nga di cư đã giảm 16% xuống còn 39,508 người, trong số đó 66% tới các quốc gia thuộc CIS. Ước tính có 10 triệu người nhập cư bất hợp pháp từ các quốc gia Xô viết cũ ở Nga.[84] Khoảng 116 triệu người sắc tộc Nga sống ở Nga[85] và khoảng 20 triệu người nữa sống tại các nước cộng hoà cũ của Liên xô, chủ yếu tại UkrainaKazakhstan.[86]

Số người nói tiếng Nga đông nhất năm 1991 ở mức 148,689,000 triệu người, nhưng bắt đầu sụt giảm mạnh từ đầu những năm 90.[87] Sự sụt giảm đã chậm lại tới mức gần ồn định trong những năm gần đây vì tỷ lệ tử giảm, tỷ lệ sinh tăng và tăng nhập cư. Số người chết trong năm 2008 là 363,500 lớn hơn số sinh. Nó đã giảm từ 477,700 năm 2007, và 687,100 năm 2006.[83][79] Theo dữ liệu được Sở Thống kê Nhà nước Liên bang Nga xuất bản, tỷ lệ tử của Nga đã giảm 4% trong năm 2007, so với năm 2006, ở mức khoảng 2 triệu người chết, trong khi tỷ lệ sinh tăng 8.3% hàng năm lên ước tính 1.6 triệu ca sinh.[88] Các nguyên nhân chủ yếu khiến dân số Nga giảm sút là tỷ lệ tử cao và tỷ lệ sinh thấp. Tuy tỷ lệ sinh của Nga ngang bằng với các quốc gia châu Âu (12.1 sinh trên 1000 người năm 2008[79] so với mức trung bình của Liên minh châu Âu 9.90 trên 1000)[89] dân số của họ giảm với tỷ lệ lớn hơn bất kỳ một quốc gia châu Âu nào khác bởi tỷ lệ tử cao hơn nhiều (năm 2008, tỷ lệ tử của Nga là 14.7 trên 1000 người[79] so sánh với mức trung bình của Liên minh châu Âu 10.28 trên 1000).[90] Tuy nhiên, Bộ Y tế và Vấn đề Xã hội Nga đã dự đoán tới năm 2011, tỷ lệ tử của nước này sẽ cân bằng với tỷ lệ sinh vì số sinh gia tăng và số tử giảm.[91]

Ngôn ngữ

Các quốc gia có sử dụng tiếng Nga.

160 nhóm sắc tộc của Nga sử dụng khoảng 100 ngôn ngữ.[4] Theo cuộc điều tra dân số năm 2002, 142.6 triệu người nói tiếng Nga, tiếp sau là tiếng Tatar với 5.3 triệu và tiếng Ukraina với 1.8 triệu.[92] Tiếng Nga là ngôn ngữ chính thức duy nhất của nhà nước, nhưng Hiến pháp trao cho các nước cộng hoà riêng biệt quyền đưa ngôn ngữ bản địa của mình trở thành ngôn ngữ đồng chính thức bên cạnh tiếng Nga.[93] Dù có sự phân tán mạnh, tiếng Nga là thuần nhất trên toàn bộ nước Nga. Tiếng Nga là ngôn ngữ được sử dụng nhiều nhất nếu tính theo diện tích địa lý trên lục địa Âu Á và cũng là ngôn ngữ Slavơ được sử dụng nhiều nhất.[94] Tiếng Nga thuộc ngữ hệ Ấn Âu và là một trong những thành viên còn tồn tại của các ngôn ngữ Đông Slavơ; các ngôn ngữ khác gồm tiếng Belarustiếng Ukraina (và có lẽ cả tiếng Rusyn). Những ví dụ văn bản sử dụng chữ Đông Slavơ Cổ (Nga Cổ) được chứng minh có từ thế kỷ thứ 10 trở về sau.[95]

Theo người Nga thì hơn một phần tư tác phẩm khoa học của thế giới được xuất bản bằng tiếng Nga. Tiếng Nga cũng được sử dụng làm công cụ mã hoá và lưu trữ văn minh thế giới—60–70% của mọi thông tin trên thế giới được xuất bản bằng tiếng Anh và tiếng Nga.[96] Tiếng Nga cũng là một trong sáu ngôn ngữ chính thức của Liên hiệp quốc.

Giáo dục

Nga có một hệ thống giáo dục miễn phí đảm bảo cho mọi công dân theo hiến pháp,[97] và có tỷ lệ biết chữ 99.4%. Đầu vào cao học có tính cạnh tranh rất cao.[98] Như một kết quả của sự ưu tiên hàng đầu cho khoa học và kỹ thuật trong giáo dục, y tế, toán học, khoa học và khoa học vũ trụ Nga nói chung có mức độ phát triển cao.[99][100]

Trước năm 1990 quá trình học tập ở Liên xô dài 10 năm. Nhưng vào cuối năm 1990 thời gian học 11 năm đã được chính thức áp dụng. Giáo dục tại các trường cấp hai của nhà nước là miễn phí; giáo dục đầu cấp ba (mức đại học) cũng là miễn phí với việc dành trước: một phần lớn sinh viên được tuyển được bao cấp hoàn toàn (nhiều định chế nhà nước bắt đầu mở các khoá thương mại từ những năm gần đây[101]). Năm 2004 chi tiêu quốc gia dành cho giáo dục chiếm 3.6% GDP, hay 13% tổng ngân sách nhà nước[102] trong khi ở Mỹ là 7.2 % GDP và Nga thua cả Việt Nam (8.3% GDP)[103]. Chính phủ bố trí các khoản tiền để trả học phí theo một hạn mức được lập sẵn, hay số lượng sinh viên cho mỗi trường của nhà nước. Điều này được coi là cơ bản bởi nó cung cấp cơ hội tiếp cận cao học cho các sinh viên có khả năng, chứ không phải chỉ cho những người có tiền trả. Ngoài ra, các sinh viên được trả một khoản học bổng nhỏ và được cung cấp nơi ở miễn phí. Ngoài các cơ sở giáo dục cao học của nhà nước, nhiều cơ sở tư nhân cũng đã xuất hiện và cung cấp lực lượng nhân lực chất lượng cao cho các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ mới và kinh tế.[104]

Y tế

Tập tin:Imma9.png
Một phòng khám tại Nga năm 2008

Hiến pháp Nga đảm bảo chăm sóc y tế phổ thông, miễn phí cho mọi công dân.[105] Tuy nhiên, trên thực tế chăm sóc sức khoẻ miễn phí bị giới hạn một phần bởi chế độ propiska.[106][107] Tuy Nga có số cơ sở y tế, bệnh viện và nhân viên y tế lớn hơn hầu hết các quốc gia khác khi tính theo đầu người,[108][109] từ khi Liên xô sụp đổ sức khoẻ dân chúng Nga đã suy giảm nghiêm trọng vì những thay đổi kinh tế, xã hội và phong cách sống.[110] Ở thời điểm năm 2007, tuổi thọ trung bình tại Nga là 61.5 năm cho nam và 73.9 năm cho nữ.[111] Tổng mức tuổi thọ trung bình của người Nga là 67.7 khi sinh, kém 10.8 năm so với con số tổng thể của cả Liên minh châu Âu.[112] Yếu tố lớn nhất dẫn tới mức tuổi thọ khá thấp của nam là tỷ lệ tử cao trong nam giới thuộc tầng lớp lao động vì những nguyên nhân có thể ngăn chặn (như, nhiễm độc rượu, stress, tai nạn giao thông, tội ác bạo lực). Tỷ lệ tử trong nam giới Nga đã tăng 60% từ năm 1991, cao hơn bốn lần của châu Âu.[113] Vì có sự khác biệt lớn giữa tuổi thọ của nam và nữ và bởi hiệu ứng còn lại từ Thế chiến II, theo đó Nga có số thiệt hại nhân mạng cao hơn bất kỳ nước nào trên thế giới, sự mất cân bằng giới tính vẫn còn lại tới ngày này và có 0.859 trên một nữ.

Xe cấp cứu do hãng xe Nga GAZelle chế tạo

Bệnh tim chiếm 56.7% tổng số tử vong, với khoảng 30% liên quan tới những người đang ở độ tuổi lao động. Một cuộc nghiên cứu cho thấy rượu chịu trách nhiệm cho hơn một nửa số tử vong (52%) của người dân Nga trong độ tuổi từ 15 tới 54 từ năm 1990 tới năm 2001. Với cùng mô hình nhân khẩu này, mức tử của toàn bộ thế giới vì rượu là 4%.[114] Khoảng 16 triệu người Nga mắc các bệnh tim mạch, khiến Nga đứng hàng thứ hai thế giới, sau Ukraina, trong lĩnh vực này.[113] Các tỷ lệ tử bởi giết người, tự tử và ung thư cũng đặc biệt cao.[115] 52% nam và 15% nữ hút thuốc, hơn 260,000 nhân mạng mất đi hàng năm vì sử dụng thuốc lá.[116] HIV/AIDS, rõ ràng không tồn tại trong thời kỳ Xô viết, đã nhanh chóng lan tràn sau khi Liên xô sụp đổ, chủ yếu bởi sự gia tăng chóng mặt nạn tiêm chích ma tuý.[117] Theo các thống kê chính thức, hiện có hơn 364,000 người Nga có HIV, nhưng những chuyên gia độc lập coi con số thực lớn hơn rất nhiều.[118] Trong những nỗ lực ngày càng gia tăng để chiến đấu với căn bệnh này, chính phủ đã tăng chi tiêu vào các biện pháp kiểm soát HIV gấp 20 lần năm 2006, và ngân sách năm 2007 đã tăng gấp đôi ngân sách năm 2006.[119] Từ khi Liên xô tan rã, cũng có sự gia tăng nhanh chóng về số ca và số tử vong vì bệnh lao, và bệnh này lan đặc biệt nhanh trong cộng đồng tù nhân.[120]

Trong một nỗ lực nhằm cứu vãn cuộc khủng hoảng nhân khẩu tại Nga, chính phủ hiện đang áp dụng một số chương trình được thiết kế để gia tăng tỷ lệ sinh thu hút thêm nhiều người nhập cư. Chính phủ đã tăng gấp đôi khoản trợ cấp hàng tháng cho trẻ em và cấp khoản chi một lần 250,000 Rubles (khoảng US$10,000) cho phụ nữ sinh đứa con thứ hai từ năm 2007.[121] Năm 2007, Nga có tỷ lệ sinh lớn nhất từ khi Liên xô tan rã.[122] Phó thủ tướng thứ nhất cũng đã nói khoảng 20 tỷ Ruble (khoảng US$1 triệu) sẽ được đầu tư vào các trung tâm chăm sóc tiền sinh sản tại Nga trong năm 2008–2009. Nhập cư ngày càng được coi là cần thiết để duy trì mức độ dân số quốc gia.[123]

Văn hóa

Ẩm thực

Ẩm thực đóng vai trò rất quan trọng trong xã hội Nga. Những ảnh hưởng của phương Tây đang có tác động đáng kể đến thói quen ăn uống và khẩu vị của người dân, khi các hãng McDonalds phát triển tràn lan, và các quán cà phê theo phong cách Paris xuất hiện trên các lề phố Moscow hay St.Petersburg. Tuy nhiên, những món ăn truyền thống và các đặc sản của Nga như rượu vodka hay bánh mì "karavai" vẫn giữ nguyên tầm quan trọng của chúng trong các bữa tiệc hay lễ lớn của Nga.[124]

Vào mùa đông, nhiệt độ có thể xuống tới -20 °C tại thủ đô Moscow, vì thế, các thức ăn béo, giàu năng lượng như bánh mì, trứng, hay sữa là rất cần thiết. Ngoài ra còn có những món đặc sản đặc biệt như schi (súp thịt bò và rau cải) hay borssh (súp củ cải đỏ với thịt lợn). Đôi khi người ta cũng ăn khoai tây nghiền, rán vào cuối bữa hoặc bliny, một loại bánh kếp ăn kèm với mật ong hoặc trứng cá.

Ngoài thức ăn, người Nga còn có nhiều đồ uống nổi tiếng trên thế giới như rượu vodka thường được làm từ lúa mạch đen hay lúa mỳ. Đôi khi nó còn được pha thêm tiêu, dâu hay chanh. Một đồ uống nổi tiếng khác là sbiten, được làm từ mật ong và thêm một chút hương liệu khác như dâu. Chè cũng là một thứ đồ uống nổi tiếng khác. Nó là một loại đồ uống truyền thống và đôi khi cũng được uống kèm sữa.

Tôn giáo

Một biểu tượng của sự phục hưng tôn giáo Nga, Thánh đường Đấng Ki-tô Cứu thế (Moscow), đã bị phá bỏ thời Xô viết được xây dựng lại năm 1990–2000 (Watch).

Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, Do Thái giáoPhật giáo là các tôn giáo truyền thống của Nga, được cho là một phần của "di sản lịch sử" Nga trong một điều luật được thông qua năm 1997.[125] Những con số ước tính về các tín đồ rất khác biệt tuỳ theo các nguồn, và một số báo cáo đưa ra con số người vô thần ở Nga là 16–48% dân số.[126] Chính thống giáo Nga là tôn giáo thống trị ở Nga.[127] 95% xứ đạo có đăng ký thuộc Giáo hội Chính thống Nga trong khi có một số Giáo hội Chính thống nhỏ hơn. Tuy nhiên, đa số tín đồ Chính thống không thường xuyên tới nhà thờ. Tuy thế, Nhà thờ được cả các tín đồ và người vô thần kính trọng và coi nó là một biểu tượng của di sản và văn hoá Nga.[128] Các phái Cơ đốc giáo nhỏ hơn như Công giáo La mã, và nhiều phái Tin Lành có tồn tại.

Tổ tiên của nhiều người Nga hiện nay đã chấp nhận Cơ Đốc giáo Chính thống ở thế kỷ thứ 10.[128] Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2007 do Bộ ngoại giao Mỹ xuất bản đã nói rằng có xấp xỉ 100 triệu công dân coi họ là tín đồ Giáo hội Chính thống Nga.[129] Theo một cuộc điều tra của Trung tâm Nghiên cứu Ý kiến Công chúng Nga, 63% người tham gia coi họ là tín đồ Chính thống Nga, 6% tự coi mình là tín đồ Hồi giáo và chưa tới 1% coi mình là tín đồ hoặc của Phật giáo, Công giáo La Mã, Tin lành hay Do Thái giáo. 12% khác nói họ tin vào Chúa, nhưng không thực hiện bất kỳ tôn giáo nào và 16% nói họ là người vô thần.[130]

Đền Mọi Tôn giáo trong thành phố Kazan đa văn hoá.

Ước tính Nga là nơi sinh sống của khoảng 15–20 triệu tín đồ Hồi giáo.[131][132] Tuy nhiên học giả Hồi giáo và nhà hoạt động nhân quyền Roman Silantyev đã tuyên bố rằng chỉ có 7 tới 9 triệu người theo Hồi giáo ở Nga.[133] Nga cũng có ước tính 3 tới 4 triệu người nhập cư Hồi giáo từ các nước cộng hoà hậu Liên xô.[134] Đa số tín đồ Hồi giáo sống ở vùng Volga-Ural, cũng như Bắc Caucasus, Moscow,[135] Saint PetersburgTây Siberia.[136] Phật giáo là truyền thống của ba vùng thuộc Liên bang Nga: Buryatia, Tuva, và Kalmykia.[137] Một số người sống ở Siberi và vùng Viễn Đông, Yakutia, Chukotka.. thực hiện các nghi thức Shaman, Thuyết phiếm thần cùng với các tôn giáo chính. Việc tham gia tôn giáo chủ yếu theo sắc tộc. Đại đa số người Slav theo Cơ Đốc giáo Chính thống. Những người nói tiếng Turkic chủ yếu là tín đồ Hồi giáo, dù một số nhóm Turkic tại Nga không theo.[138]

Các vấn nạn xã hội

Nước Nga là một trong những nước có làm sóng tội phạm cao nhất thế giới. Tỷ lệ giết người ở Nga cao gấp bốn lần so với ở Mỹ.[139] Vào năm 2001, 33.500 người đã bị giết hại. Tổng cộng, vào năm 2011, có hơn 3 triệu tội phạm được báo cáo. Từ trộm cắp thông thường đến tham nhũng, cướpbuôn lậu đã khiến làn sóng tội phạm ngày càng tăng. Mặc dù chính phủ Nga đã cam kết mạnh tay với tội phạm, tuy nhiên hành động này vẫn chẳng đem lại hiệu quả gì lớn.

Hàng giả cũng là một vấn đề khác gây đau đầu cho các nhà chức trách. Chính phủ Nga ước tính đến 90% hàng hóa bán lưu thông đều không rõ nguồn gốc rõ ràng. Các thiết bị điện tử chủ yếu được nhập khẩu bất hợp pháp từ Đông Nam Á còn đồ chơi nhập từ Trung Quốc. Còn thực phẩm, thuốc, quần áo và băng đĩa thường có nguồn gốc nội địa.

Thuốc giảrượu giả khiến người tiêu dùng bị đe dọa nghiêm trọng nhất. Hàng năm, hàng ngàn người Nga bị thiệt mạng do uống phải các chất hóa học chết người làm giả thành rượu vodka. [140]

Tương lai

Nga và Belarus đang đàm phán để thống nhất thành một nhà nước liên bang Nga-Belarus, việc đàm phán đã được bắt đầu vào năm 1997 và vẫn tiếp tục cho đến bây giờ.[141]

Xem thêm

Tham chiếu

  • The New Columbia Encyclopedia, Col.Univ.Press, 1975

Ghi chú

  1. ^ Federal State Statistics Service of Russia
  2. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 1). Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009.
  3. ^ “The CIA World Fact Book, "Russia". Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009.
  4. ^ a b c “Russia”. Encyclopedia Britannica. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2008.
  5. ^ “The Russian federation: general characteristics”. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2008. Đã bỏ qua văn bản “Federal State Statistics Service” (trợ giúp)
  6. ^ Microsoft Encarta Online Encyclopedia 2007. "Russia". Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2007.[liên kết hỏng]
  7. ^ First Post; Beware Russia Energy Superpower, October 12, 2006
  8. ^ CNN, “Russia; A superpower rises again” by Simon Hooper. Tháng 12, 2006
  9. ^ CNN; “Eye on Russia: Russia's resurgence” by Matthew Chance June 2007[1]
  10. ^ a b Library of Congress. “Topography and Drainage”. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2007.
  11. ^ Superpower politics: change in the United States and the Soviet Union http://books.google.com/books?id=XXcVAAAAIAAJ&pg=PA4
  12. ^ Weinberg, G.L. (1995). A World at Arms: A Global History of World War II. Cambridge University Press. tr. 264. ISBN 0521558794.
  13. ^ Osbourne, Andrew, World leaders gather as Russia remembers. The Age
  14. ^ Rozhnov, Konstantin, Who won World War II?. BBC. Russian historian Valentin Falin
  15. ^ a b “Country Profile: Russia”. Foreign & Commonwealth Office of the United Kingdom. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  16. ^ World Bank. “World Development Indicators”. World Bank. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2011.
  17. ^ a b “Status of Nuclear Powers and Their Nuclear Capabilities”. Federation of American Scientists. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  18. ^ “Kievan Rus' and Mongol Periods”. Đại học bang Sam Houston. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  19. ^ a b Kievan Rus' and Mongol Periods, trích đoạn từ Glenn E. Curtis (chủ biên), Russia: A Country Study, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, 1998. ISBN 0-16-061212-8.
  20. ^ Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, trang 36
  21. ^ Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, trang 46
  22. ^ Christopher Duffy, The military experience in the age of reason, trang 41
  23. ^ Xem Jacob Walkin, The Rise of Democracy in Pre-Revolutionary Russia: Political and Social Institutions under the Last Three Czars, Praeger, 1962.
  24. ^ CIAO - Atlas - Russia
  25. ^ Revolutions and Civil War, trích đoạn từ Glenn E. Curtis (chủ biên), Russia: A Country Study, Bộ quốc phòng Hoa Kỳ, 1998. ISBN 0-16-061212-8.
  26. ^ a b Xem Donald A. Filzer, Soviet Workers and the Collapse of Perestroika: The Soviet Labour Process and Gorbachev's Reforms, 1985–1991, Nhà in Đại học Cambridge, 1994. ISBN 0-521-45292-9.
  27. ^ Xem, chẳng hạn, Country Profile for the Russian Federation, của Bộ Ngoại giao Anh. Tra cứu ngày 21-7-2007.
  28. ^ Famine in Russia: the hidden horrors of 1921, International Committee of the Red Cross
  29. ^ “World War II”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2008.
  30. ^ “The Allies' first decisive successes > Stalingrad and the German retreat, summer 1942–February 1943”. Encyclopedia Britannica. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2008.
  31. ^ Erlikman, V. (2004). Poteri narodonaseleniia v XX veke : spravochnik. Moskva: Russkai︠a︡ panorama. ISBN 5931651071. Note: Estimates for Soviet World War II casualties vary between sources.
  32. ^ “Reconstruction and Cold War”. Library of Congress. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  33. ^ “Great Escapes from the Gulag”. TIME. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2008.
  34. ^ “1990 CIA World Factbook”. Central Intelligence Agency. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2008.
  35. ^ “Russia Unforeseen Results of Reform”. The Library of Congress Country Studies; CIA World Factbook. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2008.
  36. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 80, §1). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  37. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 110, §1). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  38. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 94). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  39. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 19, §1). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  40. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 120, §1). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  41. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 123, §1). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  42. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 81, §3). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  43. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 95, §3). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  44. ^ Based on actual count of countries listed “Diplomatic and consular missions of Russia”. Ministry of Foreign Affairs of Russia. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2009.. Only those listed explicitly as "Embassy of Russia" are included in the embassy count.
  45. ^ Kosachev. K. “Russian Foreign Policy Vertical”. Russia In Global Affairs. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  46. ^ (tiếng Nga) “Interview of official Ambassador of Russian Foreign Ministry on relations with the EU”. RIA Novosti. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2008.
  47. ^ “NATO-Russia relations”. NATO. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  48. ^ “Chapter 2—Investing In Russian Defense Conversion: Obstacles and Opportunities”. Federation of American Scientists. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  49. ^ a b “Overview of the major Asian Powers” (PDF). International Institute for Strategic Studies: 31. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2008.
  50. ^ a b “US drives world military spending to record high”. Australian Broadcasting Corporation. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  51. ^ a b “Russia arms exports could exceed $7 bln in 2007 - Ivanov”. RIA Novosti. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2008.
  52. ^ Russia: Assessment, Adam Baltin Interview, Opinion Poll on State of Armed Forces, FBIS: Informatsionno-Analiticheskoye Agentstvo Marketing i Konsalting, 14 tháng 3 năm 2006
  53. ^ “Russian defense spending to grow 20% in 2008, to $40 bln”. RIA Novosti. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2008.
  54. ^ “Rice: Russia's Military Moves 'a Problem'. ABC News. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2008.
  55. ^ “World Wide Military Expenditures”. Global Security. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2008.
  56. ^ “Big rise in Russian military spending raises fears of new challenge to west”. Guardian. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2008.
  57. ^ Pukhov, R. (2009). “Serdyukov Cleans Up the Arbat”. Moscow Defense Brief. Centre for Analysis of Strategies and Technologies (#1 (15) / 2009). Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2009.
  58. ^ Barabanov, M (16 tháng 2 năm 2009). “The Army's Chief Destroyer”. The Moscow Times. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2009.
  59. ^ "http://diendankienthuc.net/diendan/dia-ly-chau-au/24119-dia-ly-nuoc-nga.html"
  60. ^ "http://vietbao.vn/Kinh-te/Nga-bot-2-mui-gio-de-phat-trien-kinh-te/11155915/48/"
  61. ^ a b “Climate”. Library Of Congress. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2007.
  62. ^ Drozdov, V. A.; và đồng nghiệp (1992). “Ecological and Geographical Characteristics of the Coastal Zone of the Black Sea”. GeoJournal. 27.2, pp. 169–178: Springer Netherlands. 27: 169. doi:10.1007/BF00717701. “Và đồng nghiệp” được ghi trong: |author= (trợ giúp)Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  63. ^ Walsh, NP. “It's Europe's lungs and home to many rare species. But to Russia it's £100bn of wood”. Guardian (UK). Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2007.
  64. ^ list of animals of Red Data Book of Russian Federation (1 November 1997)
  65. ^ [2]
  66. ^ [3]
  67. ^ [4]
  68. ^ RIA Novosti
  69. ^ American Institute of Aeronautics and Astronautics - Home Page
  70. ^ Space industry: Do we have lift-off? | The Economist
  71. ^ George Parada (n.d.), “Panzerkampfwagen T-34(r)” at Achtung Panzer! website, retrieved on November 17, 2008.
  72. ^ Poyer, Joe. The AK-47 and AK-74 Kalashnikov Rifles and Their Variations. North Cape Publications. 2004.
  73. ^ “Weaponomics: The Economics of Small Arms” (PDF).
  74. ^ [5]
  75. ^ http://en.rian.ru/russia/20091011/156428675.html RIA Novosti: Medvedev outlines priorities for Russian economy's modernization
  76. ^ [6]
  77. ^ [7]
  78. ^ “Russian Census of 2002”. 4.1. National composition of population. Federal State Statistics Service. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2008.
  79. ^ a b c d e “Demographics”. Federal State Statistics Service. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2009.
  80. ^ “1 June 2007: A great number of children in Russia remain highly vulnerable”. United Nations Children's Fund. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  81. ^ Xem Danh sách quốc gia theo mật độ dân số
  82. ^ “Resident population”. Federal State Statistics Service. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  83. ^ a b “Demography”. Federal State Statistics Service. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2008.
  84. ^ “Russia cracking down on illegal migrants”. International Herald Tribune. 15 tháng 1 năm 2007.
  85. ^ Ethnic groups in Russia, 2002 census, Demoscope Weekly. Retrieved 5 February 2009
  86. ^ Russians left behind in Central Asia, BBC News, November 23, 2005.
  87. ^ “Demographics”. Library of Congress. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2008.
  88. ^ “Russia's population down 0.17% in 2007 to 142 mln”. RIA Novosti. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2008.
  89. ^ The World Factbook. “Rank Order — Birth rate”. Central Intelligence Agency. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2009.
  90. ^ The World Factbook. “Rank Order — Death rate”. Central Intelligence Agency. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2009.
  91. ^ “Russia's birth, mortality rates to equal by 2011 - ministry”. RIA Novosti. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2008.
  92. ^ “Russian Census of 2002”. 4.3. Population by nationalities and knowledge of Russian; 4.4. Spreading of knowledge of languages (except Russian). Federal State Statistics Service. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2008.
  93. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 68, §2). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  94. ^ “Russian”. University of Toronto. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  95. ^ Microsoft Encarta Online Encyclopedia 2007. “Russian language”. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.[liên kết hỏng]
  96. ^ “Russian language course”. Russian Language Centre, Moscow State University. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  97. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 43 §1). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  98. ^ Smolentseva, A. “Bridging the Gap Between Higher and Secondary Education in Russia”. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  99. ^ “Russia Country Guide”. EUbusiness.com. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  100. ^ “Background Note: Russia”. U.S. Department of State. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2008.
  101. ^ “Higher Education Institutions”. Federal State Statistics Service. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2008.
  102. ^ Education for all by 2015. UNESCO, Oxford University Press
  103. ^ [8]
  104. ^ “Higher education structure”. State University Higher School of Economics. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  105. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 41). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  106. ^ “Russian ombudsman about propiska restrictions in modern Russia”. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
  107. ^ “Residency Restrictions in Moscow by Brad K. Blitz” (PDF). Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
  108. ^ Field, M G. The health and demographic crisis in post-Soviet Russia: a two-phase development in "Russia’s Torn Safety Nets", edited by Field M. G., Twigg J. L. (eds). 2000:11–42: St. Martin’s Press.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  109. ^ “Highlights on Health in the Russian Federation” (PDF). World Health Organization. 1999. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  110. ^ Leonard, W R (2002). “Declining growth status of indigenous Siberian children in post-Soviet Russia”. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (trợ giúp)
  111. ^ “Продолжительность жизни россиян возросла с 2005 по 2007 г на 2,4 года, до 67,7 года”. United Russia. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2008.
  112. ^ “European Union”. Central Intelligence Agency. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2008.
  113. ^ a b “Heart disease kills 1.3 million annually in Russia — chief cardiologist”. RIA Novosti. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  114. ^ Burlington Free Press, June 26, 2009, page 2A, "Study blames alcohol for half Russian deaths"
  115. ^ “Corruption Pervades Russia's Health System”. CBS News. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  116. ^ “Third of Russians smoke, but half welcome public smoking ban”. RIA Novosti. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  117. ^ “HIV/AIDS in the Russian Federation”. The World Bank. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  118. ^ “Russian regional HIV vaccine center seeks $40–50 mln from budget”. RIA Novosti. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  119. ^ Russian Federation AIDS information “Russian Federation” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). UNAIDS: The Joint United Nations Programme on HIV/AIDS. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2008.
  120. ^ “119,000 TB cases in Russia — health official”. RIA Novosti. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  121. ^ “Country Profile: Russia” (PDF). Library of Congress—Federal Research Division. 2006. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (trợ giúp)
  122. ^ “Russian policies ignite unprecedented birth rate in 2007”. The Economic Times. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2008.
  123. ^ “United Nations Expert Group Meeting On International Migration and Development” (PDF). Population Division; Department of Economic and Social Affairs; United Nations Secretariat. 6–8 July 2005. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  124. ^ Russian Cuisine by Ruth Jenkins, page 48
  125. ^ Bell, I. “Eastern Europe, Russia and Central Asia”. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  126. ^ Zuckerman, P (2005). Atheism: Contemporary Rates and Patterns, chapter in The Cambridge Companion to Atheism, ed. by Michael Martin. Cambridge University Press.
  127. ^ “Religion In Russia”. Embassy of the Russian Federation. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  128. ^ a b Microsoft Encarta Online Encyclopedia 2007. “Russia”. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  129. ^ “Russia”. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2008.
  130. ^ (tiếng Nga) Опубликована подробная сравнительная статистика религиозности в России и Польше”. religare.ru. 6 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  131. ^ “Fact Box: Muslims In Russia”. Radio Free Europe. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  132. ^ Page, J. “The rise of Russian Muslims worries Orthodox Church”. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |published= (trợ giúp)
  133. ^ “20Mln Muslims in Russia and mass conversion of ethnic Russians are myths — expert”. Interfax. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2008.
  134. ^ “Russia's Islamic rebirth adds tension”. Financial Times. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  135. ^ Russia Faces Population Dilemma, VOA News, June 18, 2007
  136. ^ Mainville, M (19 tháng 11 năm 2006). “Russia has a Muslim dilemma”. Page A - 17. San Francisco Chronicle. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  137. ^ Nettleton, S. “Prayers for Ivolginsky”. CNN. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  138. ^ “Russia::Religion”. Encyclopædia Britannica Online. 2007. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  139. ^ Information of Russia by Ruth Jenkkins, page 52 and 53
  140. ^ Problems of USSR, page 101
  141. ^ vnexpress

Liên kết ngoài

Các nguồn của chính quyền

Thông tin chung

References




Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt ak:Russia