Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam”
Việt Nam thắng Indonesia 3-0 tại Sea Games 2019 là đội U-22. Nên viết điều này trong bài của đội U-22 thay vì trong bài của đội tuyển quốc gia (không phân biệt tuổi) |
|||
Dòng 152: | Dòng 152: | ||
Sau hai kỳ SEA Games đầu tiên, liên đoàn bắt đầu thuê huấn luyện viên ngoại tiên phong với [[Karl Heinz Weigang]] và [[Edson Tavares]], cử hai đội dự đều vào bán kết [[Cúp Độc Lập]] và tập huấn tại châu Âu năm 1995. Đội lọt vào bán kết [[Bóng đá tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 1995|SEA Games cùng năm]], thắng {{nft|Myanmar}} hiệp phụ và thua {{nft|Thái Lan}} chung kết. Trận hòa {{nft|Lào}} vòng bảng [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 1996|Tiger Cup 1996]] bị nghi "bán độ" khi [[Nguyễn Hữu Thắng (cầu thủ bóng đá sinh 1972)|Nguyễn Hữu Thắng]] nhận [[thẻ đỏ|thẻ đỏ trực tiếp]], bị HLV [[Karl-Heinz Weigang|Weigang]] đòi đuổi khỏi đội tuyển còn 4 cầu thủ họ Nguyễn khác cũng dính vào nghi án. Giải này đội thua {{nft|Thái Lan}} ở bán kết và thắng Indonesia trận tranh 3/4. |
Sau hai kỳ SEA Games đầu tiên, liên đoàn bắt đầu thuê huấn luyện viên ngoại tiên phong với [[Karl Heinz Weigang]] và [[Edson Tavares]], cử hai đội dự đều vào bán kết [[Cúp Độc Lập]] và tập huấn tại châu Âu năm 1995. Đội lọt vào bán kết [[Bóng đá tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 1995|SEA Games cùng năm]], thắng {{nft|Myanmar}} hiệp phụ và thua {{nft|Thái Lan}} chung kết. Trận hòa {{nft|Lào}} vòng bảng [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 1996|Tiger Cup 1996]] bị nghi "bán độ" khi [[Nguyễn Hữu Thắng (cầu thủ bóng đá sinh 1972)|Nguyễn Hữu Thắng]] nhận [[thẻ đỏ|thẻ đỏ trực tiếp]], bị HLV [[Karl-Heinz Weigang|Weigang]] đòi đuổi khỏi đội tuyển còn 4 cầu thủ họ Nguyễn khác cũng dính vào nghi án. Giải này đội thua {{nft|Thái Lan}} ở bán kết và thắng Indonesia trận tranh 3/4. |
||
[[Bóng đá tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 1997|SEA Games 19]], đội thua Thái Lan bán kết, đạt huy chương đồng khi hạ [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Singapore|Singapore]]. Lọt qua bảng 5 đội ở [[Bóng đá tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 1999|SEA Games 20]] và thắng Indonesia bán kết, [[Alfred Riedl]] cùng Việt Nam nhìn người Thái đoạt huy chương vàng với thất bại 0-2 ở chung kết. Trước đó, Riedl dẫn đội đăng cai lần đầu một giải quốc tế là [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 1998|Tiger Cup 1998]] và nhìn Singapore lên ngôi nhờ cái lưng làm bàn của Sasi Kumar. Vòng bảng [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2000|Tiger Cup 2000]], Việt Nam "đòi nợ" thắng Singapore, thua Indonesia bán kết và thua Malaysia trận tranh 3/4. |
[[Bóng đá tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 1997|SEA Games 19]], đội thua Thái Lan bán kết, đạt huy chương đồng khi hạ [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Singapore|Singapore]]. Lọt qua bảng 5 đội ở [[Bóng đá tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 1999|SEA Games 20]] và thắng Indonesia bán kết, [[Alfred Riedl]] cùng Việt Nam nhìn người Thái đoạt huy chương vàng với thất bại 0-2 ở chung kết. Đó là lần cuối bóng đá nam tại Sea Games không giới hạn độ tuổi. Trước đó, Riedl dẫn đội đăng cai lần đầu một giải quốc tế là [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 1998|Tiger Cup 1998]] và nhìn Singapore lên ngôi nhờ cái lưng làm bàn của Sasi Kumar. Vòng bảng [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2000|Tiger Cup 2000]], Việt Nam "đòi nợ" thắng Singapore, thua Indonesia bán kết và thua Malaysia trận tranh 3/4. |
||
Với những tên tuổi mới [[Nguyễn Minh Phương (cầu thủ bóng đá)|Minh Phương]], [[Phan Văn Tài Em|Tài Em]], [[Phạm Văn Quyến|Văn Quyến]], đội đoạt huy chương đồng [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2002|Tiger Cup 2002]], bị loại ở vòng bảng [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2004|Tiger Cup 2004]], thua Thái Lan bán kết [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2007|AFF Cup 2007]]. |
Với những tên tuổi mới [[Nguyễn Minh Phương (cầu thủ bóng đá)|Minh Phương]], [[Phan Văn Tài Em|Tài Em]], [[Phạm Văn Quyến|Văn Quyến]], đội đoạt huy chương đồng [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2002|Tiger Cup 2002]], bị loại ở vòng bảng [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2004|Tiger Cup 2004]], thua Thái Lan bán kết [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2007|AFF Cup 2007]]. |
||
Dòng 287: | Dòng 287: | ||
| colspan="6" | |
| colspan="6" | |
||
|} |
|} |
||
Màu áo đấu truyền thống của Đội tuyển Việt Nam là màu đỏ, tượng trưng cho màu [[quốc kỳ Việt Nam|quốc kỳ]], còn màu áo đấu phụ của đội thường là màu trắng. Hình [[quốc kỳ Việt Nam| |
Màu áo đấu truyền thống của Đội tuyển Việt Nam là màu đỏ, tượng trưng cho màu [[quốc kỳ Việt Nam|quốc kỳ]], còn màu áo đấu phụ của đội thường là màu trắng (trừ năm 1998 là màu vàng). Hình quốc kỳ [[quốc kỳ Việt Nam|Cờ đỏ sao vàng]] thường được in trên ngực trái của áo đấu (khác với hầu hết [[Danh sách các đội tuyển bóng đá nam quốc gia|đội tuyển quốc gia]] thường hay in logo của liên đoàn/hiệp hội bóng đá hoặc in [[Quốc huy]] của quốc gia đó). Trên thế giới ngoài Việt Nam chỉ có vài đội tương tự là [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Syria|Syria]], [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Singapore|Singapore]], [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên|Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên]]. |
||
Năm 2016, lấy ý từ biệt danh "Rồng vàng", logo con rồng được thiết kế và được VFF chọn làm logo chính thức cho đội tuyển vào tháng 12 năm 2017,<ref>{{Cite web|url=https://www.foxsports.com.vn/bong-da/7929/vff-thong-qua-huy-hieu-moi-cho-cac-doi-tuyen-quoc-gia-viet-nam/|tiêu đề=VFF thông qua Huy hiệu mới cho các Đội tuyển quốc gia Việt Nam|tác giả=Fox Sports|ngày=2 tháng 12 năm 2017|nhà xuất bản=foxsports.com.vn|ngày truy cập=9 tháng 4 năm 2019|ngôn ngữ=tiếng Việt}}</ref> nhưng vì bị chê "quá xấu", "giống rồng của [[Dragon Ball - 7 viên ngọc rồng|Bảy viên ngọc rồng]]"{{Efn|Tạo hình "[[Dragon Ball]]" được sáng tác dựa theo [[Tây Du Ký]], nên con rồng thần trong truyện cũng được tạo hình dựa theo [[Rồng Trung Hoa]]. Thậm chí ngay bản gốc tiếng Nhật, nó cũng được gọi tên là "Shen Long" dựa theo âm [[tiếng Quan thoại]].}} và bị phản đối bởi đa số người dân Việt Nam nên cho đến nay logo này vẫn không được in lên áo.<ref>{{Cite web|url=https://thethaovanhoa.vn/bong-da-viet-nam/huy-hieu-khong-thay-quoc-ky-tren-ao-dau-tuyen-viet-nam-n20171202151157463.htm|title=Huy hiệu không thay quốc kỳ trên áo đấu tuyển Việt Nam|ngày=12/02/2017|website=Thể thao Văn hoá}}</ref><ref>{{Cite web|url=https://thethao.thanhnien.vn/bong-da-viet-nam/vff-khong-tu-y-chot-huy-hieu-hinh-rong-cho-cac-doi-tuyen-bong-da-viet-nam-65870.html|title=VFF không tự ý chốt huy hiệu hình rồng cho các đội tuyển bóng đá Việt Nam|ngày=07/30/2016|website=Tuổi Trẻ}}</ref><ref>{{Cite web|url=https://thethao.thanhnien.vn/bong-da-viet-nam/huy-hieu-hinh-rong-cho-cac-doi-tuyen-bong-da-viet-nam-bi-nem-da-65850.html|title=Huy hiệu hình rồng cho các đội tuyển bóng đá Việt Nam bị 'ném đá'|ngày=07/29/2016|website=Tuổi Trẻ}}</ref> Hơn nữa, trên thực tế các liên đoàn hay hiệp hội Bóng đá của các quốc gia hay vùng lãnh thổ thường in logo đồng bộ lên tất cả áo đấu của các Đội tuyển Bóng đá Nam và Nữ (cả đội tuyển Quốc gia và Đội tuyển theo các lứa tuổi), Đội tuyển Futsal và Đội tuyển Bóng đá bãi biển, do vậy việc in logo con rồng vốn ban đầu chỉ thiết kế cho Đội tuyển Quốc gia Nam là điều không hợp lý, dù là in riêng hay in đồng bộ. Trên thế giới hiện tại không có liên đoàn hay hiệp hội bóng đá nào làm điều này.{{Efn|Trên thế giới, các liên đoàn hay hiệp hội bóng đá của các quốc gia hay lãnh thổ thường in logo đồng bộ lên áo thi đấu của tất cả các đội tuyển mà họ quản lý (gồm đội tuyển nam, đội tuyển nữ, các đội tuyển trẻ, đội tuyển futsal, đội tuyển bóng đá bãi biển). |
Năm 2016, lấy ý từ biệt danh "Rồng vàng", logo con rồng được thiết kế và được VFF chọn làm logo chính thức cho đội tuyển vào tháng 12 năm 2017,<ref>{{Cite web|url=https://www.foxsports.com.vn/bong-da/7929/vff-thong-qua-huy-hieu-moi-cho-cac-doi-tuyen-quoc-gia-viet-nam/|tiêu đề=VFF thông qua Huy hiệu mới cho các Đội tuyển quốc gia Việt Nam|tác giả=Fox Sports|ngày=2 tháng 12 năm 2017|nhà xuất bản=foxsports.com.vn|ngày truy cập=9 tháng 4 năm 2019|ngôn ngữ=tiếng Việt}}</ref> nhưng vì bị chê "quá xấu", "giống rồng của [[Dragon Ball - 7 viên ngọc rồng|Bảy viên ngọc rồng]]"{{Efn|Tạo hình "[[Dragon Ball]]" được sáng tác dựa theo [[Tây Du Ký]], nên con rồng thần trong truyện cũng được tạo hình dựa theo [[Rồng Trung Hoa]]. Thậm chí ngay bản gốc tiếng Nhật, nó cũng được gọi tên là "Shen Long" dựa theo âm [[tiếng Quan thoại]].}} và bị phản đối bởi đa số người dân Việt Nam nên cho đến nay logo này vẫn không được in lên áo.<ref>{{Cite web|url=https://thethaovanhoa.vn/bong-da-viet-nam/huy-hieu-khong-thay-quoc-ky-tren-ao-dau-tuyen-viet-nam-n20171202151157463.htm|title=Huy hiệu không thay quốc kỳ trên áo đấu tuyển Việt Nam|ngày=12/02/2017|website=Thể thao Văn hoá}}</ref><ref>{{Cite web|url=https://thethao.thanhnien.vn/bong-da-viet-nam/vff-khong-tu-y-chot-huy-hieu-hinh-rong-cho-cac-doi-tuyen-bong-da-viet-nam-65870.html|title=VFF không tự ý chốt huy hiệu hình rồng cho các đội tuyển bóng đá Việt Nam|ngày=07/30/2016|website=Tuổi Trẻ}}</ref><ref>{{Cite web|url=https://thethao.thanhnien.vn/bong-da-viet-nam/huy-hieu-hinh-rong-cho-cac-doi-tuyen-bong-da-viet-nam-bi-nem-da-65850.html|title=Huy hiệu hình rồng cho các đội tuyển bóng đá Việt Nam bị 'ném đá'|ngày=07/29/2016|website=Tuổi Trẻ}}</ref> Hơn nữa, trên thực tế các liên đoàn hay hiệp hội Bóng đá của các quốc gia hay vùng lãnh thổ thường in logo đồng bộ lên tất cả áo đấu của các Đội tuyển Bóng đá Nam và Nữ (cả đội tuyển Quốc gia và Đội tuyển theo các lứa tuổi), Đội tuyển Futsal và Đội tuyển Bóng đá bãi biển, do vậy việc in logo con rồng vốn ban đầu chỉ thiết kế cho Đội tuyển Quốc gia Nam là điều không hợp lý, dù là in riêng hay in đồng bộ. Trên thế giới hiện tại không có liên đoàn hay hiệp hội bóng đá nào làm điều này.{{Efn|Trên thế giới, các liên đoàn hay hiệp hội bóng đá của các quốc gia hay lãnh thổ thường in logo đồng bộ lên áo thi đấu của tất cả các đội tuyển mà họ quản lý (gồm đội tuyển nam, đội tuyển nữ, các đội tuyển trẻ, đội tuyển futsal, đội tuyển bóng đá bãi biển). |
Phiên bản lúc 09:57, ngày 7 tháng 6 năm 2021
Biệt danh | Những Chiến Binh Sao Vàng[1] | ||
---|---|---|---|
Hiệp hội | VFF (Việt Nam) | ||
Liên đoàn châu lục | AFC (châu Á) | ||
Liên đoàn khu vực | AFF (Đông Nam Á) | ||
Huấn luyện viên trưởng | Park Hang-seo | ||
Đội trưởng | Quế Ngọc Hải | ||
Thi đấu nhiều nhất | Lê Công Vinh (85) | ||
Ghi bàn nhiều nhất | Lê Công Vinh (51) | ||
Sân nhà | Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình | ||
Mã FIFA | VIE | ||
| |||
Hạng FIFA | |||
Hiện tại | 94 (21 tháng 12 năm 2023)[2] | ||
Cao nhất | 84 (Tháng 9 năm 1998[3]) | ||
Thấp nhất | 172 (Tháng 12 năm 2006) | ||
Trận quốc tế đầu tiên | |||
Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa (1954–1976) Trung Quốc 5–3 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Trung Quốc, ngày 4 tháng 10 năm 1956) Việt Nam (1976-nay) Việt Nam 2–2 Philippines (Manila, Philippines, ngày 26 tháng 11 năm 1991)[4] | |||
Trận thắng đậm nhất | |||
Việt Nam 11–0 Guam (Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; 23 tháng 1 năm 2000) | |||
Trận thua đậm nhất | |||
Zimbabwe 6–0 Việt Nam (Kuala Lumpur, Malaysia; 26 tháng 2 năm 1997) Oman 6–0 Việt Nam (Incheon, Hàn Quốc, 29 tháng 12 năm 2003) | |||
Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam là đội tuyển bóng đá đại diện cho Việt Nam do Liên đoàn Bóng đá Việt Nam (VFF) quản lý.
Do những sự kiện lịch sử xảy ra ở nước này trong suốt thế kỷ 20 (đa phần là chiến tranh), với sự chiếm đóng của Nhật Bản ở Đông Dương, Chiến tranh Đông Dương, Chiến tranh Việt Nam, Chiến tranh biên giới Việt–Trung, Chiến tranh biên giới Tây Nam, xung đột với Thái Lan, bóng đá Việt Nam thời kỳ đó có thể được coi là vẫn còn rất sơ khai và chưa được biết đến rộng rãi ở trên toàn cầu. Thời điểm Việt Nam bị chia cắt thành hai miền 1954, có hai đội bóng đại diện cho mỗi miền và cả hai đều được kiểm soát bởi các Hiệp hội bóng đá Việt Nam tương ứng. Sau khi Việt Nam thống nhất năm 1976, hai đội bóng hợp nhất thành Đội tuyển quốc gia Việt Nam, và Hiệp hội bóng đá Việt Nam được đổi tên thành Liên đoàn bóng đá Việt Nam.
Đến đầu thế kỷ 21, Việt Nam ngày càng được chú ý vì là một đội bóng có tinh thần mạnh mẽ cùng ý chí dân tộc cao; thành tích đang dần được cải thiện. Mặc dù đội chỉ được tham gia hai kỳ Asian Cup vào năm 2007 và 2019, đội bóng đã trở thành đội đại diện đến từ Đông Nam Á có thành tích tốt nhất trong giải này khi cả hai lần đều lọt vào tứ kết. Theo xếp hạng của Liên đoàn bóng đá thế giới ở tháng 12/2020, Việt Nam xếp hạng thứ 93 trong số các đội tuyển bóng đá quốc gia.
Từ năm 1991 khi bóng đá Việt Nam gia nhập bóng đá toàn cầu, môn thể thao này sớm trở thành một phần của xã hội Việt Nam. Điều này làm cho các đội tuyển quốc gia trở thành một phần của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam. Sự phổ biến của điện thoại thông minh hiện nay giúp giới trẻ xem video các trận đấu bóng đá theo nhóm dễ dàng hơn bao giờ hết, khơi dậy sự hào hứng về đội tuyển quốc gia, bao gồm một số cầu thủ mà họ hâm mộ. Những người hâm mộ bóng đá Việt Nam được mệnh danh là một trong những người hâm mộ cuồng nhiệt nhất ở thế giới này, đất nước này cũng nổi tiếng với những lễ kỷ niệm lớn về thành tích của đội;[5] bất kể đó là đội tuyển quốc gia hay đội tuyển trẻ. Phần lớn người Việt Nam luôn luôn yêu thích bóng đá bất kể rằng đất nước họ theo thể chế chính trị, đảng phái hay ý thức hệ nào đi chăng nữa.[6]
Lịch sử
Thời kỳ đầu và sơ khai (1896-1954)
Sự ra đời và phát triển của bóng đá tại Việt Nam bắt đầu từ năm 1896 trong thời thuộc địa Pháp. Ở giai đoạn đầu, môn thể thao này chỉ được chơi giữa các công chức, thương nhân và binh lính Pháp. Người Pháp sau đó khuyến khích người Việt địa phương chơi bóng đá và một số môn thể thao khác được giới thiệu cho họ để chuyển sự quan tâm của họ khỏi chính trị, dẫn đến môn thể thao này được lan truyền sang các khu vực khác, chủ yếu là miền Bắc và miền Trung. Ngày 20 tháng 7 năm 1908, tờ Lục tỉnh Tân văn đưa tin trận cầu giữa hai đội bóng thuần cầu thủ người Việt đã được diễn ra. Đến năm 1928, một số người đứng ra thành lập Tổng cục Thể thao An Nam tại Sài Gòn, cùng trong năm ấy cử một đội bóng Việt Nam sang thi đấu ở Singapore.[7] Nhiều câu lạc bộ bóng đá địa phương sau đó đã được thành lập ở cả miền Bắc và miền Nam, mặc dù vậy phải đến sau Thế chiến II, các câu lạc bộ bóng đá trong khu vực mới bắt đầu trở nên có tổ chức hơn.
Thời kỳ chia cắt (1954-1976)
Từ ngày 21/7 năm 1954 đến ngày 2/7 năm 1976, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai vùng tập kết quân sự, dẫn đến việc có hai đội bóng riêng biệt song song cùng tồn tại đại diện cho hai nhà nước ở hai miền.
Đội tuyển Việt Nam Cộng hòa đã tham gia hai vòng chung kết AFC Asian Cup đầu tiên (AFC Asian Cup 1956 và AFC Asian Cup 1960) và kết thúc ở vị trí thứ 4 cả hai lần (các năm đó có 4 đội tham dự vòng chung kết, nếu tính cả vòng loại là 10 đội). Đội tuyển đã vô địch Đại hội Thể thao Đông Nam Á (SEA Games) (khi đó gọi là Đại hội Thể thao Bán đảo Đông Nam Á-SEAP Games) đầu tiên vào năm 1959 tại Thái Lan. Cũng trong khoảng thời gian đó, đội vượt qua vòng bảng Á vận hội 1962. Đội từng tham gia vòng loại các kỳ Thế vận hội Mùa hè 1964 và Thế vận hội Mùa hè 1968, vòng loại World Cup 1974, đánh bại Thái Lan 1-0 để đủ điều kiện tham gia các trận đấu phân loại trước khi thua trận mở màn vòng bảng của họ 0-4 trước Nhật Bản và thua tiếp 0-1 đối với Hồng Kông. Đội tuyển Việt Nam Cộng hòa đã chơi trận cuối cùng của họ với Malaysia năm 1975 khi họ thua 0-3... Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản đội bóng này từ ngày 30/4/1975.
Đội tuyển Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì ít hoạt động hơn và cũng không phải là thành viên của AFC và FIFA, chủ yếu chơi các giải của các nước xã hội chủ nghĩa từ 1956 đến 1966. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có chuyến thi đấu quốc tế đầu tiên của đội sang Trung Quốc năm 1956. Trong chuyến du đấu, đội có trận ra quân thua Trung Quốc 3-5, đá theo sơ đồ 3–2–5 với những gương mặt như Bùi Đức, Đình Te, Bùi Nghẽn, Luyến, Thưởng,...[8] và huấn luyện viên trưởng là Trương Tấn Bửu. Họ đã tham gia giải GANEFO đầu tiên tại Indonesia năm 1962 và Campuchia năm 1966.
Cả hai đội tuyển quốc gia đã sáp nhập khi hai miền Việt Nam tái thống nhất về mặt nhà nước thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi Tổng tuyển cử năm 1976. Thực hiện nguyên tắc kế thừa chính phủ, AFC và FIFA thống nhất, Đội tuyển Quốc gia Việt Nam từ năm 1976 thực hiện kế thừa các quyền, nghĩa vụ và thành tích của của Đội tuyển VNDCCH lẫn Đội tuyển VNCH trước đây.
Ở trong thời kỳ 1976 - 1991; do điều kiện kinh tế-xã hội đất nước khó khăn cũng như xảy ra chiến tranh biên giới, cơ chế lạc hậu và yếu kém nên đội tuyển bóng đá Việt Nam rất ít hoạt động tại thời điểm đó; chủ yếu tham gia vài các trận đấu giao hữu nhỏ với các nước thuộc khối XHCN anh em.
Thời kỳ tái phát triển bóng đá Việt Nam (1991-nay)
Cơ sở hình thành
Từ năm 1955, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có giải vô địch bóng đá quốc gia với tên gọi giải Hòa Bình do Nha Thể dục Trung ương tổ chức. Ngay từ khi bắt đầu, giải đấu đã có 2 hạng gồm A và B.[9] Từ 1956 giải có tên chính thức là giải bóng đá Hạng A toàn quốc.[10]. Năm 1961, Hội Bóng Đá Việt Nam (VFA), tiền thân của Liên đoàn bóng đá Việt Nam được thành lập.[11] Giải được tổ chức liên tục đến năm 1975 bất chấp tình trạng đất nước chiến tranh.
Sau khi đất nước thống nhất về mặt Nhà nước vào năm 1976, các đội bóng Việt Nam được chia thi đấu theo khu vực: miền Bắc với giải Hồng Hà, miền Trung với giải Trường Sơn và miền Nam với giải Cửu Long. Các đội vô địch mỗi khu vực sẽ ra Hà Nội để thi đấu chọn đội vô địch. Thời điểm này, tổng cộng có 40 đội tham gia ở hạng cao nhất nhưng hạng Nhất chỉ có 26 đội.[12] Trong đó:
- Giải Hồng Hà gồm 16 đội với những cái tên tiêu biểu như: Câu lạc bộ Quân đội (Thể Công), Quân khu Thủ đô, Tổng cục Đường sắt, Công an Hà Nội, Quân khu 3, Phòng không Không quân, Cảng Hải Phòng, Công nhân Xây dựng Hà Nội, Tổng cục Bưu điện, Công an Hải Phòng, Dệt Nam Định, Than Quảng Ninh, Công nhân Xây dựng Hải Phòng, Điện Hải Phòng, Công nghiệp Hà Nam Ninh, Thanh niên Hà Nội.
- Giải Trường Sơn gồm 8 đội: Thanh niên Bình Định, Phú Khánh, Công nhân Quảng Nam Đà Nẵng, Lâm Đồng, Bình Trị Thiên, Thanh niên Thanh Hoá, Sông Lam Nghệ Tĩnh, Gia Lai Kon Tum.
- Giải Cửu Long gồm 16 đội: Hải quan, Cảng Sài Gòn, Sở Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, Công nghiệp Thực phẩm, Tây Ninh, An Giang, Tiền Giang, Đồng Tháp, Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Ngân hàng, Công nhân hoá chất, Tổng cục Vật tư, Sông Bé, Long An, Đồng Nai, Cần Thơ, Vĩnh Long.
Theo thể thức này, các đội vô địch ở các giải tổ chức theo khu vực sẽ gặp nhau ở vòng chung kết ở Hà Nội để chọn đội vô địch và các đội đứng cuối ở các giải vô địch sẽ gặp nhau để tìm đội xuống hạng.
Giải năm 1979 được coi là Giải phân hạng để tiến hành sắp xếp lại hệ thống thi đấu. Cụ thể, thể thức thi đấu của năm 1980 được xây dựng trên cơ sở kết quả năm 1979, 8 đội mạnh nhất của giải Hồng Hà, 2 đội của giải Trường Sơn và 8 đội của giải Cửu Long. Các đội còn lại đá giải hạng A2. Tuy nhiên, tại mùa giải đầu tiên do Hội Bóng đá Việt Nam (tiền thân của VFF) tổ chức vào năm 1980, đương kim vô địch Thể Công đã xin rút lui để chấn chỉnh nội bộ nên giải năm 1980 chỉ có 17 đội tham dự. Đây chính là tiền đề để xây dựng Giải bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam sau này.
Giải bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam
Giải bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam (V.League), trước đây là Giải vô địch bóng đá toàn Việt Nam được ra mắt vào năm 1980 để tái phát triển bóng đá Việt Nam sau một thời gian dài xảy ra các cuộc chiến tranh. Năm 1989, sau những cải cách đổi mới, một liên đoàn bóng đá mới được thành lập. Thể thao Việt Nam bắt đầu trở lại các sự kiện quốc tế. Sau ba tháng chuẩn bị, tháng 8 năm 1989, Đại hội lần thứ nhất của liên đoàn bóng đá mới đã diễn ra tại Hà Nội, tuyên bố thành lập Liên đoàn bóng đá Việt Nam. Trịnh Ngọc Chữ, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, được bầu làm chủ tịch VFF.
Việt Nam tham gia trở lại giải nước ngoài đầu tiên của đội là SEA Games 1991 được tổ chức tại Manila với trận hòa.[13] Lần tập trung dự SEA Games năm đó, do điều kiện ở Nhổn thiếu thốn nên sau một tuần, 11 cầu thủ phía Nam (thành viên Công nhân Quảng Nam-Đà Nẵng, Hải Quan, Cảng Sài Gòn) cùng "đào ngũ".[14]
Năm 1996, Việt Nam tham gia Tiger Cup đầu tiên, nơi họ kết thúc ở vị trí thứ ba và đăng cai Tiger Cup lần thứ hai vào năm 1998, nơi họ thua 0-1 trước Singapore trong trận chung kết.
Việt Nam đăng cai AFC Asian Cup 2007 cùng với Indonesia, Malaysia và Thái Lan. Ở vòng bảng, Việt Nam đã đánh bại UAE 2-0, hòa 1-1 với một đội bóng vùng Vịnh khác là Qatar, thua 1-4 trước Nhật Bản và là đội Đông Nam Á duy nhất lọt vào tứ kết, nơi họ thua Iraq 0-2.
Kể từ năm 2007, sau hai nỗ lực không thành công trong năm 2011 và 2015, Việt Nam đã đủ điều kiện tham dự AFC Asian Cup một lần nữa khi họ có được hai trận hòa với Afghanistan và Jordan và hai chiến thắng trước Campuchia trong vòng loại AFC Asian Cup 2019. Cuối năm 2011, Việt Nam tăng 35 bậc, xếp thứ 99, trở lại top 100 FIFA sau 7 năm và dẫn đầu Đông Nam Á lần đầu tiên trong bảng xếp hạng.[15]
Tại các giải khu vực Đông Nam Á
Việt Nam tại SEA Games 16 do Vũ Văn Tư và Nguyễn Kim Hằng dẫn dắt giành một điểm, xếp cuối bảng và bị loại ngay từ vòng bảng sau khi hòa Philippines, thua Indonesia và Malaysia. Ảnh hưởng bởi vụ "đào ngũ" tại Nhổn, Vũ Văn Tư từ nhiệm sau 7 ngày dẫn dắt. Để lấp chỗ trống, liên đoàn huy động một số cầu thủ và HLV Thể Công, Nguyễn Sĩ Hiển lên làm nhiệm vụ. Đội bị loại ở vòng bảng SEA Games 17, trình làng những Nguyễn Hồng Sơn, Lê Huỳnh Đức.
Sau hai kỳ SEA Games đầu tiên, liên đoàn bắt đầu thuê huấn luyện viên ngoại tiên phong với Karl Heinz Weigang và Edson Tavares, cử hai đội dự đều vào bán kết Cúp Độc Lập và tập huấn tại châu Âu năm 1995. Đội lọt vào bán kết SEA Games cùng năm, thắng Myanmar hiệp phụ và thua Thái Lan chung kết. Trận hòa Lào vòng bảng Tiger Cup 1996 bị nghi "bán độ" khi Nguyễn Hữu Thắng nhận thẻ đỏ trực tiếp, bị HLV Weigang đòi đuổi khỏi đội tuyển còn 4 cầu thủ họ Nguyễn khác cũng dính vào nghi án. Giải này đội thua Thái Lan ở bán kết và thắng Indonesia trận tranh 3/4.
SEA Games 19, đội thua Thái Lan bán kết, đạt huy chương đồng khi hạ Singapore. Lọt qua bảng 5 đội ở SEA Games 20 và thắng Indonesia bán kết, Alfred Riedl cùng Việt Nam nhìn người Thái đoạt huy chương vàng với thất bại 0-2 ở chung kết. Đó là lần cuối bóng đá nam tại Sea Games không giới hạn độ tuổi. Trước đó, Riedl dẫn đội đăng cai lần đầu một giải quốc tế là Tiger Cup 1998 và nhìn Singapore lên ngôi nhờ cái lưng làm bàn của Sasi Kumar. Vòng bảng Tiger Cup 2000, Việt Nam "đòi nợ" thắng Singapore, thua Indonesia bán kết và thua Malaysia trận tranh 3/4.
Với những tên tuổi mới Minh Phương, Tài Em, Văn Quyến, đội đoạt huy chương đồng Tiger Cup 2002, bị loại ở vòng bảng Tiger Cup 2004, thua Thái Lan bán kết AFF Cup 2007.
Trước AFF Cup 2008, khi Henrique Calisto lần thứ 2 lên dẫn dắt, đội toàn hòa và thua giao hữu. Vào giải, Việt Nam thua Thái Lan, thắng Malaysia và Lào ở vòng bảng và vào bán kết đấu Singapore. Lượt đi cả hai đội có trận hòa không bàn thắng thì lượt về, Nguyễn Quang Hải ghi bàn duy nhất giúp Việt Nam vào chung kết. Trong trận chung kết tái đấu với Thái Lan, đội thắng 2-1 lượt đi trên sân khách. Lượt về ngày 28 tháng 12, đội bị dẫn 1-0 cho đến những phút bù giờ hiệp 2. Khi đó tổng tỉ số là 2-2 và do luật bàn thắng sân khách chưa được áp dụng, 2 đội sẽ phải đá hiệp phụ nếu kết quả giữ nguyên. Nhưng ở tình huống cố định cuối cùng, cú đá phạt hàng rào của Minh Phương được Công Vinh thực hiện đánh đầu ngược tung lưới Thái Lan giúp cho Việt Nam lần đầu lên ngôi vô địch Đông Nam Á.
Tuy nhiên hai năm sau, đương kim vô địch thua Malaysia ở bán kết AFF Cup 2010. Đội tuyển sau đó chia tay huấn luyện viên Calisto cùng cặp tiền vệ Minh Phương, Tài Em.
Năm 2012, đội dùng thầy nội Phan Thanh Hùng cho AFF Cup 2012 và bị loại từ vòng bảng, hơn Myanmar về hiệu số bàn thắng/bại nên được miễn đấu vòng loại giải lần sau.
Thời kỳ chuyển tiếp AFF Cup 2014, huấn luyện viên Miura Toshiya tiếp quản đội với các nhân tố mới như Nguyên Mạnh, Minh Tuấn, Hoàng Thịnh,...vào bán kết gặp Malaysia, thắng 2-1 lượt đi nhưng thua đối thủ 2-4 lượt về bởi những pha bóng ngớ ngẩn của hàng phòng ngự, trong đó có một quả penalty ngay đầu trận, một pha ra vòng cấm bất cẩn của thủ môn Trần Nguyên Mạnh để đối phương tâng bóng qua đầu và một bàn phản lưới nhà của Đinh Tiến Thành.
Trước và trong AFF Cup 2016, Việt Nam thắng giao hữu với Syria, Indonesia và toàn thắng vòng bảng. Ở trận bán kết Việt Nam lại một lần nữa gặp lại Indonesia, đội thua 1-2 bán kết lượt đi, và trận lượt về trên sân Mỹ Đình do pha đỡ bóng nghiệp dư của Trần Đình Đồng "kiến tạo" cho cầu thủ đội bạn sút vào lưới trống và tấm thẻ đỏ trực tiếp tai hại vì đánh nguội cầu thủ Indonesia của thủ môn Trần Nguyên Mạnh khi đã hết quyền thay người, đội thắng 2-1 sau 90 phút do công lần lượt của Văn Thanh và Minh Tuấn, nhưng không thể chống đỡ thêm ở hiệp phụ và thua thêm một bàn trên chấm phạt đền khi hậu vệ Quế Ngọc Hải phải làm thủ môn bất đắc dĩ. Chung cuộc đội thua 3-4 và bị loại.
Nòng cốt dự AFF Cup 2018 là những cầu thủ đã đoạt huy chương bạc U-23 châu Á 2018 và đứng hạng tư ASIAD 2018 như Văn Hậu, Quang Hải, Văn Đức, Đức Chinh,...cùng các cựu binh như Huy Hùng, Văn Quyết, Anh Đức và Trọng Hoàng,...[16]. Việt Nam đứng đầu bảng và vào bán kết, hạ gục Philippines cùng với tỷ số 2-1 hai lượt trận, vào chung kết hòa 2-2 Malaysia ở lượt đi trên sân khách. Lượt về trên sân nhà Mỹ Đình, Anh Đức ghi bàn duy nhất, đội thắng chung cuộc 3-2 để lần thứ hai vô địch AFF Cup.
Tại các giải châu lục và thế giới
Vòng loại World Cup 1994, do Trần Bình Sự làm huấn luyện viên ở bảng đấu có Triều Tiên, Qatar, Indonesia và Singapore, Việt Nam thắng duy nhất Indonesia loạt trận đầu sau đó thua cả bốn trận lượt về, giành vị trí chót bảng và không vượt qua vòng loại. Lư Đình Tuấn là cầu thủ đầu tiên ghi bàn tại vòng loại World Cup. Việt Nam mất vé Asian Cup 1996 vì thua Hàn Quốc. Tại vòng loại World Cup 1998 gặp Tajikistan, Turkmenistan và Trung Quốc đội toàn thua qua đó tiếp tục đứng cuối bảng và không vượt qua vòng loại. Đến Asian Cup 2000 đội tiếp tục không thể tiến vào vòng bảng vì thua Trung Quốc.
Vòng loại World Cup 2002, đội hòa một, thắng ba trận trước Mông Cổ và Bangladesh và thua Ả Rập Xê Út cả hai lượt đấu, nhìn đội Tây Á đi tiếp.
Năm 2003, Việt Nam cử đội tuyển U–23 dự vòng loại Cúp bóng đá châu Á, thua Oman với tỷ số kỉ lục 0-6, thua Hàn Quốc và thắng Nepal loạt trận đầu. Loạt trận sau thì thắng tối thiểu Hàn Quốc, Nepal rồi thua tiếp 0-2 Oman.
Năm 2004, Edson Tavares trở lại dẫn dắt đội bị loại ở vòng loại World Cup 2006 trước đó có chiến thắng duy nhất trước Maldives nhờ tạm quyền Nguyễn Thành Vinh.
Lần đầu Việt Nam đồng đăng cai và dự giải châu lục là Asian Cup 2007. Tại vòng bảng, đội hạ UAE 2-0 nhờ hai bàn thắng của Quang Thanh và Công Vinh, sau đó hòa Qatar 1-1 rồi thua ngược Nhật Bản 1-4. Đội lọt vào tứ kết và thua Iraq 0-2, đội đã vô địch Asian Cup năm đó.
Thầy trò Alfred Riedl tái ngộ thua UAE cả hai lượt đi-về vòng loại World Cup 2010 và nhận thất bại chung cuộc với tổng tỷ số là 6-0.
Vòng loại Asian Cup 2011, đội thắng 1, hòa 2 trận khác trước Liban và Syria, còn lại toàn thua trong đó thua Trung Quốc 1-6.
Vòng loại World Cup 2014, dưới sự dẫn dắt của HLV Falko Götz, đội đã hạ Ma Cao cả hai lượt trận, thua Qatar sân khách và thắng đối thủ lượt về. Hoàng Văn Phúc đưa đội dự vòng loại Asian Cup 2015 thua 5 trận, thắng trận thủ tục với Hồng Kông.
Trong chiến dịch vòng loại thứ 2 World Cup 2018, Việt Nam thua Thái Lan 0-1 và thắng Đài Loan 2-1 trên sân khách, sau đó hòa Iraq 1-1 và thua 0-3 trong trận tái đấu Thái Lan tại sân Mỹ Đình. Năm 2016, Nguyễn Hữu Thắng lên thay Miura Toshiya, đội đã thắng Đài Loan 4-1 trên sân nhà Mỹ Đình. Iraq trong trận quyết định đã hạ Việt Nam 1-0 trên sân trung lập để đi tiếp. Kết thúc ở vị trí thứ 3, Việt Nam lọt vào vòng 3 vòng loại Asian Cup 2019 đối đầu Afghanistan, Campuchia, và Jordan. Đội thắng Campuchia cả hai lượt trận, hòa 4 trận còn lại trong thời gian mà Nguyễn Hữu Thắng, Mai Đức Chung và Park Hang-seo lần lượt thay nhau dẫn dắt.
Ở bảng D Asian Cup 2019, Việt Nam khởi đầu bằng trận thua ngược Iraq 2-3 rồi thua tiếp Iran 0-2 và hạ Yemen 2-0 lượt đấu cuối. Cả đội đã phải chờ đến hết những giây phút cuối cùng của giai đoạn vòng bảng ở trận Liban thắng CHDCND Triều Tiên 4-1, mới có thể xác định được đi tiếp ở vị trí cuối của top 4 đội đứng thứ 3 có thành tích tốt nhất vì bằng Liban ở điểm số, hiệu số bàn thắng bàn thua và số bàn thắng nhưng hơn ở chỉ số fair-play. Vòng 16 đội, Việt Nam hòa 1-1 trong 120 phút thi đấu và thắng Jordan 4-2 trong loạt sút luân lưu, vào đến tứ kết thua 0-1 trước Nhật Bản. Đây là lần thứ hai Đội tuyển đi tới trận tứ kết, nhưng nó đặc biệt hơn so với năm 2007 là lần đầu tiên Đội tuyển có một trận thắng ở vòng loại trực tiếp của một giải đấu châu lục.
Vòng loại World Cup 2022, Đội tuyển Việt Nam được Tim Cahill bốc thăm vào bảng G – bảng đấu có thể nói là kì lạ khi cùng bảng với những người hàng xóm quen thuộc của khu vực Đông Nam Á: Indonesia, Malaysia, Thái Lan. Đội duy nhất không thuộc Đông Nam Á vào bảng này là UAE, cũng là một đối thủ có duyên nợ với Đội tuyển Việt Nam. Hiện tại sau 5 trận đấu, đội hòa Thái Lan 0-0 cả hai trận và đang toàn thắng các đối thủ còn lại, dẫn đầu bảng G với 11 điểm.
Trang phục, hình ảnh, sân thi đấu
Giai đoạn | Hãng trang phục |
---|---|
1995-2004 | Adidas |
2004-2005 | không có |
2006-2008 | Li-Ning |
2009-2014 | Nike (Hoa Kỳ) |
2014-nay | Grand Sport |
Trang phục sân nhà | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|
1995
|
1998
|
1999-2000
|
2001
|
2002-2003
|
2004
|
2005
|
2006-2008
|
2009
|
2010-2012
|
2012-2014
|
2014-2015
|
2016
|
2019
|
2020
|
2021
|
Trang phục sân khách | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|
1995
|
1996
|
1998
|
2003-2004
|
2004
|
2005
|
2006-2008
|
2010-2012
|
2010-2012
|
2012-2014
|
2014-2015
|
2016
|
2019
|
2020
|
2021
|
Màu áo đấu truyền thống của Đội tuyển Việt Nam là màu đỏ, tượng trưng cho màu quốc kỳ, còn màu áo đấu phụ của đội thường là màu trắng (trừ năm 1998 là màu vàng). Hình quốc kỳ Cờ đỏ sao vàng thường được in trên ngực trái của áo đấu (khác với hầu hết đội tuyển quốc gia thường hay in logo của liên đoàn/hiệp hội bóng đá hoặc in Quốc huy của quốc gia đó). Trên thế giới ngoài Việt Nam chỉ có vài đội tương tự là Syria, Singapore, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.
Năm 2016, lấy ý từ biệt danh "Rồng vàng", logo con rồng được thiết kế và được VFF chọn làm logo chính thức cho đội tuyển vào tháng 12 năm 2017,[17] nhưng vì bị chê "quá xấu", "giống rồng của Bảy viên ngọc rồng"[a] và bị phản đối bởi đa số người dân Việt Nam nên cho đến nay logo này vẫn không được in lên áo.[18][19][20] Hơn nữa, trên thực tế các liên đoàn hay hiệp hội Bóng đá của các quốc gia hay vùng lãnh thổ thường in logo đồng bộ lên tất cả áo đấu của các Đội tuyển Bóng đá Nam và Nữ (cả đội tuyển Quốc gia và Đội tuyển theo các lứa tuổi), Đội tuyển Futsal và Đội tuyển Bóng đá bãi biển, do vậy việc in logo con rồng vốn ban đầu chỉ thiết kế cho Đội tuyển Quốc gia Nam là điều không hợp lý, dù là in riêng hay in đồng bộ. Trên thế giới hiện tại không có liên đoàn hay hiệp hội bóng đá nào làm điều này.[b]
Đội không có biệt danh chính thức. Những biệt danh như "Đoàn quân áo đỏ"[21], "Những Chiến binh Sao vàng"[22] gọi theo màu áo và ngôi sao của Quốc kỳ trên áo, hay gần đây là "Rồng vàng" từ các câu chuyện truyền thuyết như Con rồng cháu tiên là do giới truyền thông Việt Nam (phát thanh, truyền hình, báo chí, mạng xã hội) tự đặt. Tại vòng loại World Cup 2022, VFF sử dụng biệt danh "Những Chiến binh Sao vàng" cho đội tuyển.[22]
Tài trợ cho đội tuyển có Yanmar, Honda[23], Suzuki, Sony và một số nhà tài trợ phụ khác. Từ năm 1995 đến 2004, hãng sản xuất trang phục thi đấu cho đội là Adidas của Đức, từ 2006 đến hết 2008 là hãng Li Ning của Trung Quốc, từ tháng 1 năm 2009, là hãng Nike của Hoa Kỳ.[24] Trang phục giai đoạn cuối năm 2014 và năm 2015 đến 2016 cho đến nay do Grand Sport của Thái Lan tài trợ.[25]
Sân nhà của đội trước năm 2003 là sân Hàng Đẫy, sau đó chuyển sang sân Mỹ Đình ở Hà Nội, được xây dựng để phục vụ cho SEA Games 2003. Đội cũng thi đấu ở sân Thống Nhất tại Tp. Hồ Chí Minh trong một số trận giao hữu hay vòng loại.
Thành phần ban huấn luyện
Vị trí | Họ tên |
---|---|
Trưởng đoàn | Nguyễn Sỹ Hiển |
Huấn luyện viên trưởng | Park Hang-seo |
Trợ lý huấn luyện viên | Lee Young-jin |
Trợ lý huấn luyện viên | Lư Đình Tuấn |
Trợ lý huấn luyện viên | Lưu Danh Minh |
Huấn luyện viên thủ môn | Nguyễn Thế Anh |
Huấn luyện viên thể lực | Park Sung-gyun |
Huấn luyện viên thể lực | Cedric Roger |
Bác sĩ | Choi Ju-young |
Bác sĩ | Trần Anh Tuấn |
Bác sĩ | Tuấn Nguyên Giáp |
Phiên dịch viên | Lê Huy Khoa |
Cán bộ đoàn | Đoàn Anh Tuấn |
Danh sách cầu thủ
29 cầu thủ chính thức được triệu tập cho Trận đấu giao hữu gặp Jordan vào ngày 31 tháng 5 và vòng loại World Cup 2022 khu vực châu Á lần lượt gặp Indonesia vào ngày 7 tháng 6, Malaysia vào ngày 11 tháng 6 và UAE vào ngày 15 tháng 6 năm 2021.
Số | VT | Cầu thủ | Ngày sinh (tuổi) | Trận | Bàn | Câu lạc bộ |
---|---|---|---|---|---|---|
23 | TM | Nguyễn Văn Toản | 26 tháng 11, 1999 | 0 | 0 | Hải Phòng |
24 | TM | Bùi Tấn Trường | 19 tháng 2, 1986 | 4 | 0 | Hà Nội |
25 | TM | Nguyễn Văn Hoàng | 17 tháng 2, 1995 | 0 | 0 | Sông Lam Nghệ An |
2 | HV | Đỗ Duy Mạnh (Đội phó 2) | 26 tháng 9, 1996 | 27 | 1 | Hà Nội |
3 | HV | Quế Ngọc Hải (Đội trưởng) | 15 tháng 5, 1993 | 46 | 3 | Viettel |
4 | HV | Bùi Tiến Dũng | 2 tháng 10, 1995 | 24 | 0 | Viettel |
5 | HV | Đoàn Văn Hậu | 19 tháng 4, 1999 | 23 | 0 | Hà Nội |
7 | HV | Nguyễn Phong Hồng Duy | 13 tháng 6, 1996 | 11 | 0 | Hoàng Anh Gia Lai |
8 | HV | Nguyễn Trọng Hoàng | 14 tháng 4, 1989 | 69 | 12 | Viettel |
16 | HV | Nguyễn Thành Chung | 8 tháng 9, 1997 | 1 | 0 | Hà Nội |
17 | HV | Vũ Văn Thanh | 14 tháng 4, 1996 | 18 | 2 | Hoàng Anh Gia Lai |
21 | HV | Trần Đình Trọng | 25 tháng 4, 1997 | 9 | 0 | Hà Nội |
27 | HV | Lê Văn Xuân | 27 tháng 2, 1999 | 0 | 0 | Hà Nội |
31 | HV | Nguyễn Thanh Bình | 2 tháng 11, 2000 | 0 | 0 | Viettel |
34 | HV | Bùi Hoàng Việt Anh | 1 tháng 1, 1999 | 0 | 0 | Hà Nội |
35 | HV | Hồ Tấn Tài | 6 tháng 11, 1997 | 0 | 0 | Topenland Bình Định |
6 | TV | Lương Xuân Trường (Đội phó 1) | 28 tháng 4, 1995 | 29 | 1 | Hoàng Anh Gia Lai |
14 | TV | Nguyễn Tuấn Anh | 16 tháng 5, 1995 | 12 | 1 | Hoàng Anh Gia Lai |
15 | TV | Phạm Đức Huy | 20 tháng 1, 1995 | 11 | 2 | Hà Nội |
19 | TV | Nguyễn Quang Hải | 12 tháng 4, 1997 | 24 | 6 | Hà Nội |
20 | TV | Phan Văn Đức | 11 tháng 4, 1996 | 14 | 2 | Sông Lam Nghệ An |
26 | TV | Trần Minh Vương | 28 tháng 3, 1995 | 4 | 0 | Hoàng Anh Gia Lai |
28 | TV | Nguyễn Hoàng Đức | 11 tháng 1, 1998 | 1 | 0 | Viettel |
33 | TV | Lý Công Hoàng Anh | 1 tháng 9, 1999 | 0 | 0 | Hồng Lĩnh Hà Tĩnh |
38 | TV | Nguyễn Hai Long | 27 tháng 8, 2000 | 0 | 0 | Than Quảng Ninh |
9 | TĐ | Nguyễn Văn Toàn | 12 tháng 4, 1996 | 27 | 4 | Hoàng Anh Gia Lai |
10 | TĐ | Nguyễn Công Phượng | 21 tháng 1, 1995 | 35 | 8 | Hoàng Anh Gia Lai |
18 | TĐ | Hà Đức Chinh | 22 tháng 9, 1997 | 6 | 1 | SHB Đà Nẵng |
22 | TĐ | Nguyễn Tiến Linh | 20 tháng 10, 1997 | 12 | 4 | Becamex Bình Dương |
Từng triệu tập
Vt | Cầu thủ | Ngày sinh (tuổi) | Số trận | Bt | Câu lạc bộ | Lần cuối triệu tập |
---|---|---|---|---|---|---|
TV | Đỗ Hùng DũngINJ | 8 tháng 9, 1993 | 19 | 0 | Hà Nội | v. Việt Nam, INJ 27 tháng 12 năm 2020 |
TM | Đặng Văn Lâm | 13 tháng 8, 1993 | 23 | 0 | Cerezo Osaka | v. Thái Lan, PRE 19 tháng 11 năm 2019 |
TM | Trần Bửu Ngọc | 26 tháng 2, 1991 | 0 | 0 | Hoàng Anh Gia Lai | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
TM | Phạm Văn Cường | 19 tháng 7, 1990 | 0 | 0 | TP Hồ Chí Minh | v. Thái Lan, 19 tháng 11 năm 2019 |
TM | Phạm Văn Phong | 3 tháng 6, 1993 | 0 | 0 | Sài Gòn | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
HV | Lê Văn Đại | 13 tháng 5, 1996 | 0 | 0 | Thanh Hóa | v. UAE, 14 tháng 11 năm 2019 PRE |
TĐ | Ngân Văn Đại | 9 tháng 2, 1992 | 2 | 0 | Hà Nội | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 PRE |
TĐ | Nguyễn Văn Quyết | 1 tháng 7, 1991 | 52 | 16 | Hà Nội | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 PRE |
TV | Nguyễn Huy Hùng | 2 tháng 3, 1992 | 24 | 0 | SHB Đà Nẵng | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 PRE |
HV | Nguyễn Đức Chiến | 24 tháng 8, 1998 | 1 | 0 | Viettel | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 INJ |
TĐ | Nguyễn Việt Phong | 22 tháng 7, 1993 | 2 | 0 | Viettel | v. UAE, 14 tháng 11 năm 2019 PRE |
TĐ | Nguyễn Trọng Hùng | 3 tháng 10, 1997 | 0 | 0 | Thanh Hóa | v. UAE, 14 tháng 11 năm 2019 PRE |
HV | Sầm Ngọc Đức | 18 tháng 5, 1992 | 2 | 0 | TP Hồ Chí Minh | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
TM | Bùi Tiến Dũng | 28 tháng 2, 1997 | 1 | 0 | TP Hồ Chí Minh | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
HV | Lục Xuân Hưng | 15 tháng 4, 1995 | 0 | 0 | Topenland Bình Định | v. Malaysia, 15 tháng 12 năm 2018 |
HV | Hồ Tuấn Tài | 16 tháng 3, 1995 | 0 | 0 | TP Hồ Chí Minh | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
HV | Nguyễn Hữu Tuấn | 6 tháng 5, 1992 | 0 | 0 | Hoàng Anh Gia Lai | v. UAE, 14 tháng 11năm 2019 |
HV | Hà Minh Tuấn | 1 tháng 1, 1991 | 0 | 0 | Quảng Nam | v. Thái Lan, 19 tháng 11 năm 2019 |
HV | Nguyễn Văn Việt | 8 tháng 12, 1989 | 0 | 0 | Hoàng Anh Gia Lai | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
TV | Giang Trần Quách Tân | 8 tháng 3, 1992 | 1 | 0 | Hồng Lĩnh Hà Tĩnh | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
HV | Vũ Xuân Cường | 6 tháng 8, 1992 | 0 | 0 | Thanh Hóa | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
HV | Nguyễn Văn Vĩ | 12 tháng 2, 1998 | 0 | 0 | Hồng Lĩnh Hà Tĩnh | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
HV | Đào Văn Nam | 10 tháng 5, 1997 | 0 | 0 | Hồng Lĩnh Hà Tĩnh | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
TĐ | Nguyễn Trần Việt Cường | 27 tháng 12, 2000 | 0 | 0 | Becamex Bình Dương | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
TV | Nguyễn Hải Huy | 18 tháng 6, 1991 | 0 | 0 | Than Quảng Ninh | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
TV | Đặng Anh Tuấn | 1 tháng 8, 1994 | 0 | 0 | SHB Đà Nẵng | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
HV | Trần Văn Công | 15 tháng 2, 1999 | 0 | 0 | Hồng Lĩnh Hà Tĩnh | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
HV | Dương Thanh Hào | 23 tháng 6, 1991 | 15 | 0 | Topenland Bình Định | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
TV | Võ Huy Toàn | 15 tháng 3, 1993 | 9 | 1 | TP Hồ Chí Minh | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
TV | Trần Văn Kiên | 13 tháng 5, 1996 | 1 | 0 | Hà Nội | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
HV | Phạm Xuân Mạnh | 9 tháng 2, 1996 | 1 | 0 | Sông Lam Nghệ An | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
HV | Đỗ Thanh Thịnh | 18 tháng 8, 1998 | 0 | 0 | SHB Đà Nẵng | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
HV | Nguyễn Minh Tùng | 9 tháng 8, 1992 | 2 | 0 | Đông Á Thanh Hóa | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
TV | Cao Văn Triền | 18 tháng 6, 1993 | 0 | 0 | Sài Gòn | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
TV | Tô Văn Vũ | 20 tháng 10, 1993 | 0 | 0 | Becamex Bình Dương | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
TV | Phan Văn Long | 1 tháng 6, 1996 | 0 | 0 | SHB Đà Nẵng | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
TĐ | Nguyễn Anh Đức | 24 tháng 10, 1985 | 36 | 12 | Long An | v. Việt Nam, 27 tháng 12 năm 2020 |
Ghi chú:
|
|
|
|
Lịch thi đấu
2019
8 tháng 1 năm 2019 Vòng bảng | Iraq | 3–2 | Việt Nam | Abu Dhabi, UAE |
---|---|---|---|---|
17:30 UTC+4 | M. Ali 35' Tariq 60' Adnan 90' |
Chi tiết | Faez 24' (l.n.) Công Phượng 42' |
Sân vận động: Sân vận động Thành phố Thể thao Zayed Lượng khán giả: 0 Trọng tài: Abdulrahman Al-Jassim (Qatar) |
12 tháng 1 năm 2019 Vòng bảng | Việt Nam | 0–2 | Iran | Abu Dhabi, UAE |
---|---|---|---|---|
15:00 UTC+4 | Chi tiết | Azmoun 38', 69' | Sân vận động: Sân vận động Al Nahyan Lượng khán giả: 10,841 Trọng tài: Muhammad Taqi (Singapore) |
16 tháng 1 năm 2019 Vòng bảng | Việt Nam | 2–0 | Yemen | Al Ain, UAE |
---|---|---|---|---|
20:00 UTC+4 | Quang Hải 38' Ngọc Hải 64' (ph.đ.) |
Chi tiết | Sân vận động: Sân vận động Hazza bin Zayed Lượng khán giả: 8,237 Trọng tài: Ahmed Al-Kaf (Oman) |
20 tháng 1 năm 2019 Vòng 16 đội | Jordan | 1–1 (s.h.p.) (2–4 p) |
Việt Nam | Dubai, UAE |
---|---|---|---|---|
17:30 UTC+4 | Abdel-Rahman 39' | Chi tiết | Công Phượng 51' | Sân vận động: Sân vận động Al Maktoum Lượng khán giả: 14,205 Trọng tài: Alireza Faghani (Iran) |
Loạt sút luân lưu | ||||
Abdel-Rahman Faisal Samir Ersan |
Quế Ngọc Hải Đỗ Hùng Dũng Lương Xuân Trường Trần Minh Vương Bùi Tiến Dũng |
24 tháng 1 năm 2019 Tứ kết | Việt Nam | 0–1 | Nhật Bản | Dubai, UAE |
---|---|---|---|---|
17:00 UTC+4 | Chi tiết | Doan 57' (ph.đ.) | Sân vận động: Sân vận động Al Maktoum Lượng khán giả: 8,954 Trọng tài: Mohammed Abdulla Hassan Mohamed (UAE) |
5 tháng 6 năm 2019 Bán kết | Thái Lan | 0–1 | Việt Nam | Buriram, Thái Lan |
---|---|---|---|---|
19:45 UTC+7 | Chi tiết | Anh Đức 90+4' | Sân vận động: Sân vận động Chang Arena Trọng tài: Jumpei Iida (Nhật Bản) |
8 tháng 6 năm 2019 Chung kết | Curaçao | 1–1 (5–4 p) |
Việt Nam | Buriram, Thái Lan |
---|---|---|---|---|
19:45 UTC+7 | Carolina 58' | Chi tiết | Đức Huy 83' | Sân vận động: Sân vận động Chang Arena Trọng tài: Wiwat Jumpaoon (Thái Lan) |
Loạt sút luân lưu | ||||
Benschop Hooi Antonia Bacuna Maria |
Nguyễn Anh Đức Nguyễn Công Phượng Nguyễn Trọng Hoàng Quế Ngọc Hải Đoàn Văn Hậu |
Vòng loại World Cup 2022 & Vòng loại Asian Cup 2023
5 tháng 9 năm 2019 Bảng G | Thái Lan | 0–0 | Việt Nam | Pathum Thani, Thái Lan |
---|---|---|---|---|
19:00 UTC+7 | Chi tiết (FIFA) Chi tiết (AFC) |
Sân vận động: Sân vận động Thammasat Lượng khán giả: 19,011 Trọng tài: Saoud Al-Athbah (Qatar) |
10 tháng 10 năm 2019 Bảng G | Việt Nam | 1–0 | Malaysia | Hà Nội, Việt Nam |
---|---|---|---|---|
18:00 UTC+7 | Quang Hải 40' | Chi tiết (FIFA) Chi tiết (AFC) |
Sân vận động: Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình Lượng khán giả: 38,256 Trọng tài: Mooud Bonyadifard (Iran) |
15 tháng 10 năm 2019 Bảng G | Indonesia | 1–3 | Việt Nam | Gianyar, Bali, Indonesia |
---|---|---|---|---|
19:30 UTC+7 | Bachdim 84' | Chi tiết (FIFA) Chi tiết (AFC) |
Duy Mạnh 26' Ngọc Hải 55' (ph.đ.) Tiến Linh 61' |
Sân vận động: Sân vận động Kapten I Wayan Dipta Lượng khán giả: 8,237 Trọng tài: Turki Al-Khudayr (Ả Rập Xê Út) |
14 tháng 11 năm 2019 Bảng G | Việt Nam | 1–0 | UAE | Hà Nội, Việt Nam |
---|---|---|---|---|
20:00 UTC+7 | Tiến Linh 43' | Sân vận động: Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình Trọng tài: Jumpei Iida (Nhật Bản) |
19 tháng 11 năm 2019 Bảng G | Việt Nam | 0–0 | Thái Lan | Hà Nội, Việt Nam |
---|---|---|---|---|
20:00 UTC+7 | Sân vận động: Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình Trọng tài: Ahmed Al-Kaf (Oman) |
2020
23 tháng 12 năm 2020 Giao hữu | Việt Nam | 3-2 | Việt Nam (U22) | Quảng Ninh, Việt Nam |
---|---|---|---|---|
18:00 UTC+7 | Văn Quyết 26' Xuân Trường 57' (ph.đ.) Đức Chinh 78' |
Văn Đạt 21' Hữu Thắng 52' (ph.đ.) |
Sân vận động: Sân vận động Cẩm Phả Trọng tài: Nguyễn Mạnh Hải (Việt Nam) |
27 tháng 12 năm 2020 Giao hữu | Việt Nam | 5-2 | Việt Nam (U22) | Phú Thọ, Việt Nam |
---|---|---|---|---|
17:00 UTC+7 | Văn Thanh 31' (ph.đ.) Quang Hải 39' |
Việt Anh 29' Thanh Minh 84' |
Sân vận động: Sân vận động Việt Trì Trọng tài: Hoàng Ngọc Hà (Việt Nam) |
2021
31 tháng 5 năm 2021 Giao hữu | Việt Nam | 1-1 | Jordan | Sharjah, UAE | ||
---|---|---|---|---|---|---|
21:00 UTC+4 | 25' (l.n.) | Faisal 13' | Sân vận động: Khalid bin Mohammed Stadium |
|||
Ghi chú: [26] |
Vòng loại World Cup 2022 & Vòng loại Asian Cup 2023
07 tháng 6 năm 2021 Bảng G | Việt Nam | – | Indonesia | Dubai, UAE |
---|---|---|---|---|
20:45 UTC+4 | Chi tiết | Sân vận động: Sân vận động Al Maktoum |
11 tháng 6 năm 2021 Bảng G | Malaysia | – | Việt Nam | Dubai, UAE |
---|---|---|---|---|
20:45 UTC+4 | Chi tiết | Sân vận động: Sân vận động Al Maktoum |
15 tháng 6 năm 2021 Bảng G | UAE | – | Việt Nam | Dubai, UAE |
---|---|---|---|---|
20:45 UTC+4 | Chi tiết | Sân vận động: Sân vận động Zabeel |
Thống kê
Thành tích tại các giải đấu quốc tế
Giải vô địch bóng đá thế giới | Vòng loại | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Kết quả | St | T | H | B | Bt | Bb | St | T | H | B | Bt | Bb | |
1994 | Không vượt qua vòng loại | 8 | 1 | 0 | 7 | 4 | 18 | |||||||
1998 | 6 | 0 | 0 | 6 | 2 | 21 | ||||||||
2002 | 6 | 3 | 1 | 2 | 9 | 9 | ||||||||
2006 | 6 | 1 | 1 | 4 | 5 | 9 | ||||||||
2010 | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | 6 | ||||||||
2014 | 4 | 3 | 0 | 1 | 15 | 5 | ||||||||
2018 | 6 | 2 | 1 | 3 | 7 | 8 | ||||||||
2022 | Chưa xác định | Chưa xác định | ||||||||||||
Tổng cộng | - | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 38 | 10 | 3 | 25 | 42 | 76 |
Cúp bóng đá châu Á | Vòng loại | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Kết quả | St | T | H | B | Bt | Bb | St | T | H | B | Bt | Bb | |
1992 | Không tham dự | Không tham dự | ||||||||||||
1996 | Không vượt qua vòng loại | 3 | 2 | 0 | 1 | 13 | 5 | |||||||
2000 | 3 | 2 | 0 | 1 | 14 | 2 | ||||||||
2004 | 6 | 3 | 0 | 3 | 8 | 13 | ||||||||
2007 | Tứ kết | 4 | 1 | 1 | 2 | 4 | 7 | Chủ nhà | ||||||
2011 | Không vượt qua vòng loại | 6 | 1 | 2 | 3 | 6 | 11 | |||||||
2015 | 6 | 1 | 0 | 5 | 5 | 15 | ||||||||
2019 | Tứ kết | 5 | 1 | 1 | 3 | 5 | 7 | 12 | 4 | 5 | 3 | 16 | 11 | |
Tổng cộng | Tứ kết | 9 | 2 | 2 | 5 | 9 | 14 | 36 | 13 | 7 | 16 | 62 | 57 |
Á vận hội | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Kết quả | St | T | H | B | Bt | Bb |
1994 | Không tham dự | ||||||
1998 | Vòng bảng | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | 6 |
Tổng cộng | Vòng bảng | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | 6 |
- Từ năm 2002 trở đi, môn bóng đá nam tại ASIAD được tổ chức cho các đội U-23 (+) tham dự. Để xem thêm thành tích của đội tuyển bóng đá Việt Nam tại ASIAD, xem thêm mục Đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Việt Nam.
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Kết quả | St | T | H | B | Bt | Bb |
1996 | Hạng ba | 6 | 3 | 2 | 1 | 14 | 10 |
1998 | Á quân | 5 | 3 | 1 | 1 | 8 | 2 |
2000 | Hạng tư | 6 | 3 | 1 | 2 | 14 | 6 |
2002 | Hạng ba | 6 | 4 | 1 | 1 | 21 | 12 |
2004 | Vòng bảng | 4 | 2 | 1 | 1 | 13 | 5 |
2007 | Bán kết | 5 | 1 | 3 | 1 | 10 | 3 |
2008 | Vô địch | 7 | 4 | 2 | 1 | 11 | 6 |
2010 | Bán kết | 5 | 2 | 1 | 2 | 8 | 5 |
2012 | Vòng bảng | 3 | 0 | 1 | 2 | 2 | 5 |
2014 | Bán kết | 5 | 3 | 1 | 1 | 12 | 8 |
2016 | Bán kết | 5 | 3 | 1 | 1 | 8 | 6 |
2018 | Vô địch | 8 | 6 | 2 | 0 | 15 | 4 |
Tổng cộng | Vô địch | 65 | 34 | 17 | 14 | 136 | 72 |
SEA Games | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Kết quả | St | T | H | B | Bt | Bb |
1991 | Vòng bảng | 3 | 0 | 1 | 2 | 3 | 5 |
1993 | Vòng bảng | 3 | 1 | 0 | 2 | 1 | 3 |
1995 | Á quân | 6 | 4 | 0 | 2 | 10 | 8 |
1997 | Hạng ba | 6 | 3 | 1 | 2 | 9 | 6 |
1999 | Á quân | 6 | 4 | 1 | 1 | 14 | 2 |
Tổng cộng | Vô địch | 79 | 46 | 9 | 24 | 177 | 82 |
- Từ năm 2001, môn bóng đá nam tại các kỳ SEA Games được tổ chức cho các đội U-23(+) tham gia.
Đối đầu
- Cập nhật lần cuối ngày 1 tháng 6 năm 2021.[27]
Đội tuyển quốc gia | St | T | H | B | Bt | Bb |
---|---|---|---|---|---|---|
Algérie | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 | 5 |
Afghanistan | 2 | 0 | 2 | 0 | 1 | 1 |
Albania | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 | 5 |
Bahrain | 1 | 1 | 0 | 0 | 5 | 3 |
Bangladesh | 2 | 1 | 1 | 0 | 4 | 0 |
Bosna và Hercegovina | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 | 4 |
Campuchia | 11 | 9 | 2 | 0 | 48 | 10 |
Trung Quốc | 12 | 0 | 1 | 11 | 12 | 37 |
Cuba | 1 | 1 | 0 | 0 | 2 | 1 |
Curaçao | 1 | 0 | 0 | 1 | 1 | 1 |
Đài Bắc Trung Hoa | 4 | 3 | 1 | 0 | 11 | 4 |
Estonia | 1 | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 |
Guam | 2 | 2 | 0 | 0 | 20 | 0 |
Hồng Kông | 7 | 4 | 1 | 2 | 11 | 8 |
Ấn Độ | 2 | 1 | 0 | 1 | 3 | 4 |
Indonesia | 27 | 6 | 9 | 12 | 32 | 41 |
Iran | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 | 2 |
Iraq | 4 | 0 | 1 | 3 | 3 | 7 |
Jamaica | 1 | 1 | 0 | 0 | 3 | 0 |
Nhật Bản | 4 | 0 | 0 | 4 | 1 | 10 |
Jordan | 4 | 1 | 3 | 0 | 3 | 3 |
Kazakhstan | 1 | 1 | 0 | 0 | 2 | 1 |
CHDCND Triều Tiên | 19 | 1 | 5 | 13 | 12 | 42 |
Hàn Quốc | 6 | 1 | 0 | 5 | 2 | 17 |
Kuwait | 2 | 1 | 0 | 1 | 2 | 3 |
Lào | 12 | 11 | 1 | 0 | 56 | 4 |
Liban | 4 | 1 | 2 | 1 | 4 | 4 |
Ma Cao | 2 | 2 | 0 | 0 | 13 | 1 |
Malaysia | 20 | 12 | 3 | 5 | 26 | 19 |
Maldives | 2 | 1 | 0 | 1 | 4 | 3 |
Mozambique | 1 | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 |
Mông Cổ | 3 | 3 | 0 | 0 | 8 | 1 |
Myanmar | 11 | 7 | 3 | 1 | 34 | 10 |
Nepal | 2 | 2 | 0 | 0 | 7 | 0 |
Oman | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | 8 |
Palestine | 1 | 0 | 0 | 1 | 1 | 3 |
Philippines | 12 | 9 | 1 | 2 | 26 | 11 |
Qatar | 6 | 2 | 1 | 3 | 5 | 14 |
Ả Rập Xê Út | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | 9 |
Singapore | 18 | 7 | 7 | 4 | 19 | 15 |
Sri Lanka | 4 | 1 | 3 | 0 | 7 | 6 |
Syria | 3 | 1 | 1 | 1 | 2 | 1 |
Tajikistan | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | 8 |
Thái Lan | 24 | 3 | 6 | 15 | 18 | 41 |
Turkmenistan | 6 | 1 | 0 | 5 | 4 | 12 |
UAE | 6 | 2 | 0 | 4 | 4 | 13 |
Uzbekistan | 2 | 0 | 0 | 2 | 1 | 6 |
Yemen | 2 | 2 | 0 | 0 | 11 | 0 |
Zimbabwe | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 | 6 |
Tổng cộng | 238 | 99 | 51 | 88 | 382 | 336 |
Các cầu thủ
- Những cầu thủ được in đậm là những cầu thủ đang tiếp tục thi đấu cho đội tuyển Việt Nam.
|
|
Các đội trưởng
Đội trưởng | Thời gian | Ghi chú |
---|---|---|
Quế Ngọc Hải | 2018 - nay | Đội trưởng trong 2 trận chung kết AFF Cup 2018 |
Nguyễn Văn Quyết | 2017 - 2018 | Đội trưởng trong chức vô địch AFF Cup 2018 |
Lê Công Vinh | 2014 - 2016 | |
Lê Tấn Tài | 2013 - 2014 | |
Nguyễn Minh Đức | 2012 - 2013 | |
Phan Văn Tài Em | 2008, 2011 | Đội trưởng trong chức vô địch AFF Cup 2008 |
Nguyễn Minh Phương | 2004 - 2007, 2009 - 2010 | |
Lê Huỳnh Đức | 2000 - 2004 | |
Trần Công Minh | 1996 - 2000 | |
Nguyễn Mạnh Cường | 1995 - 1996 |
Các huấn luyện viên
Đã hoặc đang tại vị | Thời gian | Trận | Thắng | Hòa | Bại | Lý do ra đi | Thành tích |
---|---|---|---|---|---|---|---|
Park Hang-seo | 11 tháng 10 năm 2017[28]–nay | 22 | 11 | 8 | 3 | Chưa có | Vô địch AFF cup 2018 Huy chương vàng Sea Games (2019) |
Mai Đức Chung (tạm quyền) | 27 tháng 8 năm 2017[29]–10 tháng 10 năm 2017[28] | 2 | 2 | 0 | 0 | ||
Nguyễn Hữu Thắng | Tháng 3, 2016[30]–Tháng 8, 2017[29] | 15 | 8 | 5 | 2 | Từ chức | Vô địch AYA Bank Cup 2016 |
Toshuya Miura | Tháng 5, 2014[31]–Tháng 3, 2016[30] | 13 | 7 | 3 | 3 | Bị sa thải | |
Hoàng Văn Phúc | Tháng 1, 2013–Tháng 4, 2014[32] | 3 | 1 | 0 | 2 | Chia tay | |
Nguyễn Văn Sỹ (tạm quyền) | Tháng 10, 2013–Tháng 11, 2013 | 4 | 1 | 0 | 3 | ||
Phan Thanh Hùng | Tháng 8, 2012[31]–Tháng 12, 2012 | 14 | 5 | 5 | 4 | Bị sa thải | |
Falko Götz | Tháng 6, 2011–Tháng 12, 2011[31] | 5 | 3 | 0 | 2 | Bị sa thải | |
Mai Đức Chung (tạm quyền) | 2011[29] | ||||||
Henrique Calisto | Tháng 3, 2008[31]–Tháng 3, 2011 | 42 | 11 | 11 | 20 | Chia tay | Vô địch AFF cup 2008 |
Alfred Riedl | 2005–Tháng 12, 2007[31] | 23 | 8 | 8 | 7 | Bị sa thải | |
Trần Văn Khánh (tạm quyền) | 2004[33] | 1 | 1 | 0 | 0 | ||
Edson Tavares | Tháng 3, 2004–Tháng 12, 2004 | 11 | 4 | 1 | 6 | Bị sa thải | |
Nguyễn Thành Vinh (tạm quyền) | Tháng 1, 2004– Tháng 3, 2004 | 1 | 1 | 0 | 0 | ||
Alfred Riedl | Tháng 2, 2003–Tháng 10, 2003 | 7 | 3 | 0 | 4 | Bị sa thải | |
Henrique Calisto | Tháng 8, 2002–Tháng 12, 2002 | 10 | 5 | 3 | 2 | Chia tay | |
Dido | 2001 | 6 | 3 | 1 | 2 | Bị sa thải | |
Alfred Riedl | Tháng 8, 1998 – 2000 | 31 | 16 | 6 | 9 | Từ chức | Á quân Tiger cup 1998 |
Colin Murphy | Tháng 10, 1997 | 6 | 3 | 1 | 2 | Bị sa thải | |
Lê Đình Chính (tạm quyền) | 1997[34] | 1 | 0 | 0 | 1 | ||
Trần Duy Long | 1997[34] | 5 | 0 | 0 | 5 | Bị sa thải do thua 5 trận | |
Karl-Heinz Weigang | 1995–Tháng 6, 1997 | Bị sa thải | Huy chương bạc Sea Games (1995, 1999)
Huy chương đồng Sea Games 1995 | ||||
Edson Tavares | 1995 | Bị sa thải | |||||
Trần Duy Long (tạm quyền) | 1994 | 1 | 1 | 0 | 0 | ||
Trần Bình Sự | 1993 | 11 | 2 | 0 | 9 | Bị sa thải | |
Nguyễn Sỹ Hiển | 1991[33] | 3 | 0 | 1 | 2 | Bị sa thải | |
Vũ Văn Tư | 1991 |
Danh hiệu
Chính thức bao gồm cả đội tuyển quốc gia của chế độ và chính thể cũ tức Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa (1949-1954)
Châu lục
- Đại hội thể thao châu Á (Là đội tuyển quốc gia cao cấp cho đến năm 1998, kể từ năm 2002, nó là 1 giải đấu Olympic.)
-Vị trí thứ tư (1): 1962, 2018
-Tứ kết (1): 1958
- AFC Asian Cup
-Vị trí thứ tư (2): 1956, 1960 (Bao gồm cả thành tích của đội tuyển quốc gia Chính phủ Miền Nam B)
-Tứ kết (2): 2007, 2019
Khu vực
- Cúp Ngân hàng AYA 2016
-Vị trí thứ nhất, (các) huy chương vàng Vô địch (1): 2016
- Cúp VFF
-Vị trí thứ 2, (các) huy chương bạc Á quân (3): 2004, 2006, 2009
-Hạng 3, (các) huy chương đồng Hạng ba (1): 2012
- Giải đấu Merdeka
-Vị trí thứ nhất, (các) huy chương vàng Vô địch (1): 1966
- Cúp nhà vua
-Vị trí thứ 2, (các) huy chương bạc Á quân (2): 2006, 2019
-Hạng 3, (các) huy chương đồng Vị trí thứ ba (2): 1969, 1971
- Giải vô địch AFF
-Vị trí thứ nhất, (các) huy chương vàng Vô địch (2): 2008, 2018
-Vị trí thứ 2, (các) huy chương bạc Á quân (1): 1998
-Hạng 3, (các) huy chương đồng Hạng ba (2): 1996, 2002, 2007, 2010, 2014, 2016
- Đại hội thể thao Đông Nam Á (với tư cách là đội tuyển quốc gia cao cấp cho đến năm 1999, từ năm 2001 chỉ có đội Olympic tham gia)
-Vị trí thứ nhất, (các) huy chương vàng Vô địch (1): 1959 (Nam Việt Nam), 2019
-Vị trí thứ 2, (các) huy chương bạc Á quân (4): 1967, 1973, 1995, 1999, 2003, 2005, 2009
-Hạng 3, (các) huy chương đồng Vị trí thứ ba (4): 1961, 1965, 1971, 1997, 2015
Đối thủ
Thái Lan
Xem thêm: Lịch sử đối đầu giữa Việt Nam - Thái Lan
Thái Lan thường được xem là đối thủ lớn nhất của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á kể từ khi Việt Nam quay trở lại đấu trường quốc tế vào năm 1991.[35] Tính đến sau cuộc đối đầu giữa hai đội ngày 19 tháng 11 năm 2019 ở lượt trận thứ năm vòng loại thứ 2 của World Cup 2022, Việt Nam đã đối đầu với Thái Lan trong 24 trận ở cấp độ đội tuyển quốc gia, và chỉ có 3 chiến thắng, còn lại là 6 trận hòa và 15 trận thua.[36]
Trong giai đoạn bóng đá Việt Nam khởi sắc từ năm 2018 tới nay, đội đã giành được chiến thắng trước Thái Lan. Cầu thủ nổi tiếng Thái Lan Sutee Suksomkit cho rằng bóng đá Việt Nam đã rút ngắn đáng kể khoảng cách so với Thái Lan và không còn e ngại khi gặp đội bóng nước này.
Indonesia
xem thêm: Lịch sử đối đầu giữa Việt Nam - Indonesia
Indonesia được xem là một đối thủ nhiều duyên nợ của bóng đá Việt Nam. Trong suốt giai đoạn 20 năm từ 1999-2019, Việt Nam chỉ hòa và thua khi đối đầu với Indonesia tại các giải đấu chính thức.[37] Chuỗi trận không thắng này bắt đầu kể từ sau trận thắng 1-0 trước Indonesia ngày 12 tháng 8 năm 1999 tại bán kết môn bóng đá của SEA Games 1999, và kéo dài 12 trận, với 7 trận hòa và 5 trận thua, và chấm dứt khi Việt Nam thắng 3-1 trên sân của Indonesia ngày 15 tháng 10 năm 2019 tại vòng loại thứ hai của World Cup 2022. Trong giai đoạn này, Việt Nam chỉ có một lần thắng Indonesia 3-2 trong trận đấu giao hữu trên sân Mỹ Đình ngày 8 tháng 11 năm 2016.
Malaysia
xem thêm: Lịch sử đối đầu giữa Việt Nam - Malaysia
Việt Nam áp đảo về thành tích đối đầu trước Malaysia với 12 trận thắng, 3 trận hòa và chỉ 5 lần thất bại trong 20 lần chạm trán với đối thủ này[38]. Đội tuyển cũng đang duy trì mạch trận bất bại trước Malaysia kể từ năm 2014.
Tham khảo
- ^ VFF (25 tháng 5 năm 2021). “Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc chúc các chiến binh sao vàng giành vé vào vòng loại thứ ba World Cup 2022”. vff.org.vn.
- ^ “Bảng xếp hạng FIFA/Coca-Cola thế giới”. FIFA. 21 tháng 12 năm 2023. Truy cập 21 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Vietnam National Football Team: FIFA Ranking”. FIFA Ranking.net. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2018.
- ^ “Vietnam matches, ratings and points exchanged”. World Football Elo Ratings: Vietnam. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2016.
- ^ Ralph Jennings (ngày 19 tháng 12 năm 2018). “Wild Post-Game Street Partying in Vietnam Reveals Surge in Patriotism”. Voice of America. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2019.
- ^ Tuan Hoang (ngày 26 tháng 1 năm 2018). “Vietnamese nationalism & the U23 Asian championship tournament”. Tuanny River. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2019.
- ^ Dương Trung Quốc. “Một Trăm năm bóng đá Việt Nam”. Vietnamnet. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Quái chiêu Hà Nội: Tòng "cháy" & tuyệt chiêu”. Thể thao & Văn hóa Online. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2009.
- ^ “CLB Viettel sẽ viết tiếp thương hiệu "đội bóng áo lính"?”. Báo Công an nhân dân điện tử.
- ^ “Trích báo Nhân Dân số ngày 9 Tháng Một 1961”. 9 tháng 1 năm 1961.
- ^ “VFF - Giới thiệu”. VFF. Truy cập 5 Tháng sáu 2021.
- ^ “Bóng đá Việt Nam: 40 năm từ A1 đến V-League”. BaoQuangBinh.
- ^ “BĐVN sau đỉnh AFF Cup: Lối mòn hay lộ trình?”. Vietnamnet. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2009.
- ^ “Xung quanh sự cố "mất hộ chiếu" của Hồng Sơn: Lời thì thầm của con gấu”. Thể thao & Văn hóa Online. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2010.
- ^ “Đại nhảy vọt, Việt Nam vào top 100 BXH FIFA”. thethaovanhoa.vn. 21 Tháng mười hai 2011. Truy cập 5 Tháng sáu 2021.
- ^ VnExpress. “HLV Park Hang-seo gọi 8 cầu thủ Hà Nội lên tuyển Việt Nam”. vnexpress.net. Truy cập 5 Tháng sáu 2021.
- ^ Fox Sports (2 tháng 12 năm 2017). “VFF thông qua Huy hiệu mới cho các Đội tuyển quốc gia Việt Nam”. foxsports.com.vn. Truy cập 9 tháng 4 năm 2019.
- ^ “Huy hiệu không thay quốc kỳ trên áo đấu tuyển Việt Nam”. Thể thao Văn hoá. 2 tháng 12 năm 2017.
- ^ “VFF không tự ý chốt huy hiệu hình rồng cho các đội tuyển bóng đá Việt Nam”. Tuổi Trẻ. 30 tháng 7 năm 2016.
- ^ “Huy hiệu hình rồng cho các đội tuyển bóng đá Việt Nam bị 'ném đá'”. Tuổi Trẻ. 29 tháng 7 năm 2016.
- ^ “Bản lĩnh của đoàn quân áo đỏ”. Tuổi trẻ Online. 6 tháng 6 năm 2019.
- ^ a b “Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc chúc các chiến binh sao vàng giành vé vào vòng loại thứ ba World Cup 2022”. VFF. 25 tháng 5 năm 2021.
- ^ “Honda Vietnam becomes main sponsor for National Team”. VFF. 4 tháng 2 năm 2013. Truy cập 4 tháng 2 năm 2013.[liên kết hỏng]
- ^ “Từ tháng 1/2009, ĐTVN sẽ mặc áo đấu Nike”. Thể thao & Văn hóa Online. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2009.
- ^ “Đội tuyển Việt Nam có trang phục thi đấu mới”. Thanh Niên Online. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2014.
- ^ thao 247, Thể (9 tháng 3 năm 2020). “NÓNG: ĐT Việt Nam sẽ đá giao hữu với Jordan”. Thể thao 247.
- ^ “Thành tích đối đấu giữa các đội tuyển trên trang chủ của FIFA”. Truy cập 28 tháng 03 năm 2018.[liên kết hỏng]
- ^ a b “Park Hang-seo ra mắt trên cương vị HLV trưởng tuyển Việt Nam”. https://thethao.vnexpress.net. VNE. Truy cập 11 tháng 10 năm 2017. Liên kết ngoài trong
|website=
(trợ giúp) - ^ a b c “HLV Mai Đức Chung lần thứ 3 "đóng thế"”. SGGP. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2017.
- ^ a b “HLV Hữu Thắng: "Mourinho cũng bị sa thải, huống hồ tôi"”. Báo Tuổi trẻ. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2016.
- ^ a b c d e Phúc Long (ngày 6 tháng 9 năm 2018). “10 HLV trước ông Park: Một người được gia hạn, 9 người bị sa thải”. zing.vn.
- ^ Quỳnh Cao. “HLV Hoàng Văn Phúc chính thức rời ghế thuyền trưởng ĐTVN”. zing.vn. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2014.
- ^ a b “Các đời HLV nội của tuyển Việt Nam”. ngoisao.net. ngày 10 tháng 5 năm 2012.
- ^ a b “Vietnam sacked”. AFP. 31 tháng 10 năm 1997.
- ^ toquoc.vn. “Thống kê lịch sử đối đầu của Đội tuyển Việt Nam và Đội tuyển Thái Lan”. toquoc.vn. Truy cập 5 Tháng sáu 2021.
- ^ “Lịch sử đối đầu Việt Nam vs Thái Lan: Niềm tin từ King's Cup 2019”. Truy cập 5 Tháng sáu 2021.
- ^ “Đội tuyển Việt Nam chấm dứt 20 năm không thắng Indonesia”. Đại đoàn kết. Truy cập 5 Tháng sáu 2021.
- ^ VnExpress. “Lịch sử đối đầu giữa tuyển Việt Nam và Malaysia - VnExpress”. video.vnexpress.net. Truy cập 5 Tháng sáu 2021.
Ghi chú
- ^ Tạo hình "Dragon Ball" được sáng tác dựa theo Tây Du Ký, nên con rồng thần trong truyện cũng được tạo hình dựa theo Rồng Trung Hoa. Thậm chí ngay bản gốc tiếng Nhật, nó cũng được gọi tên là "Shen Long" dựa theo âm tiếng Quan thoại.
- ^ Trên thế giới, các liên đoàn hay hiệp hội bóng đá của các quốc gia hay lãnh thổ thường in logo đồng bộ lên áo thi đấu của tất cả các đội tuyển mà họ quản lý (gồm đội tuyển nam, đội tuyển nữ, các đội tuyển trẻ, đội tuyển futsal, đội tuyển bóng đá bãi biển).
Logo thường khộng phải là hình Quốc kỳ, mà là logo của chính liên đoàn hay hiệp hội bóng đá (như Anh, Pháp, Brasil, Argentina, Nhật Bản,...) hoặc logo được thiết kế từ Quốc huy (như Đức, Tây Ban Nha, Ba Lan, Indonesia,...), và in thêm tên của liên đoàn/hiệp hội bóng đá, có thể viết đầy đủ như ở logo đội Đức (Deutscher Fussball-Bund) hoặc viết tắt như ở logo đội Pháp (FFF), Nhật Bản (JFA), Tây Ban Nha (RFEF),...
Tuy vậy, Quốc kỳ thường được in lên áo của các đội tuyển bóng đá tham dự một Đại hội thể thao như Sea Games, Asian Games, Olympic, vì các đội tuyển thi đấu dưới tư cách đại diện từ một đoàn thể thao của một quốc gia hay vùng lãnh thổ.
Xem thêm
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam. |
Liên kết ngoài
- Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam trên trang chủ của FIFA
- VFF - Đội tuyển Quốc gia Nam