Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Flix11 (thảo luận | đóng góp)
fix
Dòng 21: Dòng 21:
|Elo thấp nhất=40
|Elo thấp nhất=40
|Elo thấp nhất ngày=3–7.1930
|Elo thấp nhất ngày=3–7.1930
| pattern_la1 = _fra20h
| pattern_la1 = _fra20H
| pattern_b1 = _fra20h
| pattern_b1 = _fra20H
| pattern_ra1 = _fra20h
| pattern_ra1 = _fra20H
| pattern_sh1 = _fra20a
| pattern_sh1 = _fra20H
| pattern_so1 = _nikewhite
| pattern_so1 =
| leftarm1 = 123163
| leftarm1 = 112855
| body1 = 123163
| body1 = 112855
| rightarm1 = 123163
| rightarm1 = 112855
| shorts1 = FFFFFF
| shorts1 = 112855
| socks1 = F1030A
| socks1 = F1030A
| pattern_la2 = _fra20a
| pattern_la2 = _rbl2021h
| pattern_b2 = _fra20a
| pattern_b2 = _fra20A
| pattern_ra2 = _fra20a
| pattern_ra2 = _rbl2021h
| pattern_sh2 = _fra20h
| pattern_sh2 = _fra20A
| pattern_so2 = _fra20a
| pattern_so2 =
| leftarm2 = FFFFFF
| leftarm2 = FFFFFF
| body2 = FFFFFF
| body2 = FFFFFF
| rightarm2 = FFFFFF
| rightarm2 = FFFFFF
| shorts2 = 123163
| shorts2 = FFFFFF
| socks2 = FFFFFF
| socks2 = FFFFFF
|trận đầu tiên={{fb|BEL}} 3–3 {{fb-rt|FRA}}<br />([[Bruxelles]], [[Bỉ]]; 1 tháng 5 năm 1904)
|trận đầu tiên={{fb|BEL}} 3–3 {{fb-rt|FRA}}<br />([[Bruxelles]], [[Bỉ]]; 1 tháng 5 năm 1904)
|trận thắng đậm nhất={{fb|FRA}} 10–0 {{fb-rt|AZE}}<br />([[Auxerre]], [[Pháp]]; 6 tháng 9 năm 1995)
|trận thắng đậm nhất={{fb|FRA}} 10–0 {{fb-rt|AZE}}<br />([[Auxerre]], [[Pháp]]; 6 tháng 9 năm 1995)

Phiên bản lúc 04:24, ngày 3 tháng 9 năm 2020

Pháp
Huy hiệu áo/huy hiệu Hiệp hội
Biệt danhLes Bleus (Đội quân màu xanh lam)
Les Tricolores (Tam tài) La Sélection (Đội tuyển)
Le coq Gaulois (Những chú gà trống Gô-loa)
Hiệp hộiLiên đoàn bóng đá Pháp
Liên đoàn châu lụcUEFA (Châu Âu)
Huấn luyện viên trưởngDidier Deschamps
Đội trưởngHugo Lloris
Thi đấu nhiều nhấtLilian Thuram (142)
Ghi bàn nhiều nhấtThierry Henry (51)
Sân nhàStade de France
Mã FIFAFRA
Áo màu chính
Áo màu phụ
Hạng FIFA
Hiện tại 2 Giữ nguyên (21 tháng 12 năm 2023)[1]
Cao nhất1 (5.2001–5.2002, 8–9.2018)
Thấp nhất26 (9.2010)
Hạng Elo
Hiện tại 6 Giảm 4 (30 tháng 11 năm 2022)[2]
Cao nhất1 (16.8.2018)
Thấp nhất40 (3–7.1930)
Trận quốc tế đầu tiên
 Bỉ 3–3 Pháp 
(Bruxelles, Bỉ; 1 tháng 5 năm 1904)
Trận thắng đậm nhất
 Pháp 10–0 Azerbaijan 
(Auxerre, Pháp; 6 tháng 9 năm 1995)
Trận thua đậm nhất
 Đan Mạch 17–1 Pháp 
(Luân Đôn, Anh; 22 tháng 10 năm 1908)
Giải thế giới
Sồ lần tham dự15 (Lần đầu vào năm 1930)
Kết quả tốt nhấtVô địch (1998, 2018)
Giải vô địch bóng đá châu Âu
Sồ lần tham dự10 (Lần đầu vào năm 1960)
Kết quả tốt nhấtVô địch (1984, 2000)
Thành tích huy chương
Bóng đá nam
Thế vận hội
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất Los Angeles 1984 Đồng đội
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Paris 1900 Đồng đội

Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp (tiếng Pháp: "Équipe de France de football") là đội bóng đá đại diện cho nước Pháp tham dự các giải thi đấu quốc tế và là một trong những đội tuyển hàng đầu thế giới với hai lần vô địch thế giới vào các năm 1998, 2018 và 2 lần vô địch châu Âu các năm 1984, 2000. Ngoài ra, đội tuyển Pháp vô địch Olympic 1 lần vào năm 1984 tại Los AngelesFIFA Confederations Cup 2 lần liên tiếp các năm 2001, 2003. Đội được Liên đoàn bóng đá Pháp (FFF) quản lý.

Pháp là một trong 4 đội châu Âu tham dự kỳ World Cup đầu tiên tổ chức năm 1930 và là một trong 8 đội bóng từng bước lên ngôi vị cao nhất của bóng đá thế giới. Trong phòng truyền thống của đội còn có 2 chức vô địch châu Âu và cộng thêm 2 chức vô địch Confederation Cup các năm 2001, 2003. Đội cùng với tuyển Argentina và tuyển Brasil là 3 đội tuyển giành được 3 chức vô địch bóng đá nam quan trọng nhất trong hệ thống thi đấu của FIFA: gồm World Cup, Cúp Liên đoàn các châu lục và Huy chương vàng Thế vận hội.

Trong hơn một thế kỷ qua, đội tuyển Pháp đã vượt qua những thất thường trong giai đoạn đầu tiên của mình để ổn định và thành công. Họ đã sản sinh ra 3 thế hệ vàng lớn vào những năm 1950, 1980 và 1990, kết quả là đã thu được rất nhiều danh hiệu lớn. Năm 1958, dưới tầm ảnh hưởng của một vài cầu thủ, đặc biệt là Raymond Kopa, Just Fontaine, Pháp đã kết thúc ở vị trí thứ 3 tại World Cup. Năm 1984, đội tuyển Pháp do Michel Platini làm đội trưởng đã giành chiến thắng tại Euro 1984. Họ lại thực hiện điều này thêm một lần nữa vào năm 2000, lần này dưới sự dẫn dắt của đội trưởng Didier Deschamps và danh thủ kiệt xuất Zinedine Zidane. Pháp trở thành đội tuyển quốc gia thứ bảy vô địch World Cup vào năm 1998 khi họ làm chủ nhà. Pháp đánh bại Brasil 3–0 trong trận chung kết. Năm 2018, tức 20 năm sau đó, họ đã lần thứ hai vô địch, bằng số lần vô địch của UruguayArgentina, sau khi đánh bại Croatia trong trận chung kết với tỉ số 4–2. Pháp đứng đầu bảng xếp hạng FIFA lần đầu tiên trong lịch sử vào năm 2001.

Sau thất bại của đội tại World Cup 2010, một cuộc tái thiết chính thức diễn ra trong liên đoàn, kết quả là Chủ tịch FFF Jean-Pierre Escalettes phải từ chức và Laurent Blanc được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng. Trong triều đại 2 năm của Blanc, lực lượng tuyển Pháp đã được thay máu mạnh mẽ với sự xuất hiện của một thế hệ vàng mới, là tiền đề quan trọng cho triều đại của huấn luyện viên Didier Deschamps gặt hái thành công sau này.

Pháp thường chọn Stade de France ở ngoại ô Paris làm sân nhà từ năm 1998. Đối thủ truyền kiếp của Pháp là nước láng giềng Ý, nhưng họ cũng có nhiều cạnh tranh trong quá khứ với BỉAnh vào thời kì đầu và với Đức vào những năm 1980.

Lịch sử

Những năm đầu tiên

Sự ra đời của đội tuyển bóng đá Pháp gắn liền với sự ra đời của Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) vào năm 1904. Tính từ thời điểm đó, các trận đấu quốc tế được tổ chức dưới sự điều hành của FIFA. Trước thời điểm năm 1904, một số trận đấu tập hợp các cầu thủ Pháp xuất sắc nhất cũng được tổ chức, đa phần dưới phiên hiệu của Liên hiệp các hiệp hội thể thao Pháp (Union des sociétés françaises de sports athlétiques - USFSA). Năm trận đấu quốc tế giữa tuyển USFSA với các đội tuyển Bỉ và Anh nghiệp dư đã được tổ chức từ năm 1900 cho đến năm 1904, với chiến thắng 6-2 trước tuyển Bỉ và 4 thất bại trước đội bóng Anh Quốc. Đại diện cho Pháp tại Thế vận hội Mùa hè 1900, là tuyển USFSA gồm các cầu thủ thuộc câu lạc bộ Club français. Đội giành huy chương bạc.

Đội tuyển bóng đá Pháp thi đấu trận đấu chính thức đầu tiên vào ngày mùng 1 tháng 5 năm 1904 và thủ hòa 3 - 3 với đội tuyển Bỉ[3]. Ba cầu thủ ghi bàn đầu tiên trong lịch sử đội tuyển Pháp là Louis Mesnier, Marius RoyetGaston Cyprès. Năm 1905, đội thi đấu trận đầu tiên trên sân nhà trước tuyển Thụy Sĩ, và giành chiến thắng đầu tiên. Những năm tiếp sau đó đội có những thành tích ít vẻ vang hơn, đặc biệt với hai trận đại bại trước tuyển Đan Mạch cách nhau có 3 ngày (0-9 rồi 1-17) tại Thế vận hội Luân Đôn. Dù không được FIFA công nhận chính thức từ ngày mùng 7 tháng 6 năm 1908, USFSA vẫn còn được phép tổ chức đội tuyển chuẩn bị cho Thế vận hội Mùa hè 1908. Hội cử hai đội Pháp A và B sang London. Luật khi đó cho phép mỗi quốc gia cử hai đội đại diện, nhưng chỉ có Pháp dùng tới quyền này. 44 cầu thủ Pháp tới London trong tình trạng mệt mỏi sau chuyến đi dài bằng tàu hỏa và tàu thủy và tới đúng sáng ngày thi đấu mới tới nơi. Kết quả là hai trận thảm hại (được tính là trận đấu thứ 11 và 12 trong lịch sử đội tuyển Pháp). Kể từ trận gặp Bỉ ngày 9 tháng 5 năm 1908, Ủy ban liên hiệp hội Pháp (Comité français interfédéral - CFI) quản lý đội tuyển và là tổ chức duy nhất được FIFA công nhận. Những năm tiếp theo CFI không thống nhất được với USFSA, tổ chức vốn là một trong những thành viên sáng lập của Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC), để cử một đội tuyển Pháp đi dự Thế vận hội năm 1912. Pháp đành tuyên bố bỏ cuộc.

Nhưng USFSA cũng buộc phải tái tổ chức những năm sau đó, trở thành một thành viên bán trực thuộc CFI từ năm 1913. Thế chiến thứ nhất bùng nổ làm gián đoạn các hoạt động thi đấu thể thao, trong số các tuyển thủ Pháp ra chiến tuyến, có tổng cộng 17 người hy sinh ngoài mặt trận[4].

Hòa bình lập lại, CFI trở thành Liên đoàn bóng đá Pháp ("Fédération Française de Football") từ năm 1919. USFSA cũng sáp nhập vào liên đoàn kể từ năm 1921. Từ đây chấm dứt tranh cãi liệu đội đại diện cho nước Pháp có phải là Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp hay chỉ là một đội tuyển các cầu thủ thuộc quyền quản lý của liên đoàn này hay liên đoàn kia.

Để chuẩn bị cho Thế vận hội Mùa hè 1924 được tổ chức tại Paris. Sau một chuỗi trận toàn thua, đội đã quyết định thuê một huấn luyện viên người Anh, ông Charles Griffiths, về huấn luyện đội.[5] Griffiths ngay lập tức bị chỉ trích kịch liệt vì gọi lên đội tuyển nhiều cầu thủ đang đầu quân cho các câu lạc bộ ở tỉnh[6]. Trong khi việc đó là hoàn toàn có lý, khi cùng năm đó, hai đội bóng bước lên hai ngôi vị cao nhất bóng đá Pháp là hai đội bóng không của thủ đô: Olympique de MarseilleFC Cette.

Bước vào Thế vận hội Mùa hè 1924, sau lễ bốc thăm, Pháp không phải đấu vào một mà được vào thẳng vòng 16 đội. Tuyển Pháp tại vòng đấu này hạ Đội tuyển bóng đá quốc gia Latvia với tỉ số 7-0, trước khi thúc thủ trước đội sau đó giành huy chương vàng là Uruguay với tỉ số 1-5.[7].

Bốn năm sau đó, tại Thế vận hội Mùa hè 1928, đội cũng không vượt qua vòng đấu đầu tiên khi để thua Ý với tỉ số 3-4.

Thập niên 1930

Đội tuyển Pháp là một trong 13 đội bóng tham dự giải vô địch bóng đá thế giới đầu tiên được tổ chức năm 1930 tại Uruguay (tiền đạo Lucien Laurent là cầu thủ đầu tiên ghi bàn tại một kỳ World Cup trong trận gặp Mexico). Đội không vượt qua vòng bảng: với thành tích thắng Mexico 4-1 nhưng để thua hai trận kế tiếp cùng với tỉ số 0-1 trước ArgentinaChile.

Năm sau đó, đội có hai chiến thắng ấn tượng, đầu tiên là đánh bại tuyển Đức với tỉ số 1-0, sau đó là quật ngã Anh với tỉ số đậm 5-2 vào ngày 14 tháng 5 năm 1931.

Đến World Cup 1934, giải thi đấu theo thể thức loại trực tiếp, theo bốc thăm ở vòng 1, Pháp sẽ gặp tuyển Áo, một trong những ứng cứ viên của giải[8]. Trận đấu diễn ra vào ngày 27 tháng 5 năm 1934, Pháp chỉ chịu thua với tỉ số 2-3 sau hai hiệp phụ. Khi đội về tới Paris, gần 4.000 người đã tụ tập đón đội[9] · [10].

Cầu thủ da màu đầu tiên, Raoul Diagne, lần đầu tiên khoác áo đội vào năm 1931. Cầu thủ gốc Bắc Phi đầu tiên thi đấu cho tuyển Pháp là tiền vệ tổ chức người Maroc Larbi Ben Barek. Raoul Diagne và Larbi Ben Barek thi đấu cùng nhau trong trận đấu nổi tiếng gặp tuyển Ý ngày 4 tháng 12 năm 1938. Đội tuyển Pháp " black, blanc, beur " - " đen, trắng, Ả Rập " ra đời vào ngày hôm đó.

Thế hệ vàng thập niên 1950

Những năm 1950 chứng kiến ​​Pháp trình làng thế hệ vàng đầu tiên của mình bao gồm các cầu thủ như Just Fontaine, Raymond Kopa, Jean Vincent, Robert Jonquet, Maryan Wisnieski, Thadée Cisowski, và Armand Penverne. Tại World Cup 1958, Pháp vào đến vòng bán kết và thua Brazil. Trong trận đấu tranh hạng ba, Pháp đánh bại Tây Đức 6-3 với 4 bàn thắng của Fontaine, người đã giành danh hiệu vua phá lưới giải đấu với số bàn thắng lên tới con số 13, một kỷ lục của World Cup vẫn đứng vững đến hiện nay. Pháp làm chủ nhà Giải vô địch bóng đá châu Âu năm 1960 và lại đến vòng bán kết. Trong vòng này, Pháp phải đối mặt với Nam Tư và bị thua ngược 5-4 dù đã dẫn trước 4-2 đến phút 75. Trong trận đấu tranh hạng ba, Pháp bị Tiệp Khắc đánh bại 2-0.

Khủng hoảng những năm 1960 - 70

Những năm 1960 và 70 chứng kiến sự thoái trào đáng kể của bóng đá Pháp khiến họ bị loại khỏi nhiều giải đấu quốc tế. Ngày 25 tháng 4 năm 1964, Henri Guérin đã chính thức trở thành huấn luyện viên. Dưới thời Guérin, Pháp vượt qua vòng loại World Cup 1962 và Euro 1964. Họ lọt vào vòng chung kết World Cup 1966 nhưng phải về nước ngay sau vòng bảng của giải đấu. Guérin bị sa thải sau World Cup này. Ông được thay thế bởi José Arribas và Jean Snella. Thời đại của bộ đôi huấn luyện viên này chỉ kéo dài trong bốn trận đấu và họ được thay thế bởi cựu cầu thủ quốc tế Just Fontaine, người chỉ huấn luyện cho đội hai trận. Louis Dugauguez kế tục và đã đưa Pháp lọt vào vòng chung kết World Cup 1970. Sau khi Dugauguez bị sa thải, Georges Boulogne lên nắm quyền và cũng bị sa thải sau thất bại tại vòng loại World Cup 1974 và được thay thế bằng huấn luyện viên người Rumani Stefan Kovacs, người nước ngoài đầu tiên và duy nhất huấn luyện đội tuyển quốc gia thời điểm đó. Kovács cũng gây thất vọng khi không thể đưa Pháp đến World Cup 1974 và Euro 1976. Sau hai năm huấn luyện, ông bị sa thải và được thay thế bằng Michel Hidalgo.

Thế hệ vàng thập niên 1980

Dưới thời Hidalgo, Pháp phát triển mạnh mẽ, chủ yếu là do sự tỏa sáng của tiền vệ Michel Platini, người cùng với Jean Tigana, Alain Giresse, và Luis Fernández hình thành nên "Hình vuông ma thuật", làm ám ảnh nhiều hàng phòng thủ đối phương, bắt đầu từ World Cup 1982, nơi mà Pháp lọt đến vòng bán kết và chỉ thua cay đắng trên chấm phạt đền trước đối thủ Tây Đức. Trận bán kết giữa Pháp và Đức năm 1982 được coi là một trong những trận đấu lớn nhất trong lịch sử World Cup. Pháp lần đầu có được danh hiệu quốc tế hai năm sau đó, sau chiến thắng tại Euro 1984, khi họ tổ chức.. Dưới sự dẫn dắt của Platini, người đã ghi chín bàn thắng trong giải đấu, Pháp đánh bại Tây Ban Nha 2-0 trong trận chung kết với hai bàn thắng của Platini và Bruno Bellone. Sau chiến thắng Euro, Hidalgo rời đội và được thay thế bởi cựu tuyển thủ quốc tế Henri Michel. Pháp sau này hoàn thành hat-trick khi họ giành huy chương vàng tại Thế vận hội, một năm sau đó, đánh bại Uruguay 2-0 để giành Cúp Artemio Franchi, tiền thân của FIFA Confederations Cup. Trong thời gian một năm, Pháp đã sở hữu ba trong số bốn danh hiệu quốc tế lớn. Tại World Cup 1986, Pháp là một ứng cử viên rất nặng ký và một lần nữa, trong World Cup thứ hai liên tiếp, lại lọt đến vòng bán kết, nơi họ phải đối mặt với Tây Đức. Một lần nữa, họ lại để thua. Chiến thắng 4-2 trước Bỉ đã giúp Pháp có được vị trí thứ ba.

Thế hệ vàng thập niên 1990 - 2000

Năm 1988, Liên đoàn bóng đá Pháp mở Học viện bóng đá quốc gia Clairefontaine. Năm tháng sau khi Clairefontaine mở của, huấn luyện viên Henri Michel bị sa thải sau khi không đưa được đội đến Giải vô địch bóng đá thế giới 1990. Người thay thế là huyền thoại Platini đã đưa Pháp đến Euro 1992 sau khi toàn thắng ở vòng loại. Mặc dù đã có chuỗi 19 trận bất bại trước đó, Pháp bị loại bỏ ở vòng bảng sau khi thúc thủ trước Đan Mạch 1-2 trong trận đấu cuối cùng. Một tuần sau khi kết thúc giải đấu, Platini từ chức và được thay thế bằng người trợ lý Gérard Houllier của mình. Dưới thời Houllier, đội Pháp và những cổ động viên của họ đã trải qua một thảm kịch đau lòng sau khi họ gần như đã đủ điểm cho World Cup 1994, và chỉ cần giành 1 điểm trong 2 trận đấu trên sân nhà trước IsraelBulgaria là hoàn thành mục tiêu. Tuy nhiên, trong trận đấu với Israel, Pháp đã thua 2-3, trong trận Bulgaria, bị thua ngược 1-2. Houllier đã phải ra đi. Aimé Jacquet trợ lý của ông đã được bổ nhiệm với sứ mệnh dẫn dắt đội bóng tại World Cup 1998, nơi Pháp làm chủ nhà.

Để thay đổi một đội tuyển Pháp rệu rã, Jacquet thẳng tay loại bỏ nhiều cựu binh để nhường chỗ cho các tuyển thủ trẻ, tiêu biểu là Zinedine Zidane. Đội đã lọt tới trận bán kết của UEFA Euro 1996, nơi họ bị thua 6-5 trên chấm phạt đền trước Cộng hòa Séc. Trong giải đấu lớn tiếp theo tại World Cup 1998, Jacquet đã dẫn dắt Pháp đến vinh quang khi đánh bại Brasil 3-0 trong trận chung kết tại Stade de France. Jacquet rút lui sau chiến thắng tại World Cup và đã được kế tục thành công bởi trợ lý Roger Lemerre, người đã đưa Pháp giành được chức vô địch châu Âu tại Euro 2000. Được dẫn dắt danh thủ Zidane, Pháp đánh bại Italia 2-1 trong trận chung kết với bàn thắng vàng của Trezeguet trong hiệp phụ. Đây là lần đầu tiên có một đội tuyển quốc gia có được cả hai chức vô địch World Cup và Euro cùng lúc kể từ khi Tây Đức làm được vào năm 1974, và đây cũng là lần đầu tiên một đội đương kim vô địch thế giới giành được chức vô địch châu Âu. Pháp đã nhảy vào vị trí số một trong xếp hạng của FIFA.

Sau khi giành được Confederation Cup vào năm 2001, Pháp đã thâu tóm đầy đủ 3 danh hiệu quan trọng nhất của bóng đá thế giới. Thế hệ vàng của Pháp, ngoài sự xuất sắc của Zidane còn phải kể đến các danh thủ như Thierry Henry, David Trezeguet, Patrick Vieira, Didier Deschamps, Emmanuel Petit, Lilian Thuram, Bixente Lizarazu, Laurent Blanc, Youri Djorkaeff, Robert Pirès, Fabien Barthez và một số tuyển thủ khác như: Sylvain Wiltord, Frank Leboeuf, Claude Makélélé... Mặc dù hầu hết các cầu thủ trong đội tuyển Pháp lúc đó đều là các siêu sao hàng đầu thế giới ở vị trí của mình nhưng nhiều người chỉ trích rằng Pháp quá phụ thuộc vào tài năng tổ chức trận đấu của Zidane và khi vắng cầu thủ này, những ngôi sao khác trong đội tuyển Pháp không thể chơi kết dính và bùng nổ nữa. Minh chứng rõ nét cho điều này là tại World Cup 2002 khi Zidane bất ngờ dính chấn thương trong trận đấu giao hữu với chủ nhà Hàn Quốc trước khi giải đấu khai mạc. Pháp nhanh chóng thể hiện lối chơi rời rạc khi thiếu vắng nhạc trưởng của mình và bị loại cay đắng. Mặc dù rơi vào bảng đấu dễ thở với những đối thủ dưới cơ là Đan Mạch, Uruguay và Senegal, Pháp kết thúc vòng bảng với chỉ 1 điểm kiếm được và không ghi được một bàn thắng nào, trở thành đội đương kim vô địch có thành tích kém cỏi nhất trong các kì World Cup. Lemerre bị sa thải và Santini lên nắm đội.

Sau khi giành thêm Confederation Cup vào năm 2003, Pháp lại nổi lên như là ứng cử viên hàng đầu cho chức vô địch tại Euro 2004. Tuy nhiên, một lần nữa, sự dựa dẫm quá nhiều vào Zidane khiến Pháp phải trả giá. Sau khi cứu cho Pháp khỏi thất bại trước Anh trong trận đấu đầu tiên bằng hai bàn thắng ghi liền trong 3 phút cuối trận, Zidane chẳng thể làm gì khi bị vô hiệu hóa trước lối chơi kỉ luật của các cầu thủ Hy Lạp (đội sau đó vô địch) tại vòng tứ kết. Pháp thua 0-1 và trở thành cựu vương của châu Âu. Sau giải đấu, Zidane tuyên bố từ giã đội tuyển.

Jacques Santini từ chức huấn luyện viên và Raymond Domenech đã được chọn để thay thế ông. Pháp thi đấu chật vật ở nửa đầu vòng loại World Cup 2006. Điều này khiến Domenech đã phải thuyết phục một số một số lão tướng trở lại đội tuyển để giúp đội vượt qua vòng loại. Nghe theo lời thuyết phục này, ba cựu binh sáng giá là Zidane, Thuram và Makélélé trở lại đội tuyển và giúp Pháp cán đích tại vòng loại World Cup 2006. Ở World Cup 2006, Pháp đã bất khả chiến bại ở vòng bảng và tiến thẳng đến trận đấu cuối cùng của giải sau khi liên tiếp đánh bại Tây Ban Nha, Brazil và Bồ Đào Nha. Pháp đã gặp Ý trong trận chung kết và hòa 1-1 sau 120 phút trước khi thua 5-3 trên chấm phạt đền.

Khủng hoảng thế hệ thời kì "hậu Zidane"

Trận chung kết World Cup 2006 là trận đấu cuối cùng trong sự nghiệp của Zidane. Sau một thập niên tạo ảnh hưởng lớn lên lối chơi của đội tuyển Pháp, việc Zidane giã từ sự nghiệp đã tạo ra một sự hẫng hụt đối với đội bóng "Áo Lam". Dù Domenech cố gắng xây dựng một đội bóng không lệ thuộc vào một cá nhân nào nhưng đây tỏ ra là một công việc quá sức. Domenech vẫn phải tin dùng vào các cựu binh như Thuram hay Makelele để ổn định lối chơi của đội và không tin dùng nhiều cầu thủ trẻ tài năng. Mặc dù Pháp đã lọt được cả vào vòng chung kết của Euro 2008World Cup 2010 nhưng đó đều là những chiến dịch rất khó nhọc, đặc biệt là ở vòng loại World Cup 2010 khi Pháp phải nhờ đến "bàn tay bẩn" của Henry trong hiệp phụ trận đấu tranh vé vớt với Ireland để được góp mặt tại World Cup. Trong cả hai giải đấu lớn nói trên, Pháp đều thi đấu tệ hại, thiếu gắn kết và đều bị loại ngay từ vòng bảng.

Đặc biệt, tại World Cup 2010, những mâu thuẫn nội bộ trong đội tuyển đã lên đến đỉnh điểm khi toàn bộ đội bóng đã bỏ một buổi tập và công khai một bức thư ngỏ để phản đối quyết định của LĐBĐ Pháp (FFF) và huấn luyện viên Domenech khi đuổi tiền đạo Nicolas Anelka về nước sau trận thua Mexico do tiền đạo này đã chửi ông Domenech[11][12]. Vụ việc này đã khiến cho toàn bộ đội hình của đội tuyển Pháp dự World Cup đều bị treo giò ít nhất một trận sau đó. Triều đại của Domenech cũng kết thúc sau giải đấu này.

Nỗ lực tái thiết của Blanc

Mặc dù việc bổ nhiệm Laurent Blanc vào vị trí huấn luyện viên trưởng chỉ diễn ra sau World Cup nhưng trên thực tế, ngay từ trước khi World Cup diễn ra, nhiều tờ tạp chí của Pháp đã tiết lộ thông tin này.

Trong trận đấu đầu tiên dưới triều đại của Blanc (gặp Na Uy trong một trận giao hữu), toàn bộ 23 cầu thủ dự World Cup của Pháp đều bị treo giò. Blanc buộc phải xây dựng một bộ khung đội tuyển với nhiều gương mặt trẻ và mới để thay thế một đội tuyển đã rệu rã. Pháp khởi đầu kỉ nguyên Blanc bằng thất bại 1-2 trước Na Uy.

Trong trận đấu chính thức đầu tiên tại vòng loại Euro 2012, vẫn còn 5 tuyển thủ của Pháp bị treo giò gồm Anelka, Ribery, Evra, Abidal, Toulalan, Pháp thúc thủ trên sân nhà trước đội bóng trung bình Belarus với tỉ số 0-1.

Tuy nhiên, khi bị dồn vào thế chân tường, các cầu thủ Pháp đã thể hiện tinh thần thi đấu cao bằng chiến thắng 2-0 ngay trên sân của Bosnia. Kể từ đó, Pháp đã có chuỗi 4 trận thắng liên tiếp tại vòng loại, để vươn lên dẫn đầu bảng D. Pháp cũng giành chiến thắng 2-1 trên sân Wembley trước Anh và 1-0 trên sân nhà trước Brazil trong các trận giao hữu. Nỗ lực tái thiết của Blanc dù gặp nhiều khó khăn lúc đầu nhưng đã có những bước tiến vững chắc. Pháp kết thúc vòng loại với vị trí nhất bảng D và giành tấm vé trực tiếp tham dự vòng chung kết Euro 2012.

Tại Euro 2012, đội tuyển Pháp ban đầu thi đấu khá ổn khi hòa Anh với tỉ số 1-1 với bàn thắng gỡ hòa của Samir Nasri và thắng chủ nhà Ukraina với tỉ số 2-0 bằng hai bàn thắng của Jérémy MenezYohan Cabaye. Tuy nhiên, Pháp bất ngờ thua đội đã bị loại là Thụy Điển với tỉ số 0-2 ở lượt cuối bảng D và chỉ có thể đi tiếp với vị trí nhì bảng, qua đó phải gặp ĐKVĐ Tây Ban Nha ở tứ kết. Trận thua này khiến phòng thay đồ của tuyển Pháp một lần nữa rơi vào trạng thái xung đột buộc FFF phải điều tra hành vi của 4 nghi can có liên quan là Samir Nasri, Hatem Ben Arfa, Jeremy MenezYann M'Vila[13][14]. Pháp sau đó thua Tây Ban Nha với tỉ số 0-2 ở tứ kết. Sau Euro 2012, huấn luyện viên Laurent Blanc đã từ chức.

Triều đại Didier Deschamp và thế hệ vàng mới

Didier Deschamps đến với đội bóng áo lam từ năm 2012 sau khi Laurent Blanc từ chức[15]. Ở vòng loại World Cup 2014, Pháp rơi vào bảng đấu có Tây Ban Nha và chỉ đứng nhì bảng, qua đó phải đá play-off trước Ukraine để kiếm vé dự World Cup. Đội đã để thua Ukraine 0-2 trong trận lượt đi tại Kiev và đứng trước nguy cơ lỡ hẹn với World Cup lần đầu tiên kể từ năm 1994[16]. Tuy nhiên Pháp đã chơi xuất thần trong trận lượt về tại Stade de France khi lội ngược dòng bằng trận thắng 3-0 để giành vé đến Brazil[17].

World Cup 2014, Pháp thi đấu ấn tượng khi đứng đầu bảng đấu có Honduras, Thụy SỹEcuador. Đội hạ Nigeria 2-0 ở vòng 2 trước khi để thua sát nút trước đội tuyển Đức (đội sau đó đăng quang) với tỉ số 0-1 ở tứ kết. Hai năm sau, Didier Deschamps đã dẫn dắt đội tuyến Pháp tiến vào trận chung kết Euro 2016 mà Pháp là chủ nhà trước khi để thua sát nút trước Bồ Đào Nha với tỉ số 0-1 và giành được ngôi á quân. Đây là những bước tiến quan trọng của đội để trở lại chu kỳ thành công sau nhiều năm trì trệ.

Pháp cũng bắt đầu trình làng một thế hệ tài năng mới quy tụ dàn cầu thủ đẳng cấp trải đều khắp các tuyến. Tại World Cup 2018, họ sở hữu đội hình có giá trị chuyển nhượng đắt nhất giải - hơn 1 tỷ euro[18]. Những cầu thủ nổi bật có thể kể đến như Antoine Griezmann, Paul Pogba, Raphaël Varane, N'Golo Kanté, Benjamin Mendy, Ousmane Dembélé và đặc biệt là tài năng trẻ sáng giá Kylian Mbappé. Với một đội hình mạnh và đồng đều, Pháp dễ dàng đứng đầu bảng đấu có Đan Mạch, PeruÚc dù họ không bung hết sức. Ở vòng knock-out, đội vượt qua một loạt các đối thủ mạnh như Argentina, Uruguay và Bỉ để lọt vào chung kết gặp Croatia. Cuối cùng, Deschamp và các cầu thủ Pháp đã giành chức vô địch thế giới lần thứ hai trong lịch sử khi thắng Croatia 4–2 trong trận chung kết. Bên cạnh đó ông cũng đã đi vào lịch sử với tư cách là người thứ 3 vô địch World Cup trên cương vị cầu thủ và huấn luyện viên, trước đó người đầu tiên là Mario Zagallo và người thứ 2 là Franz Beckenbauer.

Danh hiệu

Vô địch: 1998; 2018
Á quân: 2006
Hạng ba: 1958; 1986
Hạng tư: 1982
Vô địch: 1984; 2000
Á quân: 2016
Hạng tư: 1960
Bán kết: 1996
Vô địch: 2001; 2003
1984
1900
Hạng tư: 1920

Thành tích quốc tế

Giải vô địch bóng đá thế giới

Năm Kết quả St T H [19] B Bt Bb
Uruguay 1930 Vòng 1 3 1 0 2 4 3
Ý 1934 Vòng 1 1 0 0 1 2 3
Pháp 1938 Tứ kết 2 1 0 1 4 4
Brasil 1950 Không vượt qua vòng loại
Thụy Sĩ 1954 Vòng 1 2 1 0 1 3 3
Thụy Điển 1958 Hạng ba 6 4 0 2 23 15
Chile 1962 Không vượt qua vòng loại
Anh 1966 Vòng 1 3 0 1 2 2 5
México 1970 Không vượt qua vòng loại
Tây Đức 1974
Argentina 1978 Vòng 1 3 1 0 2 5 5
Tây Ban Nha 1982 Hạng tư 7 3 2 2 16 12
México 1986 Hạng ba 7 4 2 1 12 6
Ý 1990 Không vượt qua vòng loại
Hoa Kỳ 1994
Pháp 1998 Vô địch 7 6 1 0 15 2
Hàn Quốc Nhật Bản 2002 Vòng 1 3 0 1 2 0 3
Đức 2006 Á quân 7 4 3 0 9 3
Cộng hòa Nam Phi 2010 Vòng 1 3 0 1 2 1 4
Brasil 2014 Tứ kết 5 3 1 1 10 3
Nga 2018 Vô địch 7 6 1 0 14 6
Qatar 2022 Chưa xác định
Canada Hoa Kỳ México 2026
Tổng cộng 15/21
2 lần: Vô địch
66 34 13 19 120 77

FIFA Confederations Cup

Năm Kết quả St T H [19] B Bt Bb
Ả Rập Xê Út 1992 Không giành quyền tham dự
Ả Rập Xê Út 1995
Ả Rập Xê Út 1997
México 1999 Bỏ cuộc
Hàn Quốc Nhật Bản 2001 Vô địch 5 4 0 1 12 2
Pháp 2003 Vô địch 5 5 0 0 12 3
Đức 2005 Không giành quyền tham dự
Cộng hòa Nam Phi 2009
Brasil 2013
Nga 2017
Tổng cộng 2/10
2 lần: Vô địch
10 9 0 1 24 5

Giải vô địch bóng đá châu Âu

Năm Kết quả St T H [19] B Bt Bb
Pháp 1960 Hạng tư 2 0 0 2 4 7
Tây Ban Nha 1964 Không vượt qua vòng loại
Ý 1968
Bỉ 1972
Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư 1976
Ý 1980
Pháp 1984 Vô địch 5 5 0 0 14 4
Đức 1988 Không vượt qua vòng loại
Thụy Điển 1992 Vòng 1 3 0 2 1 2 3
Anh 1996 Bán kết 5 2 3 0 5 2
Bỉ Hà Lan 2000 Vô địch 6 5 0 1 13 7
Bồ Đào Nha 2004 Tứ kết 4 2 1 1 7 5
Thụy Sĩ Áo 2008 Vòng 1 3 0 1 2 1 6
Ba Lan Ukraina 2012 Tứ kết 4 1 1 2 3 5
Pháp 2016 Á quân 7 5 1 1 13 5
Liên minh châu Âu 2020 Vượt qua vòng loại
Đức 2024 Chưa xác định
Tổng cộng 10/16
2 lần: Vô địch
39 20 9 10 62 44

Lịch thi đấu

2020

2021

Cầu thủ

Đội hình hiện tại

Dưới đây là danh sách 23 cầu thủ được triệu tập tham dự UEFA Nations League 2020–21 gặp Thụy ĐiểnCroatia vào tháng 9 năm 2020.[20]
-Số liệu thống kê tính đến ngày 17 tháng 11 năm 2019 sau trận gặp Albania.

Số VT Cầu thủ Ngày sinh (tuổi) Trận Bàn Câu lạc bộ
1TM Hugo Lloris (Đội trưởng) 26 tháng 12, 1986 (37 tuổi) 114 0 Anh Tottenham Hotspur
1TM Steve Mandanda 28 tháng 3, 1985 (39 tuổi) 32 0 Pháp Marseille
1TM Mike Maignan 3 tháng 7, 1995 (28 tuổi) 0 0 Pháp Lille

2HV Raphaël Varane 25 tháng 4, 1993 (31 tuổi) 64 5 Tây Ban Nha Real Madrid
2HV Lucas Digne 20 tháng 7, 1993 (30 tuổi) 30 0 Anh Everton
2HV Lucas Hernandez 14 tháng 2, 1996 (28 tuổi) 17 0 Đức Bayern Munich
2HV Presnel Kimpembe 13 tháng 8, 1995 (28 tuổi) 9 0 Pháp Paris Saint-Germain
2HV Clément Lenglet 17 tháng 6, 1995 (28 tuổi) 7 1 Tây Ban Nha Barcelona
2HV Ferland Mendy 8 tháng 6, 1995 (28 tuổi) 4 0 Tây Ban Nha Real Madrid
2HV Léo Dubois 14 tháng 9, 1994 (29 tuổi) 4 0 Pháp Lyon
2HV Dayot Upamecano 27 tháng 10, 1998 (25 tuổi) 0 0 Đức RB Leipzig

3TV Moussa Sissoko 16 tháng 8, 1989 (34 tuổi) 62 2 Anh Tottenham Hotspur
3TV N'Golo Kanté 29 tháng 3, 1991 (33 tuổi) 39 1 Anh Chelsea
3TV Steven Nzonzi 15 tháng 12, 1988 (35 tuổi) 14 0 Pháp Rennes
3TV Adrien Rabiot 3 tháng 4, 1995 (29 tuổi) 6 0 Ý Juventus
3TV Eduardo Camavinga 10 tháng 11, 2002 (21 tuổi) 0 0 Pháp Rennes

4 Olivier Giroud 30 tháng 9, 1986 (37 tuổi) 97 39 Anh Chelsea
4 Antoine Griezmann 21 tháng 3, 1991 (33 tuổi) 78 30 Tây Ban Nha Barcelona
4 Kylian Mbappé 20 tháng 12, 1998 (25 tuổi) 34 13 Pháp Paris Saint-Germain
4 Anthony Martial 5 tháng 12, 1995 (28 tuổi) 18 1 Anh Manchester United
4 Wissam Ben Yedder 12 tháng 8, 1990 (33 tuổi) 8 2 Pháp Monaco
4 Jonathan Ikoné 2 tháng 5, 1998 (26 tuổi) 4 1 Pháp Lille
4 Houssem Aouar 30 tháng 6, 1998 (25 tuổi) 0 0 Pháp Lyon

Triệu tập gần đây

Vt Cầu thủ Ngày sinh (tuổi) Số trận Bt Câu lạc bộ Lần cuối triệu tập
TM Alphonse Areola 27 tháng 2, 1993 (31 tuổi) 3 0 Pháp Paris Saint-Germain v.  Albania, 17 tháng 11 năm 2019

HV Benjamin Pavard 28 tháng 3, 1996 (28 tuổi) 27 1 Đức Bayern Munich v.  Albania, 17 tháng 11 năm 2019
HV Benjamin Mendy 17 tháng 7, 1994 (29 tuổi) 10 0 Anh Manchester City v.  Albania, 17 tháng 11 năm 2019
HV Kurt Zouma 27 tháng 10, 1994 (29 tuổi) 5 1 Anh Chelsea v.  Albania, 17 tháng 11 năm 2019
HV Djibril Sidibé 29 tháng 7, 1992 (31 tuổi) 18 1 Anh Everton v.  Thổ Nhĩ Kỳ, 14 tháng 10 năm 2019

TV Corentin Tolisso 3 tháng 8, 1994 (29 tuổi) 21 1 Đức Bayern Munich v.  Albania, 17tháng 11 năm 2019
TV Tanguy Ndombele 28 tháng 12, 1996 (27 tuổi) 6 0 Anh Tottenham Hotspur v.  Albania, 17 tháng 11 năm 2019
TV Matteo Guendouzi 14 tháng 4, 1999 (25 tuổi) 0 0 Anh Arsenal v.  Albania, 17 tháng 11 năm 2019
TV Blaise Matuidi 9 tháng 4, 1987 (37 tuổi) 84 9 Ý Juventus v.  Moldova, 14 tháng 11 năm 2019 INJ

Nabil Fekir 18 tháng 7, 1993 (30 tuổi) 24 2 Tây Ban Nha Betis v.  Albania, 17 tháng 11 năm 2019
Thomas Lemar 12 tháng 11, 1995 (28 tuổi) 22 4 Tây Ban Nha Atlético Madrid v.  Albania, 17 tháng 11 năm 2019
Kingsley Coman 13 tháng 6, 1996 (27 tuổi) 22 4 Đức Bayern Munich v.  Albania, 17 tháng 11 năm 2019
Alassane Pléa 10 tháng 3, 1993 (31 tuổi) 1 0 Đức Borussia Mönchengladbach v.  Thổ Nhĩ Kỳ, 14 tháng 10 năm 2019
Chú thích

INJ Cầu thủ rút lui khỏi đội hình vì chấn thương
RET Cầu thủ đã giã từ đội tuyển quốc gia

Kỷ lục về bàn thắng và số lần khoác áo

Lilian Thuram là cầu thủ thi đấu nhiều nhất với 142 lần khoác áo đội tuyển quốc gia
Số lần khoác áo đội tuyển quốc gia
  Cầu thủ còn đang thi đấu cho đội tuyển
# Năm Năm khoác áo Số trận Số bàn thắng
1 Lilian Thuram 1994–2008 142 2
2 Thierry Henry 1997–2010 123 51
3 Marcel Desailly 1993–2004 116 3
4 Hugo Lloris 2008– 114 0
5 Zinédine Zidane 1994–2006 108 31
6 Patrick Vieira 1997–2009 107 6
7 Didier Deschamps 1989–2000 103 4
8 Laurent Blanc 1989–2000 97 16
Bixente Lizarazu 1992–2004 97 2
Olivier Giroud 2011– 97 39

Cập nhật lần cuối: 17 tháng 11 năm 2019
Nguồn: French Football Federation

Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất
Thierry Henry là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho đội tuyển quốc gia với 51 bàn
# Cầu thủ Năm khoác áo Số bàn thắng Số trận Trung bình
1 Thierry Henry 1997–2010 51 123 0.42
2 Michel Platini 1976–1987 41 72 0.57
3 Olivier Giroud 2011– 39 97 0.4
4 David Trezeguet 1998–2008 34 71 0.47
5 Zinédine Zidane 1994–2006 31 108 0.28
6 Just Fontaine 1953–1960 30 21 1.42
Jean-Pierre Papin 1986–1995 30 54 0.55
Antoine Griezmann 2014– 30 78 0.38
9 Youri Djorkaeff 1993–2002 28 82 0.34
10 Karim Benzema 2007–2015 27 81 0.33

Cập nhật lần cuối: 17 tháng 11 năm 2019
Nguồn: French Football Federation

Huấn luyện viên

TT Huấn luyện viên Thời gian huấn luyện Số trận Thắng Hòa Thua Danh hiệu
1 Hội đồng của FFF trước 1955
2 Albert Batteux 1955-1962
3 Henri Guérin 1962-1966
4 José ArribasJean Snella 1966
5 Just Fontaine 1967
6 Louis Dugauguez 1967-1968
7 Georges Boulogne 1969-1973
8 Stefan Kovacs 1973-1975
9 Michel Hidalgo 1976-1984 Vô địch Euro 1984
10 Henri Michel 1984-1988
11 Michel Platini 1988-1992
12 Gérard Houllier 1992-1993
13 Aimé Jacquet 1993-1998 Vô địch World Cup 1998
14 Roger Lemerre 1998-2002 Vô địch Euro 2000
Vô địch Confed Cup 2001
15 Jacques Santini 2002-2004 Vô địch Confed Cup 2003
16 Raymond Domenech 2004-2010 Á quân World Cup 2006
17 Laurent Blanc 2010-2012
18 Didier Deschamps 2012-nay Á quân Euro 2016
Vô địch World Cup 2018
Tổng cộng

Ban huấn luyện

Cập nhật: 1 tháng 7 năm 2015.[21]
Vị trí Tên
Huấn luyện viên trưởng Didier Deschamps
Trợ lý huấn luyện viên Guy Stéphan
Huấn luyện viên thủ môn Franck Raviot
Huấn luyện viên thể lực Christophe Geoffroy
Bác sĩ Franck Le Gall
Giám đốc quản lý Marino Faccioli

Chú thích

  1. ^ “Bảng xếp hạng FIFA/Coca-Cola thế giới”. FIFA. 21 tháng 12 năm 2023. Truy cập 21 tháng 12 năm 2023.
  2. ^ Elo rankings change compared to one year ago. “World Football Elo Ratings”. eloratings.net. 30 tháng 11 năm 2022. Truy cập 30 tháng 11 năm 2022.
  3. ^ Serge Laget, " Le match par lequel tout commença " trong France Football, n°2907, 25 tháng 12 năm 2001, trang 10.
  4. ^ “IFFHS”. Truy cập 30 tháng 9 năm 2015.
  5. ^ Thierry Terret, Les paris des Jeux olympiques de 1924, Atlantica, 2008, trang 448.
  6. ^ Thierry Terret, Les paris des Jeux olympiques de 1924, op.cit., trang 449.
  7. ^ Thierry Terret, Les paris des Jeux olympiques de 1924, op.cit., trang 453.
  8. ^ Jean-Jacques Vierne, " L'heure des professionnels a enfin sonné " trong France Football, n°2907, 25 tháng 12 - 2001, trang 18.
  9. ^ " Autriche-France: 3-2 a.p. " in France Football, n°2907, 25 tháng 12 - 2001, trang 23.
  10. ^ Coll., La grande histoire de la Coupe du monde, Éditions L'Équipe, 2009, trang 13.
  11. ^ https://vnexpress.net/the-thao/anelka-bi-duoi-khoi-tuyen-phap-803908.html
  12. ^ https://vnexpress.net/the-thao/cau-thu-phap-tay-chay-tap-de-ung-ho-anelka-1153026.html
  13. ^ https://vnexpress.net/the-thao/phong-thay-do-cua-phap-noi-song-sau-tran-thua-thuy-dien-1730285.html
  14. ^ https://vnexpress.net/the-thao/4-cau-thu-phap-bi-dieu-tra-toi-pha-hoai-doi-tuyen-1776170.html
  15. ^ https://vnexpress.net/the-thao/deschamps-lam-hlv-tuyen-phap-1776497.html
  16. ^ https://vnexpress.net/bong-da/ukraine-2-0-phap-ga-trong-lam-nguy-2911027.html
  17. ^ https://vnexpress.net/bong-da/phap-lam-nen-lich-su-sau-man-tu-thua-cua-ukraine-2912672.html
  18. ^ https://news.zing.vn/world-cup-2018-tuyen-phap-co-gia-tri-cao-ngat-nguong-post843777.html
  19. ^ a b c Tính cả các trận hoà ở các trận đấu loại trực tiếp phải giải quyết bằng sút phạt đền luân lưu
  20. ^ “Dernière sélection”. fff.fr. ngày 25 tháng 8 năm 2016.
  21. ^ “Le staff des Bleus”. Liên đoàn bóng đá Pháp (bằng tiếng Pháp). ngày 5 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2010.

Tham khảo

  • Jean-Michel Cazal, Pierre Cazal, Michel Oreggia: L’intégrale de l’équipe de France de football, 1904-1998, Paris, First éd., 1998. ISBN 2-87691-437-9
  • Denis Chaumier, Les Bleus: tous les joueurs de l’équipe de France de 1904 à nos jours, Paris, Larousse, 2004. ISBN 2-03-505420-6
  • Gérard Ernault, Les Bleus en Argentine, Paris, Calmann-Lévy, 1978. ISBN 2-7021-0248-4
  • Gilles Gauthey, L’équipe de France, Paris, 1962
  • Dominique Grimault, Les Bleus: le livre officiel de l’équipe de France, Paris, Solar, 1998. ISBN 2-263-02819-6
  • Fabrice Jouhaud, Le livre d’or du football, 2005, Paris, Solar, 2005. ISBN 2-263-03855-8
  • Éric Maitrot et Karim Nedjari, L’histoire secrète des Bleus: de la gloire à la désillusion, 1993-2002, Paris, Flammarion, 2002. ISBN 2-08-068337-3
  • Marianne Mako, Ces hommes en bleu: 30 vies en confidence, Paris, France loisirs, 1999. ISBN 2-7441-2429-X
  • Alain Mercier et Cyril Pocréaux, L’aventure des bleus: les 50 plus belles histoires de l’équipe de France de football, Boulogne, Timée-éd., 2004. ISBN 2-915586-01-2
  • Stéphane Meunier et Philippe Tournon, Les yeux dans les Bleus. 2, Dans les coulisses des Bleus 2002, Paris, Canal + éd., 2002. ISBN 2-226-13289-9
  • Stéphane Meunier, Les yeux dans les Bleus, Paris, le Grand livre du mois, 1998. ISBN 2-226-10646-4
  • Gérard Rancinan et Grégoire Soussan, Ils ont fait les Bleus: Trezeguet, Henry, Djorkaeff, Dugarry, Zidane, Vieira, Petit, Thuram, Lebœuf, Desailly, Lizarazu, Candela, Barthez, Boulogne, Horizon illimité, 2002. ISBN 2-84787-025-3
  • Jean-Philippe Réthacker, L’équipe de France de football, Paris, O.D.I.L., 1976
  • Jean-Philippe Réthacker, Génération champions: équipe de France de football, Évreux; Lausanne, Éd. Atlas, 2000-2002, 6 volumes.
  • Thierry Roland, Champions d’Europe, Paris, Hachette, 1984. ISBN 2-85108-368-6
  • Jacques Thibert, Les Coqs du football, Paris, Calmann-Lévy, 1972.
  • Stéphane Verger, Poèmes Bleus (hommage à nos champions du monde 1998), Paris, Le Manuscrit, 2005. ISBN 2-7481-6170-X
  • Stéphane Verger, Nos Bleus en 3 tomes (Les 810 joueurs de l’équipe de France), Paris, Le Manuscrit, 2006.
  • Marcel Desailly, Capitaine, Paris, Stock, 2002. ISBN 2-234-05478-8
  • Aimé Jacquet, Ma vie pour une étoile, Paris, Robert Laffont/Plon, 1999. ISBN 2-7441-2904-6
  • Lilian Thuram et James Burnet, 8 juillet 1998, Paris, A. Carrière, 2004. ISBN 2-84337-241-0
  • Christian Vella, Roger Lemerre: les Bleus au cœur, Paris, Kiron-le Félin, 2002. ISBN 2-86645-449-9
  • Pierre-Louis Basse, Séville 82 France-Allemagne: le match du siècle, Paris, éd. Privé, 2005. ISBN 978-2-7103-3072-1
  • Rodolphe Baudeau, Vianney Delourme, Cyril Toulet, Le bêtisier des bleus, 1904-2004, Paris, Hors Collection, 2004. ISBN 2-258-06498-8

Liên kết ngoài

Thành tích
Tiền nhiệm:
1994
 Brasil
2004
 Đức
Vô địch thế giới
1998 (Danh hiệu đầu tiên)

2018 (Danh hiệu thứ hai)
Kế nhiệm:
2002
 Brasil
TBD
Tiền nhiệm:
1980
 Tây Đức
1996
 Đức
Vô địch châu Âu
1984 (Danh hiệu đầu tiên)

2000 (Danh hiệu thứ hai)
Kế nhiệm:
1988
 Hà Lan
2004
 Hy Lạp
Tiền nhiệm:
1999
 México
Vô địch Cúp Liên đoàn các châu lục
2001 (Danh hiệu đầu tiên)
2003 (Danh hiệu thứ hai)
Kế nhiệm:
2005
 Brasil
Tiền nhiệm:
1980
 Tiệp Khắc
Huy chương vàng Thế vận hội
1984 (Danh hiệu đầu tiên)
Kế nhiệm:
1988
 Liên Xô
Giải thưởng
Tiền nhiệm
 Brasil
Đội tuyển FIFA của năm
2001
Kế nhiệm
Brasil 
Tiền nhiệm
Anh Manchester United
Đức Mercedes-Benz F1
Đội tuyển Laureus của năm
2001 (Danh hiệu đầu tiên)
2019 (Danh hiệu thứ hai)
Kế nhiệm
Úc Đội tuyển cricket quốc gia Úc